Kết luận
Kết quả phân tích trên 170 mẫu giống lúa thu thập ở
Việt Nam cho thấy có sự biến động về khả năng chuyển
hóa đường từ rơm rạ của các mẫu giống trong cùng một
điều kiện canh tác và mùa vụ (từ 27,92-132,56 nmol/mg/h
trong vụ xuân 2017 và 31,98-148,63 nmol/mg/h trong vụ
mùa 2017). Kết quả cũng cho thấy có sự khác nhau về khả
năng chuyển hóa đường từ rơm rạ trong cùng một giống
được thu hoạch ở thời vụ khác nhau. Kết quả này góp phần
khẳng định tính trạng chuyển hóa đường từ rơm rạ của cây
lúa là do gen di truyền kiểm soát trong sự tương tác với
điều kiện môi trường để hình thành tính trạng. Kết quả GBS
trên 170 mẫu giống lúa, đã thu được 328.656 SNP trên 12
NST. GWAS về tính trạng chuyển hóa đường từ rơm rạ của
cây lúa trong nghiên cứu này có hệ số tương quan di truyền
0,65-0,77 trong vụ xuân và vụ mùa. Kết quả GWAS đã xác
định được 7 vị trí SNPs trên NST số 6 có ý nghĩa ở mức
p<0,001 và tần số alen từ 23 đến 35% trong liên kết LD là
nguyên nhân dẫn đến sự sai khác cho khả năng đường hóa
từ rơm rạ ở các giống lúa. 24 gen dự kiến chứa các SNP này
trên NST số 6. Trong đó, 4 gen LOC_Os06g39070 (GT1),
LOC_Os06g39080 (GT1), LOC_Os06g39390 (AT10)
và LOC_Os06g39470 (AT8) có các chức năng liên quan
đến tổng hợp chất ở thành tế bào và khả năng phân hủy
lignocellulose ở cây lúa. Kết quả nghiên cứu này rất có ý
nghĩa cho việc khai thác (sử dụng cơ sở dữ liệu GBS cho
GWAS một số tính trạng khác ở cây lúa) và sử dụng cho
các nghiên cứu tiếp theo để tìm ra gen kiểm soát tính trạng
khả năng chuyển hóa đường (phân hủy lignocellulose) trong
rơm rạ của cây lúa và phát triển chỉ thị cho chọn giống.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu liên kết trên toàn hệ gen (GWAS) về khả năng chuyển hóa đường từ rơm rạ của cây lúa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5062(12) 12.2020
Khoa học Nông nghiệp
Đặt vấn đề
Cây lúa (Oryza sativa L.) là nguồn cung cấp lương thực
cho hơn một nửa dân số trên thế giới, đặc biệt là nguồn
lương thực chủ yếu ở các quốc gia châu Á [1]. Tuy nhiên,
sản xuất lúa hiện nay đang phải đối mặt với những hệ quả
của biến đổi khí hậu như xâm nhập mặn và những diễn biến
bất thường của thời tiết (hạn, úng, lũ lụt, nóng). Mặt khác,
sản xuất lúa cũng là một trong những tác nhân gây biến đổi
khí hậu do tạo ra phát thải, đặc biệt là việc đốt rơm rạ sau
khi thu hoạch lúa.
Khi rơm rạ bị đốt cháy sẽ giải phóng ra các chất khí
CO
2
, CH
4
, các oxit ni tơ (NO
x
) và một lượng tương đối
nhỏ dioxit sulphur (SO
2
). Các chất khí này thải ra bầu khí
quyển là những chất gây hiệu ứng nhà kính [2, 3]. Tỷ lệ
rơm rạ sau thu hoạch chiếm 50-70% tổng sinh khối, tùy
thuộc vào giống và kỹ thuật canh tác [4, 5]. Hàng năm thế
giới sản xuất được 780-800 triệu tấn lúa thì cũng đồng thời
tạo ra 800-1.000 triệu tấn rơm rạ [1]. Theo Tổng cục Thống
kê (2016, 2017, 2018), sản lượng lúa của Việt Nam trong
những năm gần đây đạt trung bình 43,3 triệu tấn/năm, tương
đương với sản lượng rơm rạ tạo ra là 50-55 triệu tấn. Nguồn
phế thải này nếu được khai thác hợp lý sẽ mang lại lợi ích
không nhỏ, nhưng nếu chúng bị đốt ngay sau khi thu hoạch
sẽ tạo ra một lượng phát thải đáng kể cho bầu khí quyển.
