Mối liên quan giữa hình thái phôi
nang với số lượng bất thường NST
Trong 1 phôi có bất thường NST có
thể tồn tại nhiều dạng bất thường, chúng
tôi phân loại 953 phôi trong nghiên cứu
làm 4 loại dựa trên số lượng bất thường
tính trên 1 phôi. Sau đó tiếp tục xét mối
liên quan giữa hình thái phôi và số lượng
bất thường NST tính trên 1 phôi.
Trong nhóm phôi hình thái tốt, số phôi
bình thường chiếm đa số với 432 phôi
(69,1%); tỷ lệ phôi tốt có 1 bất thường
NST là 19,4% và tỷ lệ phôi bất thường ≥ 2
NST chiếm 11,52%.
Trong nhóm phôi hình thái trung bình
và xấu, tỷ lệ phôi bình thường chiếm lần
lượt là 39,4% và 23,6%, thấp hơn đáng
kể so với nhóm phôi hình thái tốt. Đồng
thời, tỷ lệ bất thường 1 NST của nhóm
phôi hình thái trung bình và xấu cũng cao
hơn nhóm phôi hình thái tốt, lần lượt là
35,6% và 39,3%. Tỷ lệ bất thường ≥ 2
NST trong nhóm phôi trung bình và xấu
cao gấp 2,17 và 3,23 lần so với nhóm
phôi tốt.
Xét trong tổng số 414 phôi đột biến thì
tỷ lệ mang đột biến 1 NST là 58,6%, còn
lại là đột biến phức tạp. Kết quả của
chúng tôi cũng tương tự nghiên cứu của
Franasiak và CS (2014) khi nghiên cứu
trên 15.169 phôi nang sinh thiết, ghi nhận
6.168 phôi lệch bội, trong đó 64% đột
biến liên quan đến 1 NST [3].
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu mối liên quan giữa hình thái phôi nang với bất thường nhiễm sắc thể, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
74
NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA HÌNH THÁI PHÔI NANG
VỚI BẤT THƯỜNG NHIỄM SẮC THỂ
Hoàng Minh Ngân1, Nguyễn Đình Tảo2
Nguyễn Trung Nam3, Triệu Tiến Sang3
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa hình thái phôi nang với bất thường nhiễm sắc thể
(NST). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả cắt ngang 953 phôi ngày thứ 5
được lâm sàng lọc NST tại Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản, Bệnh viện Đa khoa 16A Hà Đông từ
2/2018 - 5/2019. Kết quả: Tỷ lệ bất thường NST ở phôi nang là rất lớn, bất thường khảm
56,68%, bất thường số lượng nhiễm sắc thể là 36,6%, bất thường cấu trúc 6,68%. Số phôi bình
thường chiếm đa số ở nhóm phôi phân loại hình thái tốt (69,1%). Tỷ lệ mang 1, 2, 3 bất thường
tăng dần ở nhóm phôi trung bình và xấu. Nguy cơ bất thường NST tăng lên khi độ giãn rộng
khoang phôi thấp và hình thái lá nuôi, hình thái nụ phôi xấu. Với hình thái phôi ngày thứ 5 xếp
loại tốt, nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể giảm (OR = 0,22; 95%CI = 0,16 - 0,29; p < 0,001).
Kết luận: Có mối liên quan chặt chẽ giữa hình thái phôi nang với bất thường NST. Độ giãn
rộng (ĐGR) của phôi thấp, hình thái lá nuôi, nụ phôi và hình thái phôi nang xấu thì tỷ lệ bất
thường NST tăng lên.
* Từ khóa: Bất thường nhiễm sắc thể; Phôi nang; Thụ tinh trong ống nghiệm; Sàng lọc di truyền.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản kết hợp với kỹ
thuật sinh học phân tử trong chẩn đoán di
truyền trước chuyển phôi ở những bệnh
nhân (BN) có nguy cơ cao bất thường NST.
