Một số kết quả nghiên cứu trong nước như:
Duangta Thipphakhouanxay (2011)(2) ghi nhận:
tỷ lệ đối tượng tăng acid uric máu uống rượu bia
là 36,1%. Theo Bùi Đức Thắng (2006)(1): có 37,1%
đối tượng có thói quen thường dùng rượu bia.
Nhìn chung, số đối tượng uống rượu bia có
nồng độ acid uric máu tăng chiếm tỷ lệ khá cao
(60,7%). Còn theo Tuấn Anh Huy (2004)(Error!
Reference source not found.) cho thấy: nhóm
đối tượng tăng acid uric máu có tỷ lệ người uống
rượu (62,4%) cao hơn so với nhóm không tăng
acid uric máu (37,9%). Ngoài ra, kết quả nghiên
cứu của Vũ Đình Triển (2004)(Error! Reference source not
found.) thu được: ở nhóm tăng acid uric máu có
74,2% đối tượng có thói quen uống rượu vừa và
nhiều, cao hơn so với nhóm uống ít và không
uống (25,8%). Bên cạnh đó, tác giả Quyền Đăng
Tuyên (2001)(6) cho kết quả: trong nhóm tăng
acid uric máu có 26,8% uống rượu mức độ vừa
và nhiều. Nồng độ trung bình acid uric máu ở
nhóm uống rượu mức độ vừa và nhiều cao hơn
ở nhóm uống rượu mức độ ít và không uống.
Ngoài nước, nghiên cứu Yu KH (2008)(Error!
Reference source not found.) cho kết quả: phân
tích hồi quy logistic nhiều tầng chỉ ra rằng tiêu
thụ bia liên quan đáng kể với tăng acid uric máu
ở nam giới sau khi điều chỉnh về tuổi, tổng
lượng calo, chỉ số khối cơ thể và khu vực địa lý.
Uống bia hạn chế có thể giúp ngăn ngừa tăng
acid uric máu trong dân số.
So sánh với các tác giả khác, nghiên cứu của
chúng tôi có tỷ lệ đối tượng hút thuốc lá kèm
tăng acid uric máu thấp hơn. Tuy nhiên, có điểm
gần với các nghiên cứu khác: những đối tượng
có hút thuốc lá có xu hướng có acid uric máu cao
hơn những đối tượng hút thuốc lá ít hoặc không
hút thuốc lá. Theo Duangta Thipphakhouanxay
(2011)(2) ghi nhận: tỷ lệ đối tượng tăng acid uric
máu có hút thuốc lá là 29,4%. Còn Vũ Đình Triển
(2004)(Error! Reference source not found.) ghi nhận: ở nhóm
tăng acid uric máu có 56,1% đối tượng có thói
quen hút thuốc mức độ nhiều (nghiện thuốc),
cao hơn 1,4 lần so với nhóm hút ít và không hút.
Nghiên cứu của Tuấn Anh Huy (2004)(Error!
Reference source not found.) cho kết quả: nhóm đối tượng
tăng acid uric máu có tỷ lệ người hút thuốc lá
(48,7%) tương đương với nhóm không tăng acid
uric máu (53,6%)
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 172 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu mối liên quan giữa tăng Acid Uric máu với một số yếu tố nguy cơ tại thành phố Cần Thơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 220
NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA TĂNG ACID URIC MÁU
VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Trịnh Kiến Trung*, Nguyễn Thị Hằng**, Nguyễn Hồ Phương Liên***
TÓM TẮT
Giới thiệu: Nghiên cứu mối liên quan giữa tăng acid uric máu với một số yếu tố nguy cơ ở 1185 đối tượng
≥ 40 tuổi tại thành phố Cần Thơ. Xét nghiệm acid uric máu và thu thập thông tin về tuổi, giới, tình trạng kinh tế,
hút thuốc lá, uống rượu.
Kết quả: Tỷ lệ tăng acid uric máu ở nhóm > 60 tuổi; giới nam; có uống rượu, có hút thuốc cao hơn nhóm ≤
60 tuổi; giới nữ, không uống rượu, không hút thuốc có ý nghĩa, p
60 tuổi, giới nam, có uống rượu, có hút thuốc lần lượt cao gấp 1,52; 2,42; 2,33; 1,63 lần nhóm ≤ 60 tuổi, giới nữ,
không uống rượu, không hút thuốc.
Từ khóa: acid uric máu; yếu tố nguy cơ.
