Thứ nhất, cần mở rộng thẩm quyền của
Tòa án trong xét xử các vụ án hành chính,
nghĩa là cần nghiên cứu quy định các quyết
định chính sách (quyết định phê duyệt quy
hoạch, quyết định thay cây xanh đô thị -
những quyết định có liên quan đến nhiều
người) cũng là đối tượng thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa hành chính. Thực tế hiện nay
cho thấy có rất nhiều các quyết định hành
chính loại này chưa có một cơ chế giải quyết
cụ thể, hiệu quả. Ví dụ, Quyết định số 6816/
QĐ-UBND của TP Hà Nội ngày 11/11/2013
phê duyệt Đề án cải tạo, bổ sung và trồng thay
thế 6.700 cây xanh đô thị trên một số tuyến
phố của Sở Xây dựng. Khi triển khai Đề án
này trên thực tế đã có sự bức xúc, phản ứng
từ phía người dân nhưng vụ việc này không
thuộc thẩm quyền thụ lý của Tòa án.
Thứ hai, cần nghiên cứu trao cho Tòa
án nhân dân tối cao quyền xem xét và hủy
bỏ hay đình chỉ thi hành các quyết định hành
chính quy phạm trái với Hiến pháp, pháp luật
do chính quyền địa phương ban hành. Pháp
luật hiện hành mới chỉ quy định quyền kiến
nghị cơ quan có thẩm quyền đình chỉ, sửa
đổi, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật
trái với Hiến pháp, pháp luật. Việc bảo đảm
tính hợp hiến, hợp pháp của các quyết định
hành chính quy phạm do chính quyền địa
phương ban hành cũng góp phần bảo đảm
xây dựng hệ thống pháp luật được đồng bộ,
thống nhất. Bảo đảm có được một hệ thống
cơ quan độc lập trong việc xem xét lại tính
hợp hiến, hợp pháp của các quyết định hành
chính quy phạm.
Thứ ba, cần nghiên cứu bổ sung tiêu
chí xem xét các quyết định hành chính/hành
vi hành chính ngoài tính hợp pháp còn đảm
bảo tính hợp lý để có thể bảo đảm các quyết
định hành chính/hành vi hành chính được
ban hành bởi các chủ thể phải đáp ứng cả tiêu
chuẩn hợp lý (tính khả thi, chi phí thực hiện,
điều kiện thực hiện, các giải pháp lựa chọn
trong quyết định hay thực hiện hành vi).
Tóm lại, kiểm soát thực hiện quyền
hành pháp có thể thực hiện qua nhiều cơ chế
khác nhau, và kiểm soát của Tòa án là một
trong những kênh đảm bảo tính độc lập. Để
thực hiện mục tiêu kiểm soát QLNN, hạn
chế lạm quyền, kiểm soát tham nhũng, hạn
chế sự thâu tóm các cơ quan HCNN của các
tập đoàn kinh tế lớn thì Nhà nước cần phải
đẩy mạnh hoạt động kiểm soát thực hiện
quyền hành pháp. Đặc biệt là mở rộng thẩm
quyền và các tiêu chí xem xét lại các quyết
định hành chính của Tòa án sẽ góp phần hạn
chế được tham nhũng, nâng cao kỷ luật, kỷ
cương, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của các cá nhân, tổ chức
68 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 168 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu Lập pháp - Số 17 - Năm 2019, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổi và người từ đủ 15 đến
chưa đủ mười tám. Trong khi đó, những vấn
đề liên quan đến các chủ thể có độ tuổi dưới
mười lăm lại được quy định rải rác ở các điều
luật khác. Ví dụ: người dưới 6 tuổi, hoặc từ
đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi không được lập di
chúc nhưng không được quy định cụ thể là
suy luận từ khoản 2, 3 Điều 21 BLDS năm
2015 hay trường hợp người bị hạn chế về mặt
thể chất, họ không xuất hiện trong Điều 625
BLDS năm 2015 nhưng lại xuất tại khoản 3
Điều 630 BLDS năm 2015 với địa vị pháp
lý giống chủ thể được quy định tại Điều 625
BLDS năm 2015. Vì vậy, cần sửa đổi nội
dung của Điều 625 về người lập di chúc dưới
15 tuổi theo hướng xác định rõ giá trị pháp lý
của hành vi này (như kinh nghiệm của Thái
Lan, tại Điều 1703 BLDS Thái Lan quy định
rõ: “Di chúc do một người chưa đủ mười lăm
tuổi lập thì không có giá trị”).
Thứ tư, cách đặt điều kiện minh mẫn,
sáng suốt đối với người lập di chúc là chưa
thực sự logic và khoa học
BLDS năm 2015 dành cả Điều 625 để
ghi nhận về cá nhân được lập di chúc. Nhưng
quy định tại khoản 1 điều này lại kết nối với
Điều 630 để ràng buộc điều kiện cũng như
khoanh vùng loại bỏ tư cách chủ thể lập di
chúc. Sự kết nối hay dẫn chiếu này không
sai phạm về mặt lập pháp nhưng lại trở thành
thiếu sót khi kết hợp với quy định khoản 2.
Với sự xuất hiện của hai khoản này, người
đọc sẽ hiểu rằng điều kiện về sự minh mẫn,
sáng suốt chỉ cần đặt ra đối với người thành
niên, còn người từ đủ mười lăm đến chưa đủ
mười tám tuổi vì có sự đồng ý của cha, mẹ
hoặc người giám hộ nên sẽ không cần đến
điều kiện này nữa. Nhưng khi nghiên cứu
Điều 630 một cách độc lập, chúng tôi nhận
thấy, quy định tại khoản 1 Điều này là bắt
buộc áp dụng đối với tất cả mọi chủ thể lập
di chúc. Và như vậy, di chúc do người thành
niên hay người từ đủ mười lăm đến chưa đủ
mười tám tuổi lập cũng phải thỏa mãn điều
kiện về người lập di chúc phải minh mẫn,
sáng suốt. Cho nên, cách dẫn nhập tại khoản
1 Điều 625 tới Điều 630 là không cần thiết.
Thậm chí, quy định liên quan tới người từ
đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi tại
khoản 2 Điều 625 gần như được nhắc lại y
nguyên quy định tại khoản 2 Điều 630. Điều
này cho thấy sự không cần thiết trong cách
thức viện dẫn về người có quyền lập di chúc
và điều kiện về người lập di chúc khi xác
định tính hợp pháp của di chúc.
Thứ năm, cách thức sử dụng từ ngữ
thiếu tính thống nhất dẫn tới nhầm lẫn hoặc
mâu thuẫn trong hoạt động thực hiện và áp
dụng pháp luật
Khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015
quy định: “Di chúc của người bị hạn chế về
thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và
có công chứng hoặc chứng thực”. Quy định
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 17(393) T9/2019
này có một số vấn đề cần được làm rõ như sau:
Một là, nếu ghi nhận những thuật ngữ
này có hàm ý chỉ những cá nhân có trạng
thái thể chất khác nhau thì điểm khác nhau
ở đây là gì? Hay đơn thuần, người có khó
khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là
người bị Tòa án tuyên còn người có khiếm
khuyết về mặt thể chất chưa bị Tòa án
tuyên. Cách hiểu này chưa đưa tới câu trả
lời thỏa đáng cho quy định tại khoản 3 Điều
630 BLDS năm 2015. Vì trong quy định về
thừa kế theo di chúc, người có khó khăn
trong nhận thức và làm chủ hành vi không
được đề cập tới một cách cụ thể. Còn người
khiếm khuyết về mặt thể chất lại được thực
hiện quyền lập di chúc. Quy định như vậy
dễ dẫn tới sự hiểu lầm, người có khó khăn
trong nhận thức và làm chủ hành vi không
được quyền lập di chúc.