Chẩn đoán rối loạn NST trước chuyển
phôi giúp sàng lọc, đánh giá bất thường
NST của phôi trước khi chuyển vào buồng
tử cung người mẹ. Phương pháp này đã
được ứng dụng trong lâm sàng cho kết
quả cải thiện tỷ lệ thành công trong điều
trị vô sinh và áp dụng đối với BN có nguy
cơ cao bất thường NST. Đặc biệt, những
cặp vợ chồng có yếu tố nguy cơ như tuổi
mẹ cao, chuyển phôi thất bại nhiều lần và
sảy thai liên tiếp. Để cải thiện tỷ lệ thành
công của kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
(in vitro fertilization - IVF) và giảm tỷ lệ sảy
thai, một số trường hợp nên cân nhắc sàng
lọc rối loạn NST tiền làm tổ (preimplantation
genetic screening - PGS). Ưu điểm của
kỹ thuật này là không xâm lấn trên người
mẹ, nhanh chóng, giảm chi phí cũng như
tránh các gánh nặng về tinh thần và có
thể áp dụng cho tất cả các BN. Gần đây,
kết quả nghiên cứu cho thấy, các cặp vợ
chồng có phôi làm PGS thì tỷ lệ chuyển
phôi, có thai tăng lên đáng kể.
1. Bệnh viện Đa khoa 16A Hà Đông
2. Học viện Quân y
3. Học viện Khoa học và Công nghệ
Người phản hồi: Hoàng Minh Ngân (hmngan3509@gmail.com)
Ngày nhận bài: 03/4/2020
Ngày bài báo được đăng: 15/4/2020
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
75
Trên thế giới, đã có những nghiên cứu
sử dụng đặc điểm hình thái của phôi
nang kết hợp với xét nghiệm sàng lọc di
truyền của phôi nhằm lựa chọn được phôi
tiềm năng nhất để chuyển vào buồng tử
cung người mẹ, tăng hiệu quả của chu kỳ
IVF. Tuy nhiên, nghiên cứu về mối liên
quan của hình thái đến sự rối loạn NST ở
phôi nang còn ít. Do vậy, chúng tôi tiến
hành đề tài nhằm: Nghiên cứu mối liên
quan giữa hình thái phôi nang với bất
thường NST
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
953 phôi ngày thứ 5 tạo ra bằng
phương pháp tiêm tinh trùng vào bào
tương noãn có kết hợp đánh giá hình thái
phôi và tiến hành sinh thiết sàng lọc NST
tại Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản, Bệnh viện
Đa khoa 16A Hà Đông từ 2/2018 -
5/2019.
* Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Các phôi có mức độ phát triển giãn
rộng xoang phôi ≥ độ 3. Các phôi được
sinh thiết và tiến hành sàng lọc bằng
phương pháp giải trình tự gen thế hệ mới
(NGS).
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Các phôi không đủ điều kiện sinh
thiết, phát triển ở giai đoạn sớm hoặc có
dấu hiệu ngừng phát triển.
- Phôi của cặp bố mẹ hoặc người trong
gia đình bố mẹ mắc các bệnh di truyền;
Phôi của cặp bố mẹ hiện mắc các bệnh
nội khoa cấp tính hay mạn tính.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu hồi cứu, mô tả cắt ngang.
- Các phôi được đánh giá chất lượng
hình thái phôi theo tiêu chuẩn của tác giả
Gardner D.K. (1999). Hình thái lá nuôi và
nụ phôi chia thành 3 loại A, B, C dựa trên
số lượng tế bào và cách sắp xếp của các
tế bào.
Bảng 1: Hình thái phôi nang theo tiêu
chuẩn Gardner và Majumda.