ABSTRACT
THE STUDY OF ASSOCIATION BETWEEN HYPERURICEMIA
AND SOME RISK FACTORS IN ADULTS IN CAN THO CITY
Trinh Kien Trung, Nguyen Thi Hang, Nguyen Ho Phuong Lien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 5‐ 2014: 220‐ 224
Introduction: The study of association between hyperuricemia and some risk factors in 1.185 subjects equal
or over 40 years old in Can Tho City. Serum uric acid and other variables including age, gender, economic status,
smoking, drinking of alcohol were measured in this study.
Results: The rate of hyperuricemia in the group of over 60 years old, men, drinking of alcohol, the smoking
were higher than the group of equal or lower 60 years old, women, not drinking of alcohol, not smoking
significantly, p < 0.05. Besides that, the frequency of hyperuricemia in the group of over 60 years of age, men,
drinking of alcohol, the smoking were higher than 1.52; 2.42; 2.33; 1.63 times the group of equal or lower 60 years
of age, women, not drinking of alcohol, not smoking, respectively.
Key words: serum acid uric; risk factor.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỷ lệ tăng acid uric (AU) máu trên thế giới
và ở Việt Nam ngày càng gia tăng. Trên thế giới,
tỷ lệ tăng AU máu đơn thuần khá cao, chiếm 2,6‐
47,2% dân số(Error! Reference source not found.). Ở Việt
Nam, theo Quyền Đăng Tuyên (2001), tỷ lệ tăng
AU máu là 22,4 %(6). Về mối liên quan giữa tăng
acid uric máu với một số yếu tố nguy cơ, đã có
một số tác giả nghiên cứu về vấn đề này tại một
số vùng trong cả nước như Duangta
Thipphakhouanxay (2011)(2), Bùi Đức Thắng
(2006)(1), Tuấn Anh Huy (2004)(Error! Reference source not
found.).
Tại thành phố Cần Thơ, chúng tôi chưa thấy
một công trình nghiên cứu nào công bố về mối
liên quan giữa tăng acid uric máu với một số yếu
tố nguy cơ trong cộng đồng đăng tải trên các tạp
chí chuyên ngành. Vì thế, chúng tôi tiến hành đề
tài này nhằm ʺ Nghiên cứu mối liên quan giữa
tăng acid uric máu với một số yếu tố nguy cơ ở
đối tượng ≥ 40 tuổi tại thành phố Cần Thơʺ.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn mẫu
1185 người dân thành phố Cần Thơ ≥ 40
* Đại học Y‐ Dược Cần Thơ. ** Trung tâm y tế dự phòng quận 6. *** Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: Ths Nguyễn Hồ Phương Liên ‐ ĐT: 0903144575 ‐ Email:phuonglien20051977@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 221
tuổi được chọn theo kiểu ngẫu nhiên phân
tầng, hệ thống có chủ đích; từ tháng 01‐2012
đến tháng 12‐ 2012.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những người đang dùng các loại thuốc
ảnh hưởng đến nồng độ acid uric như:
allopurinol, probenecid, sulfinpyrazol,
salicilat, phenylbutazol, acid ascorbic,
ethambutol, pyrazynamid... Bệnh nhân suy
thận mạn giai đoạn cuối đang chạy thận nhân
tạo. Các bệnh lý tăng sinh, ác tính (ung thư, xơ
gan) hoặc người được lựa chọn không đồng
ý tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Cách thu thập số liệu
Người dân được phỏng vấn với phiếu thu
thập số liệu nhằm thu thập thông tin về tuổi,
giới, tình trạng kinh tế, hút thuốc lá, uống rượu;
lấy máu và thực hiện xét nghiệm AU máu tại
khoa xét nghiệm sinh hóa‐ Bệnh viện Đa khoa
Trung ương Cần Thơ.
Tiêu chuẩn chẩn đoán tăng AU máu(3)
AU máu được gọi là tăng khi > 420 mol/l ở
nam và > 360 mol/l ở nữ.
Cách lấy máu
Các đối tượng được lấy máu vào buổi sáng
cách bữa ăn gần nhất là 12 giờ (tối hôm trước
tránh dùng rượu bia, tránh thức ăn có chứa
nhiều purin làm ảnh hưởng đến kết quả xét
nghiệm). Lấy 5ml máu tĩnh mạch cho vào tuýp
máu có chứa chất chống đông heparin. Sau đó
gởi tuýp máu về phòng xét nghiệm sinh hóa để
thực hiện. Tại phòng xét nghiệm hóa sinh, máu
sẽ được quay ly tâm để lấy huyết thanh. Sau đó,
sẽ tiến hành định lượng acid uric máu bằng
phương pháp enzym.