Hai là, nếu ghi nhận những thuật ngữ
này đang có hàm ý chỉ những cá nhân có
trạng thái thể chất giống nhau lại càng không
phù hợp khi không sử dụng chung một cụm
từ để đảm bảo tính thống nhất. Cho nên, nếu
đã bổ sung quy định về người có khó khăn
trong nhận thức và làm chủ hành vi thì nên
đồng nhất cách sử dụng ở từng điều luật, văn
bản quy phạm pháp luật.
Về nội dung này, chúng tôi cho rằng,
việc kế thừa quy định cho người hạn chế về
mặt thể chất, người không biết chữ được
quyền lập di chúc, đồng thời xác định người
này khác người khó khăn trong nhận thức
và làm chủ hành vi ở chỗ chưa bị Tòa án
tuyên thì nên ghi nhận thêm cả điều kiện để
di chúc của người khó khăn trong nhận thức
và làm chủ hành vi hợp pháp. Có như vậy,
quy định xét tính hợp pháp đối với người
lập di chúc ở trường hợp này mới đầy đủ và
toàn diện.
Hơn nữa, để đảm bảo quyền lập di
chúc của mọi cá nhân, quy định về người
hạn chế về mặt thể chất nên định hướng rõ
điều kiện để di chúc họ lập sẽ phát sinh hiệu
lực. Theo đó, quy định tại hoản 3 Điều 630
BLDS năm 2015 cần sửa lại theo hướng:
“Di chúc của người bị hạn chế về thể chất,
của người không biết chữ hoặc có khó khăn
trong nhận thức và làm chủ hành vi do người
được người này chỉ định lập thành văn bản
trước mặt ít nhất hai người làm chứng phải
có công chứng hoặc chứng thực”.
Tóm lại, chúng tôi kiến nghị hai quy
định độc lập sau:
(i) Quy định về người lập di chúc.
Điều .... Người lập di chúc
1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên
không bị mất năng lực hành vi dân sự có
quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của
mình.
2. Người từ đủ mười lăm đến chưa đủ
mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được
cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc
lập di chúc.
3. Người dưới mười lăm tuổi không
được quyền lập di chúc.
(ii) Quy định về tính hợp pháp đối với
người lập di chúc.
- “Người lập di chúc minh mẫn, sáng
suốt trong khi lập di chúc; thực hiện quyền
lập di chúc trong phạm vi giới hạn luật định;
không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép”.
- Di chúc của người từ đủ mười lăm
tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được
lập bằng văn bản khi có sự đồng ý bằng văn
bản về việc lập di chúc của cha và mẹ hoặc
người giám hộ. Trường hợp người lập di
chúc chỉ có cha hoặc mẹ tại thời điểm lập di
chúc thì chỉ cần có sự đồng ý bằng văn bản
của một người nhưng người còn lại phải rơi
vào trạng thái không thể biết việc lập di chúc
đó không do lỗi của mình.
- Di chúc của người bị hạn chế về thể
chất, của người không biết chữ hoặc có khó
khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi do
người được người này chỉ định lập thành văn
bản trước mặt ít nhất hai người làm chứng
phải có công chứng hoặc chứng thực”
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 17(393) T9/2019
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Tóm tắt:
Trong hoạt động tố tụng hình sự, Luật sư đóng vai trò hết sức
quan trọng, góp phần tìm ra sự thật khách quan của vụ án; tránh
oan, sai; công lý được thực thi đúng pháp luật; quyền con người
được bảo đảm. Vai trò của luật sư được thể hiện trong các giai
đoạn tố tụng hình sự, nhưng ở giai đoạn xét xử, vai trò của luật
sư được thể hiện rõ nét và toàn diện nhất. Tuy nhiên, hiện nay, sự
tham gia của luật sư trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự còn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc nên cần thực hiện những giải pháp
đồng bộ nhằm khắc phục vấn đề này.
Luật sư Lê Minh Đức*
* Đoàn Luật sư Tp. Hà Nội
Abstract
In the criminal proceedings, lawyers play a crucial role that helps
finding the objective truths of the case, avoiding the injustice and
wrongness, proper enforcement of the justice and protection of
the human rights. The role of a lawyer is shown in all stages
of the criminal proceeding, however the lawyer 's role is shown
most clearly and comprehensively at the trial stage. At present,
the involvement of lawyers in the process of criminal case trials
still faces difficulties and obstacles, so it is necessary to seek
synchronous solutions.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật sư, Xét xử, Tố tụng
hình sự
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 21/07/2019
Biên tập : 14/08/2019
Duyệt bài : 21/08/2019
Article Infomation:
Keywords: role of lawyer; trial
Article History:
Received : 21 Jul. 2019
Edited : 14 Aug. 2019
Approved : 21 Aug. 2019
Hoạt động tố tụng hình sự gồm các giai đoạn: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Mỗi giai
đoạn tố tụng hình sự đều quan trọng và góp
phần giải quyết vụ án khách quan, đúng
pháp luật. Trong các giai đoạn này, có thể
nói rằng, giai đoạn xét xử vụ án hình sự là
quan trọng nhất, khi tất cả tài liệu, chứng
cứ hợp pháp của cơ quan tiến hành tố tụng;
lời khai của người tham gia tố tụng và các
tài liệu, chứng cứ hợp pháp, lời biện hộ của
người bào chữa hay người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp đều được đưa ra xem xét,
đánh giá, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa làm
căn cứ để Hội đồng xét xử đi đến quyết định
bị cáo có phạm tội hay không phạm tội? nếu
có thì phạm tội danh gì? Mức nào của khung
hình phạt về tội đó?. Luật sư tham gia vào
giai đoạn xét xử dù với tư cách là người bào
chữa cho bị cáo hay người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự (sau
đây gọi chung là luật sư) trong vụ án hình
sự thì cũng phải sử dụng các biện pháp hợp
pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 17(393) T9/2019
pháp của khách hàng (khoản 4 Điều 5 Luật
Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm
2012), bảo đảm quá trình xét xử vụ án diễn
ra đúng quy định, bản án đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật.
Hoạt động xét xử vụ án hình sự diễn
ra tại phiên tòa cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc
thẩm có đặc trưng sau:
- Tòa án là cơ quan xét xử nhà nước
giữ vai trò trung tâm điểu khiển phiên tòa và
làm trọng tài cho cuộc tranh tụng giữa luật
sư (bên biện hộ) và kiểm sát viên (bên công
tố) từ đó xem xét đầy đủ, khách quan, toàn
diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập
trong quá trình tố tụng và căn cứ vào kết quả
tranh tụng để ra bản án;
- Kiểm sát viên đại diện cho Viện
kiểm sát thực hiện việc buộc tội đối với bị
cáo thông qua bản cáo trạng, luận tội;
- Bị cáo trong giai đoạn này vẫn đang
là người bị tình nghi phạm tội. Tuy nhiên,
thực tế tại phiên tòa cho thấy, bản thân bị
cáo thường trong trạng thái mệt mỏi, chán
chường, tâm lý hoang mang, dao động dẫn
đến buông xuôi, chấp nhận sự buộc tội của
kiểm soát viên và tuyên phạt của tòa án đối
với mình;
- Bị hại, đương sự thì thường lo lắng,
căng thẳng, mất bình tĩnh do không biết
được đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình
cũng như các quy định của pháp luật có lợi
khi tham gia phiên tòa nên thường trong thế
bị động khi hội đồng xét xử, kiểm sát viên,
luật sư (người bào chữa) hỏi, tranh luận thì
nhiều khi không hiểu nội dung câu hỏi dẫn
đến trả lời không đúng, mâu thuẫn hay tự
gây bất lợi cho chính mình;
- Luật sư dù với vai trò người bào
chữa hay người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp thì đều là “chỗ dựa tinh thần” cho thân
chủ tại chốn tụng đình, giúp bị cáo hay bị
hại, đương sự ổn định tâm lý từ đó bình tĩnh,
sáng suốt trình bày và phải “phát huy năng
lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, các kỹ
năng nghề nghiệp cần thiết hợp pháp để bảo
vệ tốt nhất quyền và lợi ích của khách hàng”
(quy tắc 3 Bộ quy tắc đạo đức, ứng xử nghề
nghiệp luật sư Việt Nam), thể hiện chủ yếu
ở phần tranh tụng thông qua bản luận cứ bào
chữa hay bản luận cứ bảo vệ của luật sư,
những lập luận, lý lẽ tranh luận “sắc bén”
với các bên (nhất là với bên công tố, bên
người tham gia tố tụng có quyền lợi đối lập
nhau) và các tài liệu, chứng cứ thu thập được
có lợi cho khách hàng.