Xếp loại Mô tả
Tốt Phôi có mức ĐGR ≥ 3. Phân loại
ICM và TE là: AA; AB; BA
Trung bình Phôi có mức ĐGR ≥ 3. Phân loại
ICM và TE là: BB; CA
Xấu
Phôi có mức ĐGR < 3
Hoặc ĐGR ≥ 3, nhưng phân loại
ICM và TE là: AC; BC; CB; CC
Các phôi được sinh thiết, rửa tế bào
và mang mẫu đi sàng lọc: Lấy 1 cụm tế
bào lá nuôi từ phôi nuôi cấy ngày thứ 5
bằng kim sinh thiết, rửa cụm tế bào thật
sạch bằng dung dịch PBS (Phosphate
Buffered Saline) cho mẫu vào ống PCR
rồi cất vào bullet. Phân tích các mẫu bằng
phương pháp NGS sử dụng bộ kít
VERIEQ trên máy MiseQ.
Thu thập số liệu bằng cách chụp ảnh
qua kính hiển vi đảo ngược vi thao tác
Carl zeiss (Đức).
Xử lý dữ liệu bằng phần mềm SPSS
20.0.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
76
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
1. Tỷ lệ các loại bất thường NST của phôi nang
Biểu đồ 1: Tỷ lệ các loại bất thường NST của phôi nang.
Trong 953 phôi sàng lọc, có 614 phôi đột biến (64,53%). Điều này cho thấy, tỷ lệ đột
biến NST là rất cao. Trong các phôi bất thường NST, tỷ lệ bất thường khảm là cao
nhất 56,68%, bất thường về số lượng NST (36,6%). Trong đó, tỷ lệ bất thường giữa
nhóm mất NST và thừa NST lần lượt là 18,73% và 17,92%. Điều này tương tự trong
nghiên cứu của Franasiak và CS (2014) khi nghiên cứu trên 15.169 phôi, nhóm tác giả
chỉ ra rằng tỷ lệ trisomy/monosomy xấp xỉ 1. Tỷ lệ bất thường thừa NST và mất NST là
phổ biến và gần tương đương nhau [3]. Nhóm bất thường cấu trúc NST trong nghiên
cứu của chúng tôi chiếm tỷ lệ thấp (6,68%).
2. Mối liên quan giữa hình thái phôi nang với bất thường NST
Bảng 2: Mối liên quan giữa hình thái phôi nang với bất thường NST.
Bình thường
n (%)
Bất thường NST
n (%) OR (95%CI)
p
Độ giãn rộng
Độ 5 364 (68,70) 166 (31,30) 0,32 (0,25 - 0,42)
Độ 4 153 (44,60) 190 (55,40) 2,14 (1,64 - 2,80)
Độ 3 22 (27,50) 58 (72,50) 3,83 (2,30 - 6,37)
< 0,001
Hình thái lá nuôi
A 303 (72,30) 116 (27,70) 0,30 (0,23 - 0,40)
B 214 (49,90) 215 (50,10) 1,64 (1,27 - 2,13)
C 22 (21,00) 83 (79,00) 5,89 (3,61 - 9,62)
< 0,001
Bất thường số lượng (36,6%) Bất thường cấu trúc (6,68%) Bất thường khảm (56,68%)
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
77
Hình thái nụ phôi
A 415 (68,7) 189 (31,3) 0,25 (0,19 - 0,33)
B 104 (39,1) 162 (60,9) 2,69 (2,01 - 3,60)
C 20 (24,1) 63 (75,9) 4,66 (2,77- 7,84)
< 0,001
Mức ĐGR của xoang phôi thể hiện tốc
độ phát triển của phôi đồng nghĩa với việc
phôi phát triển càng nhanh thì khả năng
có bất thường NST càng thấp, điều này
thể hiện rõ trong kết quả của chúng tôi.
Những phôi có ĐGR loại 3 (phân loại thấp
nhất ghi nhận trong nghiên cứu) làm tăng
nguy cơ bất thường NST (OR = 3,83;
95%CI = 2,3 - 6,37; p < 0,001) so với
nhóm còn lại. Trong khi đó, phôi có ĐGR
xoang phôi loại 5, nguy cơ bất thường
NST giảm đáng kể (OR = 0,32; 95%CI =
0,25 - 0,42; p < 0,001) so với nhóm còn
lại. Điều này cũng được đề cập tới trong
nghiên cứu của Wang (2018) trên 1.559
phôi, ĐGR xoang phôi liên quan đáng kể
với bất thường NST: ĐGR xoang phôi độ
1 và 2 cho kết quả chuẩn bội là 31,2%; độ
3 và 4 cho kết quả chuẩn bội là 32,2%; độ
5 và 6 cho kết quả chuẩn bội là 48,8% [4].