Chuyển hóa xenlulo thành đường trong rơm rạ là một
yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng khai thác và sử
dụng rơm rạ vào các mục đích như chế biến thức ăn chăn
nuôi, nhiên liệu sinh học, sản xuất nấm, phân bón Nhiều
nhà khoa học trên thế giới đã tiến hành các nghiên cứu để
kích thích việc sử dụng rơm rạ vào sản xuất ethanol sinh
học [6, 7]. Để sản xuất ethanol từ rơm rạ, bước đầu cần phải
chuyển hóa được chúng thành đường. Rơm rạ càng dễ phân
hủy, càng tạo điều kiện thuận lợi và hiệu suất đạt được càng
cao trong quá trình thủy phân thành đường [8]. Đây chính là
điều cốt lõi để có thể tận dụng triệt để nguồn rơm rạ từ sản
xuất lúa gạo. Từ đây một số hướng nghiên cứu đã được mở
ra, trong đó nghiên cứu di truyền bằng công nghệ sinh học,
Nghiên cứu liên kết trên toàn hệ gen (GWAS)
về khả năng chuyển hóa đường
từ rơm rạ của cây lúa
Dương Xuân Tú1*, Nguyễn Thị Hường1, Lê Thị Thanh1,
Nguyễn Thế Dương1, Simon McQueen Mason2, Claire Halpin3
1Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
2Đại học York, Vương quốc Anh
3Đại học Dundee, Vương quốc Anh
Ngày nhận bài 4/9/2020; ngày chuyển phản biện 11/9/2020; ngày nhận phản biện 16/10/2020; ngày chấp nhận đăng 21/10/2020
Tóm tắt:
Nghiên cứu liên kết trên toàn hệ gen (genome-wide association study - GWAS) là một công cụ hiện đại để xây dựng
bản đồ di truyền liên kết các tính trạng số lượng (QTL) ở cây trồng. Trong nghiên cứu này, các tác giả đưa ra kết
quả GWAS tính trạng khả năng đường hóa của cây lúa dựa trên cơ sở dữ liệu giải trình tự kiểu gen (GBS) và khả
năng chuyển hóa đường từ rơm rạ của 170 mẫu giống lúa thuộc nhóm Indica được thu thập ở Việt Nam. Kết quả
thu được 328.656 SNP trên 12 nhiễm sắc thể (NST), trung bình 1 SNP/1 kb. Khả năng đường hóa từ rơm rạ của 170
mẫu giống lúa dao động từ 27,92 đến 132,56 nmol/mg/h (vụ xuân 2017) và 31,98-148,63 nmol/mg/h (vụ mùa 2017).
Kết quả GWAS, tại giá trị Log
10
(P-value)≥3 đã xác định được 7 vị trí SNP trên NST số 6 với mức ý nghĩa p<0,001
và tần số alen từ 23 đến 35% liên quan đến khả năng chuyển hóa đường từ rơm rạ của cây lúa. Tại vị trí của các
SNP này (peak SNP), 24 gen đã được dự kiến nằm trong các vùng QTL liên quan đến khả năng đường hóa ở rơm
rạ của cây lúa. Trong đó, 4 gen là LOC_Os06g39070 (GT1), LOC_Os06g39080 (GT1), LOC_Os06g39390 (AT10)
và LOC_Os06g39470 (AT8) có các chức năng liên quan đến tổng hợp chất ở thành tế bào và khả năng phân hủy
lignocellulose ở cây lúa. Các gen này được tiếp tục nghiên cứu để phát triển các chỉ thị phân tử sử dụng trong chọn
tạo giống lúa theo hướng có rơm rạ chuyển hóa đường cao.
Từ khóa: chuyển hóa đường, liên kết không cân bằng, lúa, nghiên cứu trên hệ gen, rơm rạ.
Chỉ số phân loại: 4.6
*Tác giả liên hệ: Email: duongtu390@hotmail.com
5162(12) 12.2020
Khoa học Nông nghiệp
đặc biệt GWAS là công cụ hỗ trợ tốt cho các nhà chọn giống
có cơ sở để chọn tạo được những giống lúa mới đáp ứng cho
sản xuất, đồng thời rơm rạ có khả năng chuyển hóa đường
cao sẽ kích thích việc khai thác và sử dụng rơm rạ, hạn chế
tối đa việc đốt rơm rạ sau khi thu hoạch lúa.
GWAS dựa trên liên kết LD là một công nghệ mới cho
việc xây dựng bản đồ các QTL kiểm soát các tính trạng trên
toàn hệ gen với sự tiếp cận kiểu gen và kiểu hình mức phân
giải cao [9]. GWAS đầu tiên được sử dụng ở người, sau đó
đã trở thành một công cụ hiệu quả để xác định vị trí các
gen quy định tính trạng ở nhiều loài cây trồng [10]. Giải
trình tự kiểu gen với mật độ cao các SNP trên toàn hệ gen
để tìm ra các trình tự đơn (halotype) và từng vị trí SNP liên
quan đến sự biến động hoặc sự sai khác của tính trạng ở các
cá thể, từ đó xác định được các QTL kiểm soát tính trạng
[11]. Trong những năm gần đây, sự phát triển của công nghệ
hiện đại trong việc giải trình tự ADN với mật độ cao của
các SNP trên toàn hệ gen, chi phí thấp đã tạo điều kiện cho
sự phát triển của GWAS có hiệu quả hơn trên quần thể tự
nhiên [12]. Trên thế giới cũng đã có một số công bố sử dụng
GWAS để xác định các QTL kiểm soát khả năng chuyển
hóa đường từ thân lá ở các loài cây trồng khác nhau như cỏ
Miscanthus [13], ngô [14], cỏ alfalfa [15], lúa mạch [16].