Giai đoạn xét xử được xác định thời
điểm bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ
sơ vụ án hình sự do Viện kiểm sát chuyển
sang và kết thúc bằng một bản án có hiệu
lực pháp luật của Tòa án. Giai đoạn xét xử
tại phiên tòa sơ thẩm gồm: thủ tục bắt đầu
phiên tòa, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa,
nghị án và tuyên án (phiên tòa phúc thẩm
cũng tương tự).
I. Vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử
1. Bắt đầu phiên tòa
Phần này thực hiện các thủ tục bắt đầu
phiên tòa. Tuy nhiên, Luật sư vẫn cần tập
trung theo dõi trong suốt quá trình thực hiện
do có nội dung liên quan đến quyền và lợi
ích của khách hàng.
Luật sư có quyền đề nghị chủ tọa phiên
tòa thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát
viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người
định giá tài sản, người phiên dịch, người
dịch thuật khi có căn cứ xác định trong số
họ có thể có người không trung thực, khách
quan trong quá trình giải quyết vụ án ảnh
hưởng đến quyền lợi của thân chủ.
Luật sư cũng cần để ý đến các biện
pháp bảo đảm cho người làm chứng trình
bày trung thực những tình tiết liên quan đến
vụ án. Luật sư khi thấy cần thiết và có căn
cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
thân chủ tại phiên tòa có thể yêu cầu chủ tọa
phiên tòa triệu tập thêm người làm chứng
hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu
ra xem xét; yêu cầu hoãn phiên tòa nếu có
người tham gia tố tụng vắng mặt hoặc tuy
có mặt tại phiên tòa nhưng vì lý do sức khỏe
không thể tham gia tố tụng.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 17(393) T9/2019
2. Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa
2.1. Xét hỏi
Việc xét hỏi gồm các hoạt động: công
bố bản cáo trạng; xét hỏi; công bố lời khai
trong giai đoạn điều tra, truy tố (nếu có); hỏi
bị cáo, bị hại, đương sự hoặc người đại diện
của họ; hỏi người làm chứng (nếu có); xem
xét vật chứng; nghe, xem nội dung được
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; xem xét
tại chỗ; trình bày, công bố báo cáo, tài liệu
của cơ quan, tổ chức; hỏi người giám định,
người định giá tài sản (nếu có); điều tra viên,
kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
trình bày ý kiến; kết thúc xét hỏi và kiểm sát
viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về
tội nhẹ hơn tại phiên tòa (nếu có).
Sau khi nghiên cứu, xem xét toàn diện
hồ sơ vụ án, tài liệu chứng cứ có liên quan
được thu thập hợp pháp từ các giai đoạn tố
tụng trước, căn cứ các quy định của pháp
luật có liên quan tìm ra sự thật của vụ án;
xác định những vấn đề mấu chốt chưa được
làm rõ trong hồ sơ vụ án (nhất là trong bản
cáo trạng) mà khi trả lời được sẽ có thể làm
rõ bản chất vụ án, các tình tiết có lợi cho
khách hàng thì luật sư lên danh mục các nội
dung cần hỏi với từng bị cáo, bị hại, đương
sự hoặc người đại diện của họ; người làm
chứng (nếu có) trong vụ án. Khi hỏi xong,
nếu luật sư thấy còn có những tình tiết phát
sinh cần làm sáng tỏ có quyền đề nghị chủ
tọa phiên tòa hỏi thêm.
Luật sư có thể yêu cầu Hội đồng xét
xử xem xét vật chứng; nghe, xem nội dung
được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh;
xem xét tại chỗ; trình bày, công bố báo cáo,
tài liệu của cơ quan, tổ chức; hỏi người giám
định, người định giá tài sản (nếu có) khi có
nội dung mâu thuẫn, có dấu hiệu vi pham tố
tụng hình sự, Luật sư có quyền trình bày
nhận xét của mình về kết luận liên quan đến
các nội dung đó, Hội đồng xét xử có thể hỏi
thêm người tham gia phiên tòa về những vấn
đề có liên quan đó.
2.2. Tranh luận
Tranh luận gồm các hoạt động: trình
tự phát biểu khi tranh luận; luận tội của kiểm
sát viên; tranh luận; trở lại việc xét hỏi (nếu
cần thiết); bị cáo nói lời sau cùng và xem xét
việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về
tội nhẹ hơn.
Khi kiểm sát viên luận tội, luật sư
cần tập trung nghe, vận dụng các kỹ năng
chuyên môn của mình để phân tích, xử lý,
đánh giá nhanh, chính xác về nội dung luận
tội đã phân tích, đánh giá khách quan, toàn
diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có
tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây
ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ
án; tội danh, hình phạt, những tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức
bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện
pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm
tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với
vụ án đã đúng hay chưa? Qua đó, Luật sư sẽ
xác định được các vấn đề chưa thỏa đáng,
hợp lý trong luận tội và đề nghị kết tội của
kiểm sát viên, chuẩn bị nội dung tranh luận
với kiểm sát viên.
Khi tranh luận tại phiên tòa, Luật sư
có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ,
tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với
Kiểm sát viên về những nội dung tranh luận
nêu trên. Luật sư có quyền đưa ra đề nghị
của mình. Kiểm sát viên phải đưa ra chứng
cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng
từng ý kiến của Luật sư tại phiên tòa. Người
tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến
của nhau.
Thời gian tranh luận không bị hạn
chế là cơ hội để luật sự thể hiện được bản
lĩnh pháp lý, kinh nghiệm hành nghề, năng
lực chuyên môn và kỹ năng tranh tụng của
mình.Trong khi tranh luận, luật sư cần chú
ý tập trung vào những ý kiến liên quan đến
vụ án tránh lặp lại; đề nghị tranh luận đầy
đủ với Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử phải
lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của luật
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 17(393) T9/2019
sư tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh
giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án.
Khi bị cáo được nói lời sau cùng, Luật
sư cũng cần tập trung lắng nghe vì có thể xuất
hiện tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối
với vụ án có lợi cho khách hàng thì yêu cầu
Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi.
3. Nghị án và tuyên án
Sau khi nghe tòa tuyên án, nếu luật
sư nhận thấy bản án không phản ánh khách
quan, đầy đủ các nội dung thực tế xảy ra tại
phiên tòa cũng như trong toàn bộ các giai
đoạn tố tụng giải quyết vụ án; có dấu hiệu,
hành vi vi phạm tố tụng hình sự và quyền
và lợi ích hợp pháp của bị cáo hoặc bị hại,
đương sự không được bảo đảm thì cần trao
đổi và lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của họ
từ đó đưa ra tư vấn hợp lý nhất về việc thực
hiện quyền kháng cáo của thân chủ.