Định lượng acid uric máu (đơn vị tính là
mol/l).
Nguyên lý
Xác định nồng độ acid uric bằng phản ứng
enzym uricase, H2O2 được hình thành dưới sự ly
giải của catalase và 3,5 dichioro‐2‐hydroxy
benzen sulfonic acid (DCHBC) và 4‐
aminophenazon (PAP) cho ra phức chất
quinoneimin có màu đỏ tím
Uricase
Acid uric + O2 + 2H2O2 Allantoin + CO2 + H2O2
Peroxidase
2H2O2 + DCHBS + PAP Quinoneimin + HCL + 4H2
Trị số bình thường
Nam: 180 ‐ 420 mol/l
Nữ: 140‐ 360 mol/l
Trang bị máy: xét nghiệm acid uric máu
được xác định trên máy phân tích hóa sinh tự
động AU 640 của hãng Olympus Nhật Bản.
Thuốc thử: các thuốc thử để xác định acid
uric máu đồng bộ theo thuốc thử của hãng
Olympus Nhật Bản.
Các biến số
Yếu tố nguy cơ tăng acid uric máu: tuổi, giới,
tình trạng kinh tế, uống rượu, hút thuốc lá.
Kinh tế: không khá giả (hộ nghèo + hộ cận
nghèo theo quyết định ban hành chuẩn hộ
nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn
2011‐ 2015)(5), khá giả.
Xử lý số liệu
Chương trình thống kê vi tính SPSS 16.0.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 222
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Liên quan giữa tăng AU máu với yếu tố nguy cơ tuổi
Bảng 1‐ Liên quan tình trạng tăng AU máu với yếu tố nguy cơ tuổi
Tăng AU (n=149) Không tăng AU (n=1036)
p OR
n (%) n (%)
Tuổi > 60 (n=350) 56 16,0 294 84,0 < 0,05 1,52 (1,06- 2,17) ≤ 60 (n=835) 93 11,1 742 88,9
Tỷ lệ tăng AU máu ở nhóm > 60 tuổi cao hơn
nhóm ≤ 60 tuổi có ý nghĩa, p < 0,05. Tần suất
tăng AU máu ở nhóm > 60 tuổi cao gấp 1,52 lần
nhóm ≤ 60 tuổi.
So sánh với các nghiên cứu (NC) trong nước
thì kết quả thu được của chúng tôi phù hợp với
các NC trong nước: tuổi càng tăng thì tỷ lệ tăng
acid uric máu càng tăng. Theo Bùi Đức Thắng
(2006)(1) ghi nhận acid uric máu tăng dần theo
tuổi: nhóm từ 60‐ 69 tuổi chiếm 31,4%; từ 70‐ 79
tuổi 29,7%; ≥ 80 tuổi chiếm 40,4%. Bên cạnh đó,
nghiên cứu Tuấn Anh Huy (2004)(Error! Reference source
not found.) cho kết quả: tỷ lệ đối tượng tăng acid
uric máu cao nhất ở nhóm 71‐ 80 tuổi (42,7%) và
thấp nhất ở nhóm 42‐ 50 tuổi (9,1%). Tỷ lệ đối
tượng tăng acid uric máu tăng theo độ tuổi.
Ngoài ra, Quyền Đăng Tuyên (2001)(6) cho thấy:
tỷ lệ tăng acid uric máu ở nhóm 40‐ 49 tuổi là
22,2%, 50‐ 59 tuổi là 25,4% và ≥ 60 tuổi là 15,4%.
So sánh với nghiên cứu ngoài nước thì kết
quả của chúng tôi có sự khác biệt. Theo Lai SW
nghiên cứu tại Đài Loan năm 2001(4): tỷ lệ acid
uric máu giảm dần theo tuổi ở nam giới. Không
có mối liên hệ giữa tuổi và tỷ lệ tăng acid uric
máu ở nữ giới.
Liên quan giữa tăng AU máu với yếu tố nguy cơ giới
Bảng 2‐ Liên quan tình trạng tăng AU máu với yếu tố nguy cơ giới
Tăng AU (n=149) Không tăng AU (n=1036)
p OR
n (%) n (%)
Giới Nam (n=322) 66 20,5 256 79,5 < 0,001 2,42 (1,70- 3,45)
Nữ (n=863) 83 9,6 780 90,4
Tỷ lệ tăng AU máu ở nhóm giới nam cao
hơn nhóm giới nữ có ý nghĩa