Tuy nhiên, chuyển hóa đường từ lignocellulose là một tính
trạng rất khó để đánh giá cả trên đồng ruộng và trong phòng
thí nghiệm [17]. Đối với cây lúa, đã có thành công trong
việc giải mã bộ gen lúa và nghiên cứu bộ gen của 3.010 mẫu
giống lúa ở khu vực Đông - Nam châu Á [18], đồng thời lúa
là loài tự thụ cao, có kích cỡ bộ gen nhỏ (khoảng 430 triệu
gen) nên trong GWAS sẽ dễ đưa ra gen dự kiến [18]. Juan
và cs (2018) [19] đã thành công trong sử dụng công nghệ
GWAS để tìm ra các QTL kiểm soát các tính trạng quan
trọng như thời gian sinh trưởng, chiều cao cây, số bông trên
cây, số hạt trên bông và độ dài bông của 193 mẫu giống lúa
thuộc loài phụ Japonica. Đối với nhóm giống lúa Indica,
cũng đã có những ứng dụng thành công GWAS để xác định
các QTL kiểm soát các tính trạng quan trọng của cây lúa
[20, 21].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành GWAS trên
170 mẫu giống lúa thuộc loài phụ Indica để dự kiến các gen
nằm trên vùng QTL kiểm soát khả năng đường hóa từ rơm
rạ của cây lúa. Kết quả của nghiên cứu này sẽ được tiếp tục
cho các nghiên cứu tiếp theo để tìm ra gen kiểm soát tính
trạng khả năng đường hóa ở cây lúa và phát triển chỉ thị
phân tử cho chọn tạo giống lúa có rơm rạ chuyển hóa đường
cao, nâng cao chất lượng rơm rạ để tăng cường khai thác,
hạn chế việc đốt rơm rạ sau khi thu hoạch, hạn chế phát thải
trong sản xuất lúa gạo.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu
170 mẫu giống lúa thuộc loài phụ Indica được thu thập
tại các vùng sản xuất lúa của Việt Nam, bao gồm các giống
Genome-wide association study (GWAS)
for digestibility in rice straw
Xuan Tu Duong1*, Thi Huong Nguyen1, Thi Thanh Le1,
The Duong Nguyen1, Simon McQueen Mason2, Claire Halpin3
1Field Crops Research Institute, VAAS
2York University, United Kingdom
3Dundee University, United Kingdom
Received 4 September 2020; accepted 21 October 2020
Abstract:
Genome-wide association study (GWAS) based on linkage
disequilibrium (LD) of single nucleotide polymorphism
(SNP) provides a promising tool for the detection
and fine mapping of quantitative trait loci (QTL) in
plants. In this study, the authors showed GWAS for
saccharification (digestibility) trait of rice straw-based
on genotyping by sequencing (GBS) and the ability of
sugar released from the straw of 170 rice accessions of
Indica rice subspecies that were collected in Vietnam. In
the GBS result, the authors obtained a total of 328,656
SNPs stored in Hapmap on the 12 chromosomes. The
average density of SNP markers in our panel was 1SNP/1
kb in the rice genome. The saccharification (sugar
released) from the straw of 170 rice accessions ranged
from 27.92-132.56 nmol/mg/hour (for straw harvested in
Spring 2017) and from 31.98-148.63 nmol/mg/hour (for
straw harvested in Summer season 2017). The results of
GWAS for saccharification, at Log10(P-value) ≥3 with
significant p<0.001 the authors identified 7 peak SNPs on
chromosome 6 with the frequency of minor allen from 23
to 35%. Base on the LD to search within ±200 kb of peak
SNP, and base on whether the function of the gens had
been characterized before in rice, the authors identified
24 candidate genes on chromosome 6 for saccharification.
Among them, 4 genes are LOC_Os06g39070 (GT1),
LOC_Os06g39080 (GT1), LOC_Os06g39390 (AT10)
and LOC_Os06g39470 (AT8) have functions related to
cell wall synthesis and lignocellulose degradation in rice.
These candidate genes are further researched to develop
molecular markers used in rice breeding with the trait
of high saccharification of straw and to detect genes for
high saccharification rice straw.
Keywords: genome-wide association study, linkage
disequilibrium, rice, saccharification, straw.
Classification number: 4.6
5262(12) 12.2020
Khoa học Nông nghiệp
lúa bản địa, các giống lúa cải tiến và một số nguồn gen nhập
nội đang được lưu giữ. Các mẫu giống lúa được trồng tại
Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm, được thu mẫu ADN
trong vụ mùa 2014 và vụ xuân 2016 cho GBS và thu mẫu
rơm rạ cho phân tích khả năng đường hóa trong vụ xuân và
vụ mùa 2017.
Phương pháp nghiên cứu
Gieo trồng 170 mẫu giống lúa trên đồng ruộng để thu
mẫu rơm rạ: được bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh
với 5 lần nhắc lại, diện tích ô thí nghiệm là 5 m2, mật độ
45 cây/m2. Kỹ thuật gieo trồng được áp dụng chung theo
quy trình thí nghiệm của Viện Cây lương thực và Cây thực
phẩm.
Tách chiết ADN: mẫu lá lúa được thu tại thời điểm 30
ngày tuổi để tách chiết ADN, 2 g/cây. Sử dụng kit tách chiết
DNeasy plant mini kit-Qiagen (DNeasy Plant Mini Kit and
DNeasy Plant Maxi Kit Handbook 8/2000).
Thu mẫu rơm rạ: thu của 10 cây mẫu trong mỗi ô thí
nghiệm ngay sau khi thu hoạch hạt ở giai đoạn chín 90%;
thu phần thân cây từ đốt thứ 2 tính từ mặt đất, loại bỏ đốt
mang bông và lá. Các mẫu rơm rạ sau khi thu hoạch được
sấy khô đến khối lượng không đổi, được khử trùng trước khi
gửi sang Đại học York (Vương quốc Anh) phân tích.
Phân tích chuyển hóa đường từ rơm rạ: được thực hiện
tại Trung tâm Sản phẩm Nông nghiệp mới (Center for Novel
Agricultural Product - CNAP), Đại học York, Vương quốc
Anh theo phương pháp tự động được miêu tả bởi Gomez và
cs (2011) [22] (hình 1).
Hình 1. Các bước trong phân tích đường hóa từ rơm rạ của cây
lúa [22].
Giải trình tự kiểu gen GBS: được thực hiện trên Illumina
platform tại Đại học Cornel (Mỹ), theo phương pháp được
miêu tả bởi Elshire và cs (2011) [23]. Số liệu sau giải trình
tự được xử lý bằng phần mềm TASSEL 3.0 [24].
Phân tích GWAS: kết hợp dữ liệu GBS và kết quả phân
tích đường hóa trong rơm rạ của 170 mẫu giống lúa theo
[25], xác định các SNP trong liên kết LD cho khả năng
đường hóa.
Dự kiến các QTL/gen: từ vị trí các SNP trong liên kết
LD, tra cứu trong “Rice Genome Annotation Project” (http://
rice.plantbiology.msu.edu/) và “3010 genome diversity”
[18] để dự kiến các gen.