Luật sư trong giai đoạn xét xử có vai
trò quan trọng như vậy nhưng trên thực tế
vẫn còn những khó khăn ảnh hưởng đến vai
trò của luật sư như sau:
1) Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
chưa được bảo đảm vì hoạt động tham gia
tranh tụng của luật sư trong phần xét hỏi và
tranh luận vẫn còn bị hạn chế: trong khi hỏi,
tranh luận luật sư thường bị chủ tọa phiên
tòa ngắt lời, dừng chuyển sang nội dung
khác, ảnh hưởng đến tâm lý và chất lượng
của người biện hộ; tại phiên tòa thực tế kiểm
sát viên thường chỉ đọc bản cáo trạng, đưa
ra luận tội và gần như không tham gia tranh
luận với luật sư; nhiêu Hội đồng xét xử vẫn
chủ yếu căn cứ vào nội dung hồ sơ vụ án và
bản cáo trạng để tiến hành hoạt động xét xử
mà chưa thực sự coi trọng nội dung, diễn
biến tranh luận thực tế tại phiên tòa dẫn đến
việc thực hiện tranh tụng dân chủ vẫn mang
tính hình thức.
2) Chưa thực sự có sự bình đẳng giữa
kiểm sát viên - bên công tố và luật sư - bên
biện hộ, bởi: Kiểm sát viên là người thuộc cơ
quan tư pháp nhà nước được đào tạo chuyên
sâu trong lĩnh vực tư pháp; được tham gia
tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
định kỳ, thường xuyên. Trong khi đó, luật
sư thuộc các tổ chức hành nghề luật sư đa
phần là tự nghiên cứu, tìm hiểu, tích lũy
kinh nghiệm từ thực tiễn tham gia các vụ án
hình sự; hoặc trao đổi, chia sẻ với các luật sư
đồng nghiệp;
3) Việc triển khai thi hành Bộ luật
TTHS năm 2015 chưa đồng bộ dẫn đến một
số quy định của Luật chưa được hướng dẫn
cụ thể gây khó khăn cho hoạt động của luật
sự tại phiên tòa. Ví dụ, khoản 2, 4 Điều 88
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định luật sư có
quyền thu thập chứng cứ, tài liệu hợp pháp
những vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể quy
trình thu thập thế nào là hợp pháp; Điều 66
BLTTHS năm 2015 quy định về người làm
chứng chưa đầy đủ, toàn diện vì có trường
hợp người thân thích của bị cáo biết được
những tình tiết về bị cáo đó liên quan đến
nguồn tin về tội phạm, về vụ án. Vậy, trường
hợp này cơ quan tiến hành tố tụng có triệu
tập họ hay không? Nếu bị triệu tập liệu họ có
được từ chối khai báo hoặc im lặng không?
Có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
4) Theo tác giả thì trình độ nhận thức,
năng lực chuyên môn của một bộ phận cán
bộ tiến hành tố tụng chưa đáp ứng được yêu
cầu tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử
vụ án hình sự. Vẫn còn trường hợp, trong
quá trình giải quyết vụ án, người tiến hành
tố tụng không nắm vững chuyên môn nên
hiểu chưa đầy đủ, đúng nội dung quy phạm
pháp luật, dẫn đến áp dụng sai. Một bộ phận
luật sư chưa xác định được đúng đắn, đầy
đủ vai trò quan trọng của mình trong việc
góp phần bảo vệ công lý; đạo đức hành nghề
chưa được coi trọng; kỹ năng tranh tụng còn
yếu; kiến thức pháp luật chưa sâu, rộng
đây cũng là một trong những vấn đề ảnh
hưởng đến chất lượng dịch vụ pháp lý của
luật sư khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
II. Giải pháp phát huy vai trò của luật sư
1. Khẩn trương ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành Bộ luật TTHS năm 2015.
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao
cần khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
56 Số 17(393) T9/2019
thi hành Bộ luật TTHS năm 2015, trong đó có
những quy định về thẩm quyền của luật sư tại
phiên tòa, về người làm chứng.
2. Nâng cao nhận thức của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
về vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động
tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn
xét xử vụ án hình sự nói riêng. Cần thống
nhất nhận thức rằng, sự tham gia của luật sư
tại phiên tòa là nhằm góp phần bảo đảm sự
khách quan, công bằng, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức;
là một kênh giám sát xã hội hữu hiệu đối với
các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng
ở khía cạnh tích cực góp phần cho các hoạt
động tố tụng hình sự ngày một hoàn thiện,
đúng pháp luật; góp phần nâng cao năng lực,
trình độ của người tiến hành tố tụng.
3. Tự bản thân người luật sư cũng cần
phải thường xuyên nghiên cứu, trau dồi, cập
nhật kịp thời về kiến thực pháp lý, thực hiện
nghiêm việc tham gia bồi dưỡng, nghiệp vụ
về luật sư; trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng về
hành nghề, tranh tụng,“văn hóa tụng đình”;
đề cao đạo đức và ứng xử hành nghề và phải
nhận thức đầy đủ trách nhiệm, chức năng xã
hội của nghề luật sư, vị trí, vai trò của mình
trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm góp
phần bảo vệ công lý; bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp cho thân chủ; giúp giải quyết vụ
án khách quan, đúng pháp luật.
4. Nâng cao nhận thức xã hội về vai
trò luật sư - người bào chữa hay bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp trong tố tụng hình
sự thông qua các hình thức tuyên truyền,
phố biến, giáo dục pháp luật về hình sự kết
hợp lồng, ghép các nội dung liên quan về
chức năng, vai trò của luật sư.
Với việc thực hiện đồng bộ các giải
pháp nêu trên, vai trò của luật sư trong hoạt
động tố tụng hình sự nói chung, trong giai
đoạn xét xử nói riêng mới được phát huy
hiệu quả; quyền và lợi ích hợp pháp của
khách hàng được bảo đảm; chất lượng tranh
tụng được nâng cao, thực chất và dân chủ;
góp phần bảo đảm công lý được thực thi trên
thực tế
khác như các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, các
hình thức thi sân khấu hóa, lồng ghép trong
các cuộc giao lưu văn hóa, văn nghệ, tư vấn
pháp luật, trợ giúp pháp lý cùng nhiều hình
thức khác nhằm nâng cao nhận thức của
người dân về quyền TCTT theo quy định
của pháp luật.
Thứ ba, tổ chức tập huấn cho cán bộ,
công chức trong hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước, đặc biệt là đội ngũ báo
cáo viên, các cán bộ, công chức ở các xã,
phường, thị trấn nhằm nâng cao hiểu biết và
nhận thức về Luật TCTT, qua đó tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thi hành luật trong
thực tiễn.
Thứ tư, cần có sự kết hợp của các bộ,
ban, ngành, các địa phương, các cán bộ,
công chức và công dân trong quá trình tiếp
cận, triển khai thực hiện Luật TCTT, nếu
phát hiện những bất cập, hạn chế, vướng
mắc cần báo cáo, kiến nghị với các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền để kịp thời sửa đổi,
khắc phục, góp phần nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác xây dựng luật trong
thực tiễn. Đồng thời, kịp thời khen thưởng,
động viên các cơ quan, đơn vị, cá nhân có
những thành tích trong hoạt động triển khai
thi hành Luật, bên cạnh đó cần xử lý nghiêm
các cá nhân, tổ chức có hành vi cản trở việc
thi hành Luật TCTT trong thực tiễn
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN ...