Lá nuôi tế bào (TE) cũng là một yếu tố
để đánh giá hình thái phôi nang. Nghiên
cứu của chúng tôi chỉ ra rằng, phôi với TE
bình thường (TE loại A) làm giảm nguy
cơ bất thường NST (OR = 0,30; 95%CI
= 0,23 - 0,40; p < 0,001). Những phôi có
chứa TE loại C có nguy cơ bất thường
NST lên đến 5,89 lần (95%CI = 3,61 - 9,62;
p < 0,001). Năm 2017, G. Majumdar và
CS xác định tỷ lệ lệch bội tăng khi chất
lượng TE giảm dần. Phôi với TE loại A, tỷ
lệ lệch bội là 26,4%; tỷ lệ này ở TE loại B
và loại C lần lượt là 49% và 56,7% [2].
Kết quả này tương tự trong nghiên cứu của
chúng tôi. Tuy nhiên, với chất lượng lá nuôi
loại C thì tỷ lệ bất thường của chúng tôi
cao hơn hẳn là 79%, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê. Sự chênh lệch tỷ lệ này có thể
do chúng tôi xét cả 2 loại bất thường số
lượng và cấu trúc trong khi G. Majumdar
chỉ xét yếu tố bất thường số lượng.
Điều này cũng tương tự với kết quả
nghiên cứu của Zhao và CS (2018) khi
đánh giá vai trò độc lập của từng yếu tố
ảnh hưởng đến tiên lượng tỷ lệ có thai
cho thấy vai trò quan trọng của hình thái
lá nuôi. Các phôi nang biểu hiện TE loại A,
tỷ lệ mang thai và sinh sống lâm sàng cao
hơn đáng kể so với phôi có TE loại C
(62,4% so với 35,7% và 49,7% so với
27,4%) [5].
Nụ phôi (ICM) của phôi cũng có mối
liên quan tới bất thường NST. Phôi có
ICM xếp loại xấu nhất (ICM C) làm tăng
rõ rệt nguy cơ bất thường NST (OR =
4,66; 95%CI = 2,77 - 7,84; p < 0,001).
Ngược lại, phôi có ICM tốt (ICM A)
làm giảm đáng kể nguy cơ bất thường
NST (OR = 0,25; 95%CI = 0,19 - 0,33;
p < 0,001). Kết quả của chúng tôi cũng
tương tự với nghiên cứu của Khánh Vy
(2016) đã chứng minh tỷ lệ lệch bội NST
tăng khi chất lượng của nụ phôi giảm
(p < 0,05) [1] và nghiên cứu của G.
Majumdar và CS ( 2017), khi khảo sát
trên 151 phôi nang đã xác định: tỷ lệ lệch
bội tăng khi chất lượng nụ phôi giảm từ
loại A xuống loại C (p < 0,001) [2].
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
78
Hiện nay, còn nhiều tranh cãi về vai trò
quan trọng của lá nuôi hay nụ phôi trong việc
xem xét đánh giá lựa chọn phôi để chuyển.
Năm 2013, De Paepe C. và CS, trong
nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Human Reproduction, đã phần nào giải
thích vai trò quan trọng của lá nuôi ở giai
đoạn phát triển sớm của phôi nang. De
Paepe C. nhận thấy khi nuôi cấy độc lập
phôi nang chỉ có lá nuôi (đã tách bỏ các
tế bào nụ phôi), các tế bào này sẽ tiếp tục
biệt hóa để hình thành khối tế bào nụ
phôi mới [6]. Vai trò của TE được khẳng
định trong nghiên cứu của Honnma H. và
CS (2012) trên 1.087 chu kỳ chuyển phôi
đông lạnh. Honnma H. khẳng định lại vai
trò quan trọng của lá nuôi chứ không phải
nụ phôi trong xem xét đánh giá lựa chọn
phôi để chuyển [7]. Nghiên cứu của
chúng tôi chỉ ra rằng tỷ lệ phôi bình
thường ở nhóm phôi TE tốt thì tương tự
với nhóm phôi ICM tốt (p > 0,05).