Kết quả và thảo luận
GBS của 170 mẫu giống lúa
Kết quả GBS đã đưa ra tổng số 328.656 SNP trên mạch
đơn (HapMap) toàn bộ 12 NST của 170 mẫu giống lúa (hình
2) với mật độ trung bình là 1 SNP/1 kb trên toàn hệ gen. Mật
độ SNP này là thấp hơn so với công bố của một số nghiên
cứu gần đây là 1,7 SNP/kb [20] và 1,1 SNP/1 kb [21]. Các
SNP này được sử dụng trong GWAS để tìm ra liên kết LD là
nguyên nhân dẫn đến sự sai khác chuyển hóa đường trong
rơm rạ của các mẫu giống lúa, từ đó dự kiến các gen nằm
trong các vùng QTL liên quan đến chuyển hóa đường từ
rơm rạ của cây lúa.
Hình 2. Số lượng các SNP được tìm ra trên 170 mẫu giống lúa
nghiên cứu.
Phân tích chuyển hóa đường từ rơm rạ của 170 mẫu
giống lúa
Kết quả phân tích mẫu rơm rạ của 170 mẫu giống lúa
cho thấy sự khác nhau về khả năng chuyển hóa đường ở
2 thời vụ thu hoạch. Khả năng chuyển hóa đường từ rơm
rạ của các mẫu giống thu hoạch trong vụ xuân 2017 dao
động trong khoảng từ 22,9 nmol/mg/h (ở giống nếp đỏ đuôi
trâu) đến 132,6 nmol/mg/h (ở giống U17). Trong khi các
mẫu rơm rạ thu trong vụ mùa 2017 có khả năng chuyển
hóa đường ở mức cao hơn, dao động từ 32,0 nmol/mg/h (ở
giống Lúa nương-2) đến 148,6 nmol/mg/h (ở giống Khẩu
munuong) (hình 3).
5
các mẫu giống lúa, từ đó dự kiến các gen nằm trong các vùng QTL liên quan đến
chuyển hóa đường từ rơm rạ của cây lúa.
Hình 2. Số lượng các SNP đư ợc tìm ra trên 170 mẫu giống lúa nghiên cứu.
Phân tích chuyển hóa đường từ rơm rạ của 170 mẫu giống lúa
Kết quả phân tích mẫu rơm rạ của 170 mẫu giống lúa cho thấy sự khác nhau về
khả năng chuyển hóa đường ở 2 thời vụ thu hoạch. Khả năng chuyển hóa đường từ rơm
rạ của các mẫu giống thu hoạch trong vụ xuân 2017 dao động trong khoảng từ 22,9
nmol/mg/h (ở giống nếp đỏ đuôi trâu) đến 132,6 nmol/mg/h (ở giống U17). Trong khi
các mẫu rơm rạ thu trong vụ mùa 2017 có khả năng chuyển hóa đường ở mức cao hơn,
dao động từ 32,0 nmol/mg/h (ở giống Lúa nương-2) đến 148,6 nmol/mg/h (ở giống
Khẩu munuong) (hình 3).
(A ) (B )
Hình 3. Kh ả năng đư ờ ng hóa t ừ rơm r ạ c ủ a 170 m ẫ u gi ố ng lúa. (A ) Các m ẫ u rơm r ạ thu
ho ạ ch trong v ụ xuân 2017; ( B ) Các m ẫ u rơm r ạ thu trong v ụ mùa 2017.
Có sự khác biệt về chuyển hóa đường từ rơm rạ của các giống lúa khác nhau
trong cùng một thời vụ và cùng điều kiện canh tác. Sự khác biệt này cũng xảy ra đối với
cùng một giống ở các thời vụ khác nhau (bảng 1).
Bảng 1. Danh sách mẫu giống cho khả năng chuyển hóa đường thấp nhất và cao nhất từ
rơm r ạ được thu hoạch trong vụ xuân và vụ mùa 2017.
TT Tên mẫu giống
Khả năng chuyển hóa đường từ rơm rạ ( nmol/mg /h )
Vụ xuân 2017 Vụ mùa 2017 Trung bình
Nhóm mẫu giống có rơm rạ cho khả năng chuyển hóa đường thấp
1 Quế thơm 27,92 38,70 33,31
S
N
P
Nhi ễ m s ắ c th ể
Đ
ư
ờ
n
g
g
iả
i
p
h
ó
n
g
(
n
m
o
l /
m
g
/h
)
Đ
ư
ờ
n
g
g
iả
i
p
h
ó
n
g
(
n
m
o
l/
m
g
/h
)
)
Mẫu giống lúa Mẫu giống lúa
(A) (B)
Hình 3. Khả năng đường hóa từ rơm rạ của 170 mẫu giống lúa.
(A) Các mẫu rơm rạ thu hoạch trong vụ xuân 2017; (B) Các mẫu rơm
rạ thu trong vụ mùa 2017.
5362(12) 12.2020
Khoa học Nông nghiệp
Có sự khác biệt về chuyển hóa đường từ rơm rạ của các
giống lúa khác nhau trong cùng một thời vụ và cùng điều
kiện canh tác. Sự khác biệt này cũng xảy ra đối với cùng
một giống ở các thời vụ khác nhau (bảng 1).
Bảng 1. Danh sách mẫu giống cho khả năng chuyển hóa đường
thấp nhất và cao nhất từ rơm rạ được thu hoạch trong vụ xuân
và vụ mùa 2017.