(Tiếp theo trang 16)
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
57Số 17(393) T9/2019
KIỂM SOÁT THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP CỦA TÒA ÁN HOA KỲ
VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
Tóm tắt:
Cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể chủ yếu, quan trọng thực
hiện quyền hành pháp và luôn đứng trước nguy cơ lạm quyền,
tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong quản lý. Thông thường, việc
kiểm soát thực hiện quyền hành pháp được thực hiện qua hai
kênh: nội bộ (bên trong) và bên ngoài hệ thống (cơ quan tư pháp,
lập pháp). So sánh việc kiểm soát thực hiện quyền hành pháp ở
các nước và đề xuất các khuyến nghị cho Việt Nam là một công
việc cần thiết.
Phan Thị Lan Hương*
* TS. Trường Đại học Luật Hà Nội.
Abstract
The state administrative agencies are the key and important
subjects to exercise the executive power. They always face with
the potential abuse of power, corruption and lack of accounablity.
The controlling of the exercise of executive power is commonly
carried out through two channels: internal control and external
control (judice body, legislative body). It is nessary to make
comparison of the control mechanism of the exercise of executive
power in other countries and to provide recommendations for
Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: kiểm soát quyền hành pháp,
tính hợp pháp, tính hợp lý, thẩm quyền
của tòa án
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 23/07/2019
Biên tập : 19/08/2019
Duyệt bài : 26/08/2019
Article Infomation:
Keywords: controlling of executive
power; the legality; reasonableness; and
jurisdiction of the court.
Article History:
Received : 23 Jul. 2019
Edited : 19 Aug. 2019
Approved : 26 Aug. 2019
1. Sự cần thiết phải kiểm soát thực hiện
quyền hành pháp
Mỗi quốc gia sẽ có cách thức tổ chức
và thực hiện quản lý nhà nước (QLNN) khác
nhau tùy thuộc vào điều kiện chính trị, pháp
lý, kinh tế, văn hóa, xã hội. Xu hướng chung
của các nước trên thế giới là tổ chức bộ máy
theo nguyên tắc tam quyền phân lập và kiểm
soát việc thực hiện quyền lực của mỗi nhánh
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tổ chức bộ
1 Hiến pháp năm 2013.
máy nhà nước ta được thực hiện theo nguyên
tắc “tập trung - dân chủ” trong đó có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp1.
Các hình thức kiểm soát quyền lực
chủ yếu là thông qua các hoạt động giám
sát của cơ quan lập pháp, hoạt động xét xử
của cơ quan tư pháp, và hoạt động kiểm tra,
thanh tra của hệ thống cơ quan hành pháp.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 17(393) T9/2019
Điểm đáng lưu ý là việc kiểm soát thực hiện
QLNN thường tập trung nhấn mạnh vào
kiểm soát thực hiện quyền hành pháp do các
cơ quan hành chính nhà nước (HCNN) thực
hiện. Bởi vì, thực hiện quyền hành pháp là
một trong những chức năng quan trọng của
cơ quan HCNN nhằm mục đích tổ chức thực
hiện pháp luật, đưa pháp luật vào trong đời
sống. Chủ thể thực hiện quyền hành pháp
là những cá nhân, tổ chức có thẩm quyền,
nhân danh Nhà nước hoặc được Nhà nước
trao quyền thực hiện hoạt động quản lý nhà
nước trong một số trường hợp cụ thể. Yêu
cầu chung của thực hiện quyền hành pháp
là bảo đảm chủ thể có thẩm quyền phải tuân
thủ pháp luật, sử dụng quyền lực trong giới
hạn pháp luật cho phép. Do đó, mỗi quốc gia
cần có cơ chế để kiểm soát việc thực hiện
quyền hành pháp để bảo đảm hạn chế việc
lạm quyền hay việc sử dụng QLNN không
vì lợi ích công.
Bên cạnh đó, cơ quan HCNN là chủ
thể sử dụng QLNN ở một phạm vi rất rộng,
có liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội như kinh tế, văn hóa, đất đai, lao
động, tài chính, ngân hàng, giáo dục, y tế...
Có thể nói, hoạt động của cơ quan HCNN
ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức thực
hiện và bảo đảm các quyền và lợi ích chính
đáng của người dân. Khi thực hiện những
hoạt động này, cơ quan HCNN có khả năng
xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp
đó. Bên cạnh đó, các cơ quan HCNN cũng
dễ bị “thâu tóm” bởi các tập đoàn kinh tế lớn
trong việc hoạch định các chính sách để bảo
đảm có lợi cho các tập đoàn mà không quan
tâm đến lợi ích của công chúng.
Thâu tóm cơ quan HCNN có thể được
hiểu là việc thuyết phục các cơ quan thay đổi
các chính sách/quy định hoặc áp dụng trong
việc thực thi các quy định/chính sách đó2. Do
đó, yêu cầu của xây dựng nhà nước pháp quyền
2 “The Benefits of Capture,” accessed April 10, 2018, https://repository.uchastings.edu/cgi/viewcontent.cgi?refer-
er=https://www.google.com/&httpsredir=1&article=2251&context=faculty_scholarship.
3 Leslie Harper, What Are Checks and Balances? (The Rosen Publishing Group, 2012), 6.
4 Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên thế giới, Hiến pháp Hoa Kỳ, khoản 1, Điều 2, Nxb. Thống kê (2009), tr.24.
là phải đảm bảo pháp luật được tôn trọng và
tuân thủ triệt để, có nghĩa là cần phải có cơ
chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực của các
cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân được
nhà nước trao quyền, để hạn chế việc lạm
quyền của các chủ thể quản lý nhà nước. Kiểm
soát thực hiện quyền hành pháp thường được
thực hiện thông qua hai kênh: kiểm soát bên
trong hệ thống cơ quan HCNN và kiểm soát
bên ngoài hệ thống (thông qua việc thực hiện
quyền giám sát của cơ quan quyền lực, quyền
xét xử của tòa án) hoặc qua hoạt động giám
sát xã hội (của các cá nhân, tổ chức xã hội).
Việc quy định thẩm quyền xét xử các quyết
định hành chính/hành vi hành chính cho cơ
quan tòa án xuất phát từ nhiều nguyên tắc khác
nhau, tiêu biểu là nguyên tắc “kiềm chế và đối
trọng” (check and balance) trong mô hình nhà
nước tổ chức theo thuyết tam quyền phân lập.
Nguyên tắc kiềm chế và đối trọng nghĩa là mỗi
hệ thống cơ quan có thể kiểm tra và kiểm soát
một phần hoặc toàn bộ các công việc của hệ
thống cơ quan đó. Điều này tạo ra sự cân bằng
quyền lực giữa các cơ quan nhà nước để đảm
bảo không có cơ quan hay cá nhân nào có quá
nhiều quyền lực3.
Tòa án là cơ quan độc lập đưa ra các
phán quyết để quyết định một quyết định
hành chính hay hành vi hành chính của cơ
quan HCNN hay của cá nhân có thẩm quyền,
thông qua đó thực hiện quyền kiểm tra, kiểm
soát đối với các hoạt động của hệ thống cơ
quan hành pháp.
2. Kiểm soát thực hiện quyền hành pháp
của Tòa án ở Hoa Kỳ
Chủ thể thực hiện quyền hành pháp
ở Hoa Kỳ bao gồm Tổng thống và Chính
phủ liên bang Hoa Kỳ. “Quyền hành pháp
được trao cho Tổng thống Hợp chúng quốc
Hoa Kỳ”4. Tổng thống bổ nhiệm và Thượng
viện phê chuẩn các Bộ trưởng. Tổng thống
có quyền hạn rộng lớn như quyền tuyên bố
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 17(393) T9/2019
chiến tranh, quyền điều hành công việc quốc
gia và quyền điều hành các hoạt động của
chính quyền liên bang. Tương tự như vậy, ở
mỗi bang cũng tổ chức bộ máy chính quyền
liên bang và Thống đốc bang là người đứng
đầu hệ thống cơ quan hành pháp ở mỗi bang.