3. Mối liên quan giữa hình thái phôi nang với bất thường NST nói chung và
từng loại bất thường về số lượng, cấu trúc và bất thường khảm.
Bảng 3: Mối liên quan giữa hình thái phôi nang với các loại bất thường NST.
Bất thường NST
chung Số lượng Cấu trúc Khảm
OR OR OR OR
Loại bất
thường
Hình thái
Số phôi
(%) (95%CI)
Số phôi
(%) (95%CI)
Số
phôi
(%) (95%CI)
Số
phôi
(%) (95%CI)
0,22c 0,30c 0,32b 0,44c
Tốt
(625 phôi)
193
(30,9%) (0,16 -
0,29)
78
(12,5%) (0,22 -
0,42)
14
(2,2%) (0,16 -
0,63)
116
(18,6%) (0,32 -
0,60)
2,39c 1,66a 1,60b 1,89c
Trung bình
(188 phôi)
114
(60,6%) (1,72 -
3,31)
49
(26,1%) (1,14 -
2,42)
10
(5,3%) (0,76 -
3,37)
64
(34,0%) (1,34 -
2,68)
5,34c 3,60c 3,08b 1,84c
Xấu
(140 phôi)
107
(76,4%) (3,53 -
8,10)
56
(40,0%) (2,44 -
5,31)
12
(8,6%) (0,50 -
6,32)
48
(34,3%) (1,25 -
2,70)
(a: > 0,05; b: = 0,001; c: < 0,001)
Theo nghiên cứu của chúng tôi, phôi có phân loại hình thái xấu có nguy cơ bất
thường NST cao gấp 5,34 lần (95%CI = 3,53 - 8,10), trong khi ở phôi tốt, con số này
chỉ là 0,22 lần (95%CI = 0,16 - 0,29). Kết quả này cho thấy, việc lựa chọn phôi phân
loại tốt được ưu tiên cao trong việc giảm tỷ lệ bất thường NST nếu không sàng lọc.
Trong trường hợp có sàng lọc thì giảm số lượng phôi cần sàng lọc. Khi đi sâu vào từng
loại bất thường, hình thái phôi xấu làm tăng nguy cơ của tất cả các loại bất thường.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
79
Xét bất thường về số lượng NST, tỷ lệ
bất thường ở nhóm phôi tốt (12,5%), tăng
lên ở nhóm phôi trung bình (26,1%) và
cao nhất ở nhóm phôi xấu (40%). Xét bất
thường cấu trúc NST, nhìn chung tỷ lệ
loại bất thường cấu trúc NST thấp hơn so
với các loại còn lại. Cụ thể, tỷ lệ bất
thường ở nhóm phôi tốt (2,2%), tăng dần
ở nhóm phôi trung bình (5,3%) và cao nhất
ở nhóm phôi xấu (8,6%). Tỷ lệ bất thường
khảm ở nhóm hình thái phôi tốt (18,6%),
tăng dần ở nhóm phôi trung bình (34%)
và cao nhất ở nhóm phôi xấu (34,3%).
Nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra
rằng, hình thái phôi xấu làm gia tăng nguy
cơ bất thường số lượng, bất thường cấu
trúc và bất thường khảm lần lượt là: OR =
3,6 (95%CI = 2,44 - 5,31); OR = 3,08
(95%CI = 0,50 - 6,32) và OR = 1,84
(95%CI = 1,25 - 2,70).