TT Tên mẫu giống
Khả năng chuyển hóa đường từ rơm rạ
(nmol/mg/h)
Vụ xuân 2017 Vụ mùa 2017 Trung bình
Nhóm mẫu giống có rơm rạ cho khả năng chuyển hóa đường thấp
1 Quế thơm 27,92 38,70 33,31
2 142m12 30,53 37,76 34,14
3 OM6377 35,31 36,22 35,76
4 SH4-11 30,94 42,29 36,61
5 IRBB3 30,63 43,65 37,14
6 Xi23 40,58 33,72 37,15
7 Lúa nương -2 42,74 31,98 37,36
8 10L142 37,65 39,12 38,38
9 OM2517 32,14 44,82 38,48
10 OM4325 27,79 50,22 39,00
Nhóm mẫu giống có rơm rạ cho khả năng chuyển hóa đường cao
1 Tan nhe -1 54,62 72,13 63,38
2 IRBB7-196 44,22 83,35 63,78
3 AG-504 57,64 72,49 65,07
4 Khẩu lạn, gan mợn 37,84 94,28 66,06
5 Tẻ ka chăm pỉ 48,23 86,31 67,27
6 Khẩu lạn, gan mợn -1 35,57 110,15 72,86
7 AC5/149-13 73,26 80,50 76,88
8 Khẩu mumoong 38,06 133,90 85,98
9 Khâu munuong 55,29 148,63 101,96
10 U17 132,56 114,00 123,28
Kết quả phân tích GWAS đã đưa ra hệ số tương quan di
truyền khả năng chuyển hóa đường (phân hủy lignocellulose)
từ rơm rạ của 170 mẫu giống lúa trong vụ xuân 2017 là
0,6531712 và trong vụ mùa 2017 là 0,767198 (hình 4). Sự
khác biệt về khả năng chuyển hóa đường từ rơm rạ của cùng
một giống tại các thời vụ khác nhau là do ảnh hưởng của
điều kiện môi trường. Tuy vậy, mức độ sai khác này cũng thể
hiện khác nhau giữa các mẫu giống, sự phản ứng khác nhau
của yếu tố di truyền với môi trường dẫn đến sự khác nhau
về thành phần và khả năng phân hủy của lignocellulose trên
thành tế bào. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với kết
quả nghiên cứu của Oakey và cs (2013) [17] đã được công
bố về sự khác biệt khả năng phân hủy lignocellulose trong
chuyển hóa đường trong thành phần cellulose của cây lúa do
ảnh hưởng của yếu tố môi trường qua các năm khác nhau.
6
2 142m12 30,53 37,76 34,14
3 OM6377 35,31 36,22 35,76
4 SH4-11 30,94 42,29 36,61
5 IRBB3 30,63 43,65 37,14
6 Xi23 40,58 33,72 37,15
7 Lúa nương -2 42,74 31,98 37,36
8 10L142 37,65 39,12 38,38
9 OM2517 32,14 44,82 38,48
10 OM4325 27,79 50,22 39,00
Nhóm mẫu giống có rơm rạ cho khả năng chuyển hóa đường cao
1 Tan nhe -1 54,62 72,13 63,38
2 IRBB7-196 44,22 83,35 63,78
3 AG-504 57,64 72,49 65,07
4 Khẩu lạn, gan mợn 37,84 94,28 66,06
5 Tẻ ka chăm pỉ 48,23 86,31 67,27
6 Khẩu lạn, gan mợn -1 35,57 110,15 72,86
7 AC5/149-13 73,26 80,50 76,88
8 Khẩu mumoong 38,06 133,90 85,98
9 Khâu munuong 55,29 148,63 101,96
10 U17 132,56 114,00 123,28
Kết quả phân tích GWAS đã đưa ra hệ số tương quan di truyền khả năng
chuyển hóa đường (phân hủy lignocellulose) từ rơm rạ của 170 mẫu giống lúa trong vụ
xuân 2017 là 0,6531712 và trong vụ mùa 2017 là 0,767198 (hình 4). Sự khác biệt về
khả năng chuyển hóa đường từ rơm rạ của cùng một giống tại các thời vụ khác nhau là
do ảnh hưởng của điều kiện môi trường. Tuy vậy, mức độ sai khác này cũng thể hiện
khác nhau giữa các mẫu giống, sự phản ứng khác nhau của yếu tố di truyền với môi
trường dẫn đến sự khác nhau về thành phần và khả năng phân hủy của lignocellulose
trên thành tế bào. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của
Oakey và cs (2013) [17] đã được công bố về sự khác biệt khả năng phân hủy
lignocellulose trong chuyển hóa đường trong thành phần cellulose của cây lúa do ảnh
hưởng của yếu tố môi trường qua các năm khác nhau.
Hệ số di truyền = 0,6531712
(A)
Nhiễm sắc thể
G
iá
tr
ị q
ua
n
sá
t
Năm 2017
Giá trị mong đợi
L
og
10
(P
-v
al
ue
)
7
Hệ số di truyền = 0,767198
(B)
Hình 4. GWAS khả năng đường hóa từ rơm rạ trên cơ sở dữ liệu của 170 mẫu giống lúa.
(A) Mẫu rơm rạ được thu trong vụ xuân 2017; (B) Mẫu rơm rạ được thu trong vụ mùa 2017.
Ở các tỉnh phía Bắc, vụ lúa xuân (tháng 1-6) và vụ lúa mùa (tháng 6-10) có sự
khác biệt về thời tiết với một số yếu tố như: nhiệt độ trung bình, độ ẩm không khí, thời
gian chiếu sáng ngày và cường độ ánh sáng. Sự khác biệt này dẫn đến sự khác biệt về
sinh trưởng, phát triển, tích lũy chất khô để hình thành sinh khối và các thành phần sinh
khối. Đây cũng là nguyên nhân của sự khác biệt về thành phần của sinh khối, hàm
lượng và khả năng phân hủy của lignocellulose dẫn đến sự khác nhau về khả năng
đường hóa từ rơm rạ của các mẫu giống lúa. Bên cạnh đó, yếu tố di truyền của giống
cũng sẽ quyết định đến mức độ phản ứng khác nhau với điều kiện môi trường. Điều này
thể hiện rất rõ trong kết quả phân tích của chúng tôi ở trên.