Có thể nói, việc kiểm soát thực hiện
quyền hành pháp đã được thực hiện thông
qua hai kênh là Nghị viện và Tòa án. Để đảm
bảo Tòa án kiểm soát thực hiện quyền hành
pháp, Hiến pháp Hoa Kỳ đã quy định và đảm
bảo hệ thống cơ quan tư pháp độc lập.
Thẩm phán và các cán bộ tư pháp
được bổ nhiệm thông qua quy trình hai bước
là do Tổng thống chỉ định và Thượng viện
phê chuẩn. Thẩm phán Tòa án liên bang và
thẩm phán Tòa án tối cao độc lập với nhánh
hành pháp và lập pháp. Không ai có thể cắt
giảm lương của thẩm phán. Thẩm phán được
bổ nhiệm suốt đời. Thẩm phán chỉ bị miễn
nhiệm bởi cơ quan lập pháp khi phạm tội
hình sự nghiêm trọng và có hành vi vi phạm
pháp luật5. Thẩm quyền xét xử của Tòa án
trong các vụ án hành chính được quy định
trong Luật Thủ tục hành chính (APA) năm
1946. Luật Thủ tục hành chính áp dụng cho
tất cả các cơ quan. Luật APA (khoản 10) quy
định về quyền được yêu cầu xem xét lại:
Bất kỳ ai bị xâm hại trái luật bởi hoạt động
của một cơ quan, hoặc bị ảnh hưởng bất lợi
hoặc bị ảnh hưởng bởi hành động đó theo
quy định bất kỳ đạo luật có liên quan nào, sẽ
được xem xét tư pháp6. Như vậy, bất kỳ cá
nhân, tổ chức nào cũng có quyền khởi kiện
yêu cầu Tòa án xem xét lại các quyết định
hành chính/hành vi của cơ quan nếu gây bất
lợi cho họ. Theo khoản 10 (3) quy định về
phạm vi của xem xét: Tòa án đưa ra quyết
định dựa trên các câu hỏi có liên quan đến
pháp luật, giải thích Hiến pháp và các điều
5 GS. Phạm Lệ Huyền (ĐH Texas A&M), Luật Hành chính của Hoa Kỳ: Cấu trúc và thách thức, Bài thuyết trình tại Hội
thảo Luật Hành chính công, 2017.
6 “Administrative Procedure Act,” accessed June 3, 2018, https://www.justice.gov/sites/default/files/jmd/lega-
cy/2014/05/01/act-pl79-404.pdf.
7 “Administrative Procedure Act.”
8 GS. Phạm Lệ Huyền (ĐH Texas A&M), Tlđd.
khoản của các văn bản luật và xác định ý
nghĩa của việc áp dụng các quy định cho bất
kỳ hành động nào của cơ quan. Tòa án có
thể buộc cơ quan rút lại các hành động/quyết
định trái luật hoặc có sự trì hoãn không hợp
lý; và có thể đưa ra các yêu cầu về đình chỉ
các hoạt động trái luật, các phát hiện và các
khuyến nghị được phát hiện là (1) tùy tiện,
bất thường, lạm dụng tùy ý, hoặc không tuân
theo luật; (2) trái với quy định của Hiến pháp
về quyền, quyền lực, đặc quyền hoặc miễn
trừ (3) vượt quá thẩm quyền, thẩm quyền
hoặc hạn chế theo luật định, hoặc thiếu quy
định về quyền (4) không tuân thủ các thủ tục
theo quy định của pháp luật; (5) không được
hỗ trợ bởi các bằng chứng cần thiết theo quy
định; (6) không được bảo đảm bởi các sự
kiện thực tế là đối tượng để Tòa án xem xét
lại. Khi đưa ra các quyết định nêu trên, Tòa
án sẽ xem xét toàn bộ hồ sơ hoặc các bằng
chứng được đưa ra bởi các bên và theo trách
nhiệm phải thực hiện theo quy định của
pháp luật7.
Tòa án có quyền xem xét lại (judicial
review) các loại quyết định giải thích pháp
luật; quyết định giải quyết vụ việc thực tế
(quyết định hành chính cá biệt) và quyết
định chính sách dựa trên các tiêu chuẩn
bao gồm: tính hợp lý của quyết định; bằng
chứng làm căn cứ cho việc giải quyết các vụ
việc thực tế; và lý do của quá trình ban hành,
các giải pháp lựa chọn có đảm bảo tính hợp
lý không8. Như vậy, tiêu chí để xem xét lại
các quyết định hành chính của Tòa án không
chỉ là tính hợp pháp mà còn bao gồm cả tính
hợp lý của các quyết định. Như vậy, so sánh
với quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa
án Hoa Kỳ với Tòa án của Việt Nam trong
xét xử các vụ án hành chính, có hai điểm
khác biệt cơ bản sau:
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 17(393) T9/2019
Thứ nhất, về đối tượng xét xử, Tòa
án Hoa Kỳ có thẩm quyền xem xét lại tất
cả các loại quyết định hành chính, bao gồm
cả quyết định chính sách và quyết định giải
thích pháp luật của cơ quan hành pháp. Tòa
án nên bãi bỏ việc xác định sự việc của một
cơ quan quản lý nếu việc xác định đó không
có bằng chứng có giá trị và hợp lý (quyết
định có hợp lý không? nếu không: quyết
định hợp lý đó có đúng không?)
Quyết định chính sách được hiểu là
các quyết định do cơ quan hành chính ban
hành để đưa ra một giải pháp, một mệnh
lệnh, quy định để thực hiện một hoạt động
cụ thể nào đó, ví dụ như quyết định xây
dựng một nhà máy ở một địa điểm nào đó.
Ví dụ, quyết định chính sách: Bộ Lao động
muốn điều chỉnh về vấn đề chất benzen để
bảo vệ người lao động. Các nghiên cứu chỉ
ra rằng nồng độ benzen cao gây nguy hiểm,
nhưng các nhà khoa học không rõ ở nồng độ
thấp thì có nguy hiểm không? Bộ Lao động
nên cấm sử dụng benzen ở tất cả các nồng
độ hay chỉ cấm sử dụng ở nồng độ cao?
Quyết định này là một quyết định về chính
sách và cũng là đối tượng thuộc thẩm quyền
xem xét lại của Tòa án. Liên quan đến thẩm
quyền xem xét lại, tiêu chí của việc xem
xét lại quyết định chính sách đó là Tòa án
yêu cầu cơ quan quản lý xác định lý do cho
việc lựa chọn một phương sách hành động
thay vì một phương sách khác và đưa ra giải
thích về các lý do lựa chọn chính sách (tính
hợp lý). Ví dụ, vụ án: Hiệp hội các nhà sản
xuất xe mô tô kiện Cơ quan bảo hiểm nông
trang (Tòa án tối cao 1983): Cơ quan quản
lý (Cục An toàn giao thông đường cao tốc
quốc gia) đã quyết định rằng xe hơi không
bắt buộc phải có dây an toàn. Các nghiên
cứu tại thời điểm đó không đưa ra kết luận
về lợi ích của dây an toàn (vì có nhiều người
không sử dụng dây an toàn). Tất cả lý do
9 GS. Phạm Lệ Huyền (ĐH Texas A&M), Tlđd.x
10 “Chevron USA v. Natural Resources Defense Council, Inc | Casebriefs,” accessed June 2, 2018, https://www.case-
briefs.com/blog/law/administrative-law/administrative-law-keyed-to-lawson/scope-of-review-of-agency-action/
chevron-usa-v-natural-resources-defense-council-inc/.
mà Cục An toàn giao thông đường cao tốc
quốc gia đưa ra tương tự những lập luận mà
các nhà sản xuất đưa ra. Kết quả là, Tòa án
tối cao đã xem xét kỹ càng các lý do của cơ
quan quản lý và đã đình chỉ quyết định của
cơ quan quản lý bởi vì cơ quan quản lý đã
không xem xét về việc thay thế thiết kế dây
an toàn để đảm bảo an toàn hơn và hấp dẫn
hơn đối với lái xe9.