Trong khi đó, với hình thái phôi tốt,
nguy cơ bất thường NST giảm trên tất cả
các dạng bất thường. Phôi có hình thái tốt
giảm nguy cơ bất thường số lượng, bất
thường cấu trúc và bất thường khảm
giảm so với nhóm phôi không tốt, lần lượt
là OR = 0,30 (95%CI = 0,22 - 0,42); OR =
0,32 (95%CI = 0,16 - 0,63) và OR = 0,44
(95%CI = 0,32 - 0,60).
P. Rubino và CS (2018), sử dụng
phương pháp NGS khi nghiên cứu tỷ lệ
chuyển phôi trên 55 phôi khảm (tỷ lệ
khảm ≤ 50%) có 33 phôi mang kiểu nhân
bình thường và tạo thành em bé khỏe
mạnh [8]. Do đó, những phôi khảm không
nhất thiết phải được loại trừ, tuy nhiên
những phôi hoàn toàn chuẩn bội vẫn
được ưu tiên chuyển hơn so với phôi
khảm. Những phụ nữ mang thai sau khi
chuyển phôi khảm phải được xét nghiệm
trước khi sinh với sự tư vấn thích hợp
của bác sỹ. Khi xem xét đến hình thái của
phôi nang với yếu tố bất thường NST,
chúng tôi thấy rằng tỷ lệ bất thường NST
tăng khi phôi nang có chất lượng hình
thái xấu. Cụ thể, tỷ lệ bất thường NST
thấp (30,9%) ở phôi có chất lượng tốt so
với 60,6% ở phôi có chất lượng trung
bình và 76,4% ở phôi có chất lượng kém.
Điều này cũng tương tự như trong nghiên
cứu của G. Majumdar và CS (2017) nhóm
tác giả xác định được tỷ lệ bất thường
tăng dần từ 40,5 đến 50% và 73,2% ở
nhóm phân loại phôi mang hình thái từ tốt
tới xấu [2].
4. Mối liên quan giữa hình thái phôi
nang với số lượng bất thường NST
Trong 1 phôi có bất thường NST có
thể tồn tại nhiều dạng bất thường, chúng
tôi phân loại 953 phôi trong nghiên cứu
làm 4 loại dựa trên số lượng bất thường
tính trên 1 phôi. Sau đó tiếp tục xét mối
liên quan giữa hình thái phôi và số lượng
bất thường NST tính trên 1 phôi.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
80
Bảng 4: Mối liên quan giữa hình thái phôi nang với số lượng bất thường NST.
Số lượng bất thường trên 1 phôi
Hình thái
0 1 2 3 4
Tổng p
Tốt 432 (69,1%)
121
(19,4%)
58
(9,3%)
12
(1,9%)
2
(0,32%) 625
Trung bình
74
(39,4%)
67
(35,6%)
40
(21,3%)
7
(3,7%)
0
(0,0%) 188
Xấu 33 (23,6%)
55
(39,3%)
46
(32,9%)
6
(4,3%)
0
(0,0%) 140
Tổng 539 (56,6%)
243
(25,5%)
144
(15,1%)
25
(2,6%)
2
(0,2%) 953
< 0,001
Trong nhóm phôi hình thái tốt, số phôi
bình thường chiếm đa số với 432 phôi
(69,1%); tỷ lệ phôi tốt có 1 bất thường
NST là 19,4% và tỷ lệ phôi bất thường ≥ 2
NST chiếm 11,52%.
Trong nhóm phôi hình thái trung bình
và xấu, tỷ lệ phôi bình thường chiếm lần
lượt là 39,4% và 23,6%, thấp hơn đáng
kể so với nhóm phôi hình thái tốt. Đồng
thời, tỷ lệ bất thường 1 NST của nhóm
phôi hình thái trung bình và xấu cũng cao
hơn nhóm phôi hình thái tốt, lần lượt là
35,6% và 39,3%. Tỷ lệ bất thường ≥ 2
NST trong nhóm phôi trung bình và xấu
cao gấp 2,17 và 3,23 lần so với nhóm
phôi tốt.