GWAS xác định các SNP liên kết LD cho khả năng đường hóa
Phân tích GWAS được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu gồm các thành viên của
Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm, Đại học York và Dundee, trên cơ sở dữ liệu
kiểu gen (GBS) và kiểu hình (khả năng đường hóa từ rơm rạ) của 170 mẫu giống lúa
trong vụ xuân 2017 và vụ mùa 2017 (hình 3).
Hệ số tương quan di truyền tính trạng khả năng đường hóa từ rơm rạ được tính
trên sự sai kiểu gen và kiểu hình của các mẫu giống trong quần thể được đưa ra trong
vụ xuân 2017 là 0,6531712 và vụ mùa 2017 là 0,767198. Tính trạng về khả năng
chuyển hóa đường từ rơm rạ ở cây lúa có hệ số tương quan di truyền là tương đối lớn,
thể hiện được sự kiểm soát bởi kiểu gen di truyền trong mối tương tác giữa kiểu gen và
môi trường để biểu hiện ra kiểu hình.
Kết quả GWAS tính trạng khả năng chuyển hóa đường từ rơm rạ của 170 mẫu
giống lúa trong cả 2 vụ, tại giá trị Log10(P-value)≥3 đã xác định được 7 vị trí SNPs liên
kết LD có ý nghĩa ở mức p<0,001 và tần số alen từ 23 đến 35% (bảng 2). Các SNP
trong liên kết LD này có ý nghĩa là nguyên nhân cho sự sai khác về khả năng chuyển
hóa đường giữa các giống lúa.
Lượng đường thu được
Nhiễm sắc thể
Giá trị mong đợi
Năm 2018
G
iá
tr
ị q
ua
n
sá
t
L
og
10
(P
-v
al
ue
)
Hình 4. GWAS khả năng đường hóa từ rơm rạ trên cơ sở dữ liệu
của 170 mẫu giống lúa. (A) Mẫu rơm rạ được thu trong vụ xuân
2017; (B) Mẫu rơm rạ được thu trong vụ mùa 2017.
Ở các tỉnh phía Bắc, vụ lúa xuân (tháng 1-6) và vụ lúa
mùa (tháng 6-10) có sự khác bi về thời tiết với một số
yếu tố như: nhiệt độ trung bình, độ ẩm không khí, thời gian
chiếu sáng ngày và cường độ ánh sáng. Sự khác biệt này dẫn
đến sự khác biệt về si h trưởng, phát triển, tích lũy chất khô
để hình thành sinh khối và các thành phần sinh khối. Đây
cũng là nguyên nhân của sự khác biệt về thành phần của sinh
khối, hàm lượng và khả năng phân hủy của ligno ellulose
dẫn đến sự khác nhau về khả năng đường hóa từ rơm rạ của
các mẫu giống lúa. Bên cạnh đó, yếu tố di truyền của giống
cũng sẽ quyết định đến mức độ phản ứng khác nhau với điều
kiện môi trường. Điều này thể hiện rất rõ tro g kết quả phâ
tích của chúng tôi ở trên.
GWAS xác định các SNP liên kết LD cho khả năng
đường hóa
Phân tích GWAS được thực hiện bởi nhóm n hiên cứu
gồm các thành viên của Viện Cây lương thực và Cây thực
phẩm, Đại học York và Dundee, trên cơ sở dữ liệu kiểu gen
(GBS) và kiểu hình (khả năng đường hóa từ rơm rạ) của 170
mẫu giống lúa trong vụ xuân 2017 và vụ mùa 2017 (hình 3).
Hệ số tương quan di truyền tính trạng khả năng đường
hóa từ rơm rạ được tính trên sự sai kiểu gen và kiểu hình
của các mẫu giống trong quần thể được đưa ra trong vụ xuân
2017 là 0,6531712 và vụ mùa 2017 là 0,767198. Tính trạng
về khả năng chuyển hóa đường từ rơm rạ ở cây lúa có hệ
5462(12) 12.2020
Khoa học Nông nghiệp
số tương quan di truyền là tương đối lớn, thể hiện được sự
kiểm soát bởi kiểu gen di truyền trong mối tương tác giữa
kiểu gen và môi trường để biểu hiện ra kiểu hình.
Kết quả GWAS tính trạng khả năng chuyển hóa đường
từ rơm rạ của 170 mẫu giống lúa trong cả 2 vụ, tại giá trị
Log
10
(P-value)≥3 đã xác định được 7 vị trí SNPs liên kết
LD có ý nghĩa ở mức p<0,001 và tần số alen từ 23 đến
35% (bảng 2). Các SNP trong liên kết LD này có ý nghĩa là
nguyên nhân cho sự sai khác về khả năng chuyển hóa đường
giữa các giống lúa.
Bảng 2. Các SNP trong liên kết LD và các gen dự kiến về tính
trạng khả năng đường hóa từ rơm rạ của cây lúa được tính ra
trên toàn hệ gen.