Bên cạnh đó, Tòa án của Hoa Kỳ cũng
có thẩm quyền xem xét lại các quyết định
giải thích pháp luật dựa trên các tiêu chí như
luật có quy định rõ ràng về vấn đề không?
Nếu có thì Tòa án (và cơ quan quản lý) phải
thực hiện những gì mà luật quy định. Và nếu
luật không quy định về vấn đề đó thì Tòa án
nên tôn trọng /theo sự giải thích của cơ quan
quản lý, nếu sự giải thích đó hợp lý. Trên
thực tế, Tòa án thường tôn trọng các quyết
định giải thích luật của các các cơ quan
quản lý. Ví dụ điển hình về xem xét lại các
quyết định giải thích luật của Tòa án là vụ
Chevron USA v. Natural Resources Defense
Council, Inc10. Vụ án do Hội đồng Bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên kiện việc giải thích quy
định trong Đạo luật sửa đổi về không khí
sạch năm 1977. Trên cơ sở đạo luật này, Cơ
quan Bảo vệ Môi trường (EPA) đã thông qua
quy định cho phép các tiểu bang xử lý tất
cả các thiết bị phát thải ô nhiễm trong cùng
một nhóm công nghiệp như thể chúng là một
"bong bóng" duy nhất. Sử dụng điều khoản
“bong bóng” này, các nhà máy có thể lắp đặt
hoặc thay đổi một phần thiết bị mà không
cần giấy phép nếu thay đổi không làm tăng
tổng lượng phát thải của nhà máy. Một số
nhóm bảo vệ môi trường, bao gồm Hội đồng
Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, đã kiện điều
khoản “bong bóng” vì cho rằng nó trái với
Đạo luật. Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ cho rằng
quy định của Cơ quan Bảo vệ môi trường là
không phù hợp cho một chương trình được
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 17(393) T9/2019
ban hành nhằm cải thiện chất lượng không
khí. Câu hỏi được đặt ra trong vụ án này là:
Đạo luật Không khí sạch có cho phép EPA
xác định thuật ngữ "nguồn cố định" có nghĩa
là toàn bộ các nhà máy công nghiệp, cho
phép các nhà máy xây dựng hoặc sửa đổi
các đơn vị trong nhà máy mà không cần giấy
phép theo Đạo luật không? Tuy nhiên, phán
quyết của Tòa án tối cao Hoa Kỳ cho rằng
quy định “bong bóng” là một cách giải thích
hợp lý về thuật ngữ “nguồn cố định” trong
Đạo luật Không khí sạch. Quốc hội không
có ý định cụ thể cho việc giải thích thuật ngữ
đó, và quy định của EPA là một lựa chọn
chính sách hợp lý. Do đó, Chevron là vụ án
mang tính bước ngoặt đã ủng hộ việc đưa ra
quyết định của các cơ quan cho các quyết
định hoạch định chính sách hợp lý của họ.
So sánh với Việt Nam, theo quy định
của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Tòa
án có quyền xem xét về tính hợp pháp của
văn bản hành chính, hành vi hành chính có
liên quan đến quyết định hành chính, hành
vi hành chính bị kiện và kiến nghị cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại
văn bản hành chính, hành vi hành chính đó
và trả lời kết quả cho Tòa án theo quy định
của Luật này và quy định khác của pháp luật
có liên quan. Tuy nhiên, Tòa án chỉ có quyền
kiến nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn
bản quy phạm pháp luật nếu phát hiện văn
bản đó có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật,
văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên theo quy định của Luật
này và quy định khác của pháp luật có liên
quan để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do đó, có thể
nói rằng các quyết định chính sách và quyết
định giải thích luật không thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án Việt Nam.
Thứ hai, căn cứ để xem xét lại quyết
định hành chính của Tòa án Hoa Kỳ không
chỉ dừng lại ở việc xem xét tính hợp pháp
11 Todd Garvey, “A Brief Overview of Rulemaking and Judicial Review,” n.d., 14.
của quyết định hành chính mà còn xem xét
cả tính hợp lý của quyết định. Điều 10 (e)
của Luật APA đã quy định phạm vi xem
xét lại các quyết định hành chính bao gồm
các tiêu chí như: (1) độc đoán, tùy tiện, lạm
dụng quyền quyết định, hoặc nói cách khác
là không phù hợp với pháp luật; (2) trái với
quyền lập hiến, thẩm quyền, đặc quyền hoặc
quyền miễn trừ; (3) vượt quá thẩm quyền,
hoặc các hạn chế về thẩm quyền theo luật
định; (4) không tuân thủ các thủ tục theo yêu
cầu của pháp luật; (5) không có bằng chứng
hỗ trợ đáng kể trong mọi trường hợp theo
các yêu cầu của phần 7 và 8 hoặc được xem
xét lại trong hồ sơ của một phiên điều trần
của cơ quan do pháp luật quy định; hoặc (6)
từ chối đưa ra các dữ liệu thực tế (facts) theo
yêu cầu của cơ quan Tòa án. Tiêu chí “độc
đoán và tùy tiện” là tiêu chí được Tòa án
sử dụng phổ biến trong đánh giá các quyết
định của cơ quan hành chính11. Ví dụ như
trong vụ Chevron, Tòa án đã xem xét quyết
định giải thích luật của Cơ quan Bảo vệ môi
trường của Hoa Kỳ trong việc giải thích Đạo
luật Không khí sạch có hợp lý không? và
dựa trên yêu cầu đưa ra các bằng chứng để
giải thích cho các lý do lựa chọn chính sách
đó. Việc quy định tiêu chí “độc đoán và tùy
tiện” là căn cứ để tòa án hạn chế đươc sự lạm
quyền của cơ quan HCNN trong việc ban
hành các chính sách, hạn chế lợi ích nhóm
hay “sự thâu tóm” các cơ quan HCNN.
Trong khi đó, theo quy định của Luật
Tố tụng hành chính ở Việt Nam thì “Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện
vụ án đối với quyết định hành chính, hành
vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi
việc trong trường hợp không đồng ý với
quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với
người có thẩm quyền giải quyết, nhưng hết
thời hạn giải quyết theo quy định của pháp
luật mà khiếu nại không được giải quyết
hoặc đã được giải quyết nhưng không đồng
ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định,
hành vi đó” (Điều 115).
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 17(393) T9/2019
Thứ ba, thẩm quyền của Tòa án Hoa
Kỳ trong việc xem xét các quyết định hành
chính cũng đảm bảo sự tôn trọng các hoạt
động mang tính chuyên môn chuyên sâu của
các cơ quan quản lý. Trong quá trình xét xử,
Tòa án Hoa Kỳ chỉ đánh giá việc áp dụng
pháp luật và đưa ra các khuyến nghị chứ
không ban hành quyết định thay thế cho cơ
quan hành chính. Toà án có thể yêu cầu cơ
quan hành chính nhiều lần sửa đổi để quyết
định đó là phù hợp. Như vậy, trong mọi
trường hợp cơ quan hành chính đã ban hành
quyết định hành chính dẫn đến khiếu kiện
phải tự sửa đổi quyết định của mình trên cơ
sở các khuyến nghị của cơ quan tài phán12.