Xét trong tổng số 414 phôi đột biến thì
tỷ lệ mang đột biến 1 NST là 58,6%, còn
lại là đột biến phức tạp. Kết quả của
chúng tôi cũng tương tự nghiên cứu của
Franasiak và CS (2014) khi nghiên cứu
trên 15.169 phôi nang sinh thiết, ghi nhận
6.168 phôi lệch bội, trong đó 64% đột
biến liên quan đến 1 NST [3].
KẾT LUẬN
Tỷ lệ bất thường NST rất lớn ở phôi
nang, bất thường khảm (56,68%), bất
thường số lượng NST 36,6%, bất thường
cấu trúc 6,68%. Số phôi bình thường chiếm
đa số ở nhóm phôi phân loại hình thái tốt
(69,1%). Tỷ lệ mang 1, 2, 3 bất thường
tăng dần ở nhóm phôi trung bình và xấu.
- Nguy cơ bất thường NST giảm khi
ĐGR khoang phôi lớn (độ 5) (OR = 0,32;
95%CI = 0,25 - 0,42; p < 0,001) và tăng
lên đối với ĐGR thấp (độ 3) (OR = 3,83;
95%CI = 2,30 - 6,37; p < 0,001).
- Nguy cơ bất thường NST tăng lên khi
hình thái lá nuôi xấu (OR = 5,89; 95%CI
= 3,61 - 9,62; p < 0,001).
- Nguy cơ bất thường NST tăng khi
hình thái nụ phôi có chiều hướng xấu đi
(OR = 4,66 lần; 95%CI = 2,77 - 7,84;
p < 0,001).
- Với hình thái phôi ngày thứ 5 xếp
loại tốt, nguy cơ bất thường NST giảm
(OR = 0,22; 95%CI = 0,16 - 0,29; p < 0,001).
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thị Khánh Vy. Nghiên cứu một số
yếu tố liên quan tới lệch bội NST của phôi
người trước làm tổ. Luận văn Tiến sỹ Y học.
Đại học Y Hà Nội. Hà Nội. 2015, tr.121-122.
2. Majumdar G., Majumdar A., Verma I. C.,
Upadhyaya K. C. Relationship between
morphology, euploidy and implantation potential
of cleavage and blastocyst stage embryos.
Journal of Human Reproductive Sciences.
2017, 10(1), p.49.
3. Franasiak J. M., Forman E. J., Hong K. H.
et al. The nature of aneuploidy with increasing
age of the female partner: A review of 15,169
consecutive trophectoderm biopsies evaluated
with comprehensive chromosomal screening.
Fertility and Sterility. 2014, 101(3), pp.656-663.
4. Wang A., Kort J., Behr B., Westphal L.M.
Euploidy in relation to blastocyst sex and
morphology. Journal of Assisted Reproduction
and Genetics. 2018, 35(9), pp.1565-1572.
5. Zhao Y.Y., Yu Y., Zhang X. W. Overall
blastocyst quality, trophectoderm grade, and
inner cell mass grade predict pregnancy
outcome in euploid blastocyst transfer
cycles. Chinese Medical Journal. 2018,
131(11), p.1261.
6. De Paepe C., Cauffman G., Verloes A. et al.
Human trophectoderm cells are not yet committed.
Hum Reprod. 2013. 28(3), pp.740-749.
7. Honnma H., Baba T., Sasaki M. et al.
Trophectoderm morphology significantly affects
the rates of ongoing pregnancy and miscarriage
in frozen-thawed single-blastocyst transfer cycle
in vitro fertilization. Fertil Steril. 2012, 98(2),
pp.361- 367.
8. Rubino P., Li X., Alonso R.R.D.A.,
Mazmanian K. et al. Embryos classified as
low-grade mosaic (< 50%) after preimplantation
genetic screening (PGS) by means of high
resolution next-generation screening (hr-NGS),
can have the same competence of producing
healthy newborns as euploid embryos.
Fertility and Sterility. 2018, 109(3), e46-e47.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_moi_lien_quan_giua_hinh_thai_phoi_nang_voi_bat_th.pdf