Vị trí Alen chính
Alen
thay
thế
Tần suất
alen thay
thế
Gen dự kiến
S6-23197325 C T 0,23
LOC_Os06g39070 (GT1, enzyme
UDP-glucoronosyl và UDP-glucosyl
transferase)
S6-23205192 C G 0,27
LOC_Os06g39080 (GT1, enzyme
UDP-glucoronosyl và UDP-glucosyl
transferase)
LOC_Os06g39100 (biểu hiện protein)
LOC_Os06g39110 (biểu hiện protein)
S6-23231889 A G 0,35
LOC_Os06g39120 (biểu hiện protein)
LOC_Os06g39130 (protein giả định)
LOC_Os06g39140 (hemoglobin-like
protein HbO)
LOC_Os06g39200 (biểu hiện protein)
LOC_Os06g39230 (biểu hiện protein)
LOC_Os06g39240 (nhân tố biệt hóa
màng)
S6-23297154 A G 0,26
LOC_Os06g39260 (vận chuyển UDP
glucose)
LOC_Os06g39270 (chức năng vận
chuyển Flavonoid glucosyl)
LOC_Os06g39290 (biểu hiện protein)
LOC_Os06g39330 (biểu hiện protein)
S6-23338130 T C 0,29
LOC_Os06g39344 (enoyl-CoA
hydratase/isomerase family protein)
LOC_Os06g39370 (vùng protein
mang OsFBK16 F)
LOC_Os06g39380 (protein giả định)
LOC_Os06g39390 (AT10, chức
năng vận chuyển Transferase
glucuronoarabinoxylan)
LOC_Os06g39410 (biểu hiện protein)
LOC_Os06g39420 (biểu hiện protein)
LOC_Os06g39440 (chức năng enzyme
amidophosphoribosyltransferase)
S6-23441394 A G 0,33
LOC_Os06g39470 (AT8, enzyme
Feruloyl transferase)
LOC_Os06g39480 (protein mang
SPOC)
S6-23451691 T G 0,25 LOC_Os06g39500 (biểu hiện protein)
Dự kiến các gen cho khả năng chuyển hóa đường từ
rơm rạ của cây lúa
Dựa vào kết quả nghiên cứu đã được công bố về phạm vi
biến động trong liên kết LD ở cây lúa [26]; kết quả công bố
từ “Genomic variation in 3010 diverse accessions of Asian
cultivated rice” [18] và “Rice Genome Annotation Project”
( chúng tôi đã dự kiến
được 24 gen nằm trên các vùng QTL thuộc NST số 6 liên
quan đến khả năng chuyển hóa đường từ rơm rạ của cây lúa
(bảng 2) tại vị trí đỉnh của 7 SNP (peak SNP).
Các gen dự kiến được lựa chọn dựa vào các chức năng
của gen đã được công bố hoặc trong nhóm gen tương tự
đã được biết đến với vai trò trong sự tổng hợp hoặc biến
đổi thành tế bào, liên quan đến phân hủy lignocellulose.
Trong đó, LOC_Os06g39070 và LOC_Os06g39080 (GT1)
được tìm ra trong vùng QTL có sự liên quan chặt đến khả
năng chuyển hóa đường cao. Hai gen này cũng được tìm
ra chức năng tham gia vào tổng hợp và vận chuyển UDP-
glucoronosyl và UDP-glucosyl trong thành tế bào, liên quan
đến khả năng phân hủy lignocellulose ở cây lúa [18]; LOC_
Os06g39390 (AT10) có chức năng mã hóa một co-enzyme
vận chuyển p-coumaroyl tới arabinoxylan, liên quan đến
quá trình tổng hợp thành tế bào và lignocellulose khả năng
chuyển hóa đường ở cây lúa [24]. LOC_Os06g39470 (AT8)
cũng đã được tìm ra với chức năng vận chuyển Feruloyl
trong trao đổi chất thành tế bào của cây lúa [27]. Kết quả
này tạo tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo để tìm ra gen
kiểm soát tính trạng khả năng chuyển hóa đường (phân hủy
lignocellulose) trong rơm rạ của cây lúa và phát triển chỉ thị
cho chọn giống.
Kết luận
Kết quả phân tích trên 170 mẫu giống lúa thu thập ở
Việt Nam cho thấy có sự biến động về khả năng chuyển
hóa đường từ rơm rạ của các mẫu giống trong cùng một
điều kiện canh tác và mùa vụ (từ 27,92-132,56 nmol/mg/h
trong vụ xuân 2017 và 31,98-148,63 nmol/mg/h trong vụ
mùa 2017). Kết quả cũng cho thấy có sự khác nhau về khả
năng chuyển hóa đường từ rơm rạ trong cùng một giống
được thu hoạch ở thời vụ khác nhau. Kết quả này góp phần
khẳng định tính trạng chuyển hóa đường từ rơm rạ của cây
lúa là do gen di truyền kiểm soát trong sự tương tác với
điều kiện môi trường để hình thành tính trạng. Kết quả GBS
trên 170 mẫu giống lúa, đã thu được 328.656 SNP trên 12
NST. GWAS về tính trạng chuyển hóa đường từ rơm rạ của
cây lúa trong nghiên cứu này có hệ số tương quan di truyền
0,65-0,77 trong vụ xuân và vụ mùa. Kết quả GWAS đã xác
định được 7 vị trí SNPs trên NST số 6 có ý nghĩa ở mức
p<0,001 và tần số alen từ 23 đến 35% trong liên kết LD là
nguyên nhân dẫn đến sự sai khác cho khả năng đường hóa
từ rơm rạ ở các giống lúa. 24 gen dự kiến chứa các SNP này
5562(12) 12.2020
Khoa học Nông nghiệp
trên NST số 6. Trong đó, 4 gen LOC_Os06g39070 (GT1),
LOC_Os06g39080 (GT1), LOC_Os06g39390 (AT10)
và LOC_Os06g39470 (AT8) có các chức năng liên quan
đến tổng hợp chất ở thành tế bào và khả năng phân hủy
lignocellulose ở cây lúa. Kết quả nghiên cứu này rất có ý
nghĩa cho việc khai thác (sử dụng cơ sở dữ liệu GBS cho
GWAS một số tính trạng khác ở cây lúa) và sử dụng cho
các nghiên cứu tiếp theo để tìm ra gen kiểm soát tính trạng
khả năng chuyển hóa đường (phân hủy lignocellulose) trong
rơm rạ của cây lúa và phát triển chỉ thị cho chọn giống.