Ở Việt Nam, Hội đồng xét xử xem xét
tính hợp pháp của quyết định hành chính,
hành vi hành chính và có quyền quyết định:
Bác yêu cầu khởi kiện, nếu yêu cầu đó
không có căn cứ pháp luật; chấp nhận một
phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên
hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định hành
chính trái pháp luật và quyết định giải quyết
khiếu nại có liên quan (nếu có); buộc cơ
quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ,
công vụ theo quy định của pháp luật; đồng
thời kiến nghị cách thức xử lý đối với quyết
định hành chính trái pháp luật đã bị hủy;
chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu
khởi kiện, tuyên bố hành vi hành chính là
trái pháp luật, tuyên hủy một phần hoặc toàn
bộ quyết định giải quyết khiếu nại có liên
quan (nếu có); buộc cơ quan nhà nước hoặc
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà
nước chấm dứt hành vi hành chính trái pháp
luật (Điều 193).
Như vậy, so sánh với thẩm quyền của
Tòa án Hoa Kỳ, kiểm soát thực hiện quyền
hành pháp của Tòa án Việt Nam được quy
định hạn chế hơn bởi vì đối tượng thuộc
thẩm quyền xét xử chỉ là các quyết định
12 Đinh Văn Minh, Tài phán hành chính ở Hoa Kỳ, 2009.
hành chính và hành vi hành chính cá biệt,
nghĩa là các quyết định, hành vi của cơ
quan hành chính hoặc cán bộ có thẩm quyền
trong cơ quan đó ban hành/thực hiện để giải
quyết một công việc cụ thể, với một hoặc
một số đối tượng cụ thể. Những quyết định
giải thích pháp luật và quyết định chính sách
không thuộc thẩm quyền xem xét lại của Tòa
án Việt Nam. Ngoài ra, tiêu chí để xem xét
lại các quyết định hành chính/hành vi hành
chính mới chỉ được tập trung vào tính hợp
pháp của quyết định (về căn cứ, hình thức,
nội dung của quyết định, thẩm quyền, trình
tự, thủ tục ban hành, thời hiệu, thời hạn ban
hành/thực hiện quyết định hành chính/hành
vi hành chính).
3. Một số khuyến nghị với Việt Nam
Việt Nam và Hoa Kỳ là hai quốc gia
có những điểm khác biệt rõ rệt trong cách
thức tổ chức QLNN. Tuy nhiên, để đạt được
mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền và
xã hội dân chủ, việc kiểm soát QLNN cần
được đẩy mạnh thông qua hoạt động xét xử
của Tòa án và hoạt giám sát của cơ quan
Quốc hội. Mặc dù, Luật Tố tụng hành chính
năm 2015 đã thực hiện cải cách về thẩm
quyền xét xử của Tòa hành chính thông qua
việc tăng cường tính độc lập của thẩm phán
trong xét xử vụ án hành chính, ví dụ như Tòa
án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải
quyết: “Khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan HCNN từ
cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa
giới hành chính với Tòa án hoặc của người
có thẩm quyền trong cơ quan HCNN đó, trừ
quyết định hành chính, hành vi hành chính
của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp huyện” Tuy nhiên, để
đảm bảo kiểm soát quyền hành pháp một
cách hiệu quả hơn thông qua hoạt động xét
xử của Tòa án, cần thực hiện một số giải
pháp sau:
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 17(393) T9/2019
Thứ nhất, cần mở rộng thẩm quyền của
Tòa án trong xét xử các vụ án hành chính,
nghĩa là cần nghiên cứu quy định các quyết
định chính sách (quyết định phê duyệt quy
hoạch, quyết định thay cây xanh đô thị -
những quyết định có liên quan đến nhiều
người) cũng là đối tượng thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa hành chính. Thực tế hiện nay
cho thấy có rất nhiều các quyết định hành
chính loại này chưa có một cơ chế giải quyết
cụ thể, hiệu quả. Ví dụ, Quyết định số 6816/
QĐ-UBND của TP Hà Nội ngày 11/11/2013
phê duyệt Đề án cải tạo, bổ sung và trồng thay
thế 6.700 cây xanh đô thị trên một số tuyến
phố của Sở Xây dựng. Khi triển khai Đề án
này trên thực tế đã có sự bức xúc, phản ứng
từ phía người dân nhưng vụ việc này không
thuộc thẩm quyền thụ lý của Tòa án.
Thứ hai, cần nghiên cứu trao cho Tòa
án nhân dân tối cao quyền xem xét và hủy
bỏ hay đình chỉ thi hành các quyết định hành
chính quy phạm trái với Hiến pháp, pháp luật
do chính quyền địa phương ban hành. Pháp
luật hiện hành mới chỉ quy định quyền kiến
nghị cơ quan có thẩm quyền đình chỉ, sửa
đổi, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật
trái với Hiến pháp, pháp luật. Việc bảo đảm
tính hợp hiến, hợp pháp của các quyết định
hành chính quy phạm do chính quyền địa
phương ban hành cũng góp phần bảo đảm
xây dựng hệ thống pháp luật được đồng bộ,
thống nhất. Bảo đảm có được một hệ thống
cơ quan độc lập trong việc xem xét lại tính
hợp hiến, hợp pháp của các quyết định hành
chính quy phạm.
Thứ ba, cần nghiên cứu bổ sung tiêu
chí xem xét các quyết định hành chính/hành
vi hành chính ngoài tính hợp pháp còn đảm
bảo tính hợp lý để có thể bảo đảm các quyết
định hành chính/hành vi hành chính được
ban hành bởi các chủ thể phải đáp ứng cả tiêu
chuẩn hợp lý (tính khả thi, chi phí thực hiện,
điều kiện thực hiện, các giải pháp lựa chọn
trong quyết định hay thực hiện hành vi).
Tóm lại, kiểm soát thực hiện quyền
hành pháp có thể thực hiện qua nhiều cơ chế
khác nhau, và kiểm soát của Tòa án là một
trong những kênh đảm bảo tính độc lập. Để
thực hiện mục tiêu kiểm soát QLNN, hạn
chế lạm quyền, kiểm soát tham nhũng, hạn
chế sự thâu tóm các cơ quan HCNN của các
tập đoàn kinh tế lớn thì Nhà nước cần phải
đẩy mạnh hoạt động kiểm soát thực hiện
quyền hành pháp. Đặc biệt là mở rộng thẩm
quyền và các tiêu chí xem xét lại các quyết
định hành chính của Tòa án sẽ góp phần hạn
chế được tham nhũng, nâng cao kỷ luật, kỷ
cương, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của các cá nhân, tổ chức
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Administrative Procedure Act.” Accessed June 3, 2018, https://www.justice.gov/sites/default/files/jmd/
legacy/2014/05/01/act-pl79-404.pdf.
2. “Chevron USA v. Natural Resources Defense Council, Inc | Casebriefs.” Accessed June 2, 2018, https://
www.casebriefs.com/blog/law/administrative-law/administrative-law-keyed-to-lawson/scope-of-review-of-
agency-action/chevron-usa-v-natural-resources-defense-council-inc/.
3. Garvey, Todd. “A Brief Overview of Rulemaking and Judicial Review,” n.d., 20.
4. Harper, Leslie. What Are Checks and Balances? The Rosen Publishing Group, 2012.
5. “The Benefits of Capture.” Accessed April 10, 2018, https://repository.uchastings.edu/cgi/viewcontent.
cgi?referer=https://www.google.com/&httpsredir=1&article=2251&context=faculty_scholarship.
6. Đinh Văn Minh, Tài phán hành chính ở Hoa Kỳ, 2009;
7. Phạm Lệ Huyền (ĐH Texas A&M), Luật Hành chính của Hoa Kỳ: Cấu trúc và thách thức, Bài thuyết
trình tại Hôi thảo Luật Hành chính công, 2017.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 17(393) T9/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_lap_phap_so_17_nam_2019.pdf