LỜI CẢM ƠN
Công trình này được thực hiện thông qua đề tài “Nghiên
cứu phát triển các nguồn gen lúa thích ứng với biến đổi
khí hậu (Developing rice resources for resilience to climate
change and carbon emission)” do Bộ Khoa học và Công
nghệ và Quỹ Newton cấp kinh phí. Các tác giả xin chân
thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] IRRI (2020), The value of sustainable rice straw management
(retrieved from https://www.irri.org/rice-straw-management, on 17
Feb 2020).
[2] Nguyễn Mậu Dũng (2012), “Ước tính lượng khí thải từ đốt
rơm rạ ngoài đồng ruộng tại khu vực Đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí
Khoa học và Phát triển, 10, tr.24-29.
[3] L. Wang, R. Templer, R.J. Murphy (2012), “Environmental
sustainability of bioethanol production from waste papers: sensitivity
to the system boundary”, Energy and Environmental Science; 5,
pp.8281-8293.
[4] Ministry of Economic Affaires (2013), Rice straw and Wheat
straw - Potential feedstocks for the biobased economy.
[5] Jiqin Ren, Peixian Yu, Xiaohong Xu (2019), “Review-
straw utilization in China - statusand recommendations”,
Sustainability, 11(6), p.1762.
[6] P. Binod, et al. (2010), “Bioethanol production from rice straw:
an overview”, Bioresource Technology, 101, pp.4767-4774.
[7] Satya Nagalakshmi, et al. (2013), “Bioethanol production
from rice straw residues”, Brazilian Journal of Microbiology, 44,
pp.225-234.
[8] L.D. Gomez, et al. (2008), “Sustainable liquid biofuels from
biomass: the writing’s on the walls”, New Phytol., 178, pp.473-485.
[9] A. Alqudah, et al. (2019), “GWAS: Fast-forwarding gene
identification and characterization in temperate cereals: lessons from
Barley - A review”, Journal of Advance Research, 22, pp.119-135.
[10] X. Huang, B. Han (2014), “Natural variations and genome-
wide association studies in crop plants”, Annu. Rev. Plant Biol., 65,
pp.531-551.
[11] B. Brachi, et al. (2011), “Genome-wide association studies
in plants: the missing heritability is in the field”, Genome Biology,
12(10), p.232.
[12] S. Atwell, et al. (2010), “Genome-wide association study
of 107 phenotypes in a common set of Arabidopsis thaliana inbred
lines”, Nature, 465, pp.627-631.
[13] G. Slavov, et al. (2013), “Advances in the genetic dissection
of plant cell walls: tools and resources available in Miscanthus”,
Frontiers in Plant Science, 4, p.217.
[14] B.W. Penning, et al. (2014), “Genetic determinants for
enzymatic digestion of lignocellulosic biomass are independent of
those for lignin abundance in a maize recombinant inbred population”,
Plant Physiology, 165(4), pp.1475-1487.
[15] Z. Wang, et al. (2016), “Association mapping for fiber-related
traits and digestibility in alfalfa (Medicago sativa)”, Plant Sciences,
7, p.331.
[16] L.D. Gomez, et al. (2010), “Automated saccharification assay
for determination of digestibility in plant materials”, Biotechnol.
Biofuels, 3, p.23.
[17] H. Oakey, et al. (2013), “Identification of crop cultivars
with consistently high lignocellulosic sugar release requires the use
of appropriate statistical design and modelling”, Biotechnology for
Biofuels, 6, p.185.
[18] W. Wang, et al. (2018), “Genomic variation in 3,010 diverse
accessions of Asian cultivated rice”, Nature, 557, pp.43-49.
[19] Juan L. Reig-Valiente1, et al. (2018), “Genome-wide
association study of agronomic traits in rice cultivated in temperate
regions”, BMC Genomics, 19, DOI: 10.1186/s12864-018-5086-y.
[20] X. Huang, et al. (2010), “Genome-wide association studies
of 14 agronomic traits in rice landraces”, Nat. Genet., 42, pp.961-967.
[21] Zhang Peng, et al. (2019), “Genome-wide association study
of important agronomic traits within a core collection of rice (Oryza
sativa L.)”, BMC Plant Biology, 19, DOI: 10.1186/s12870-019-1842-
7.
[22] L.D. Gomez, et al. (2011), “High-throughput saccharification
assay for lignocellulosic materials”, Journal of Visualized Experiment,
53, DOI: 10.3791/3240.
[23] R.J. Elshire, et al. (2011), “A robust, simple genotyping-by-
sequencing (GBS) approach for high diversity species”, PLOS ONE,
6(5), p.19379.
[24] L.E. Bartley, et al. (2013), “Overexpression of a BAHD
acyltransferase, OsAt10, alters rice cell wall hydroxycinnamic acid
content and saccharification”, Plant Physiology, 161, pp.1615-1633.
[25] J.C. Glaubitz, et al. (2014), “TASSEL-GBS: A high capacity
genotyping by sequencing analysis pipeline”, PLOS ONE, 9(2),
p.90346.
[26] K.A. Mather, et al. (2007), “The extent of linkage
disequilibrium in rice (Oryza sativa L.)”, Genetics, 177(4), pp.2223-
2232.
[27] R.A.C. Mitchell, et al. (2007), “A novel bioinformatics
approach identifies candidate genes for the synthesis and feruloylation
of arabinoxylan”, American Society of Plant Biologists, 144(1),
pp.43-53.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_lien_ket_tren_toan_he_gen_gwas_ve_kha_nang_chuyen.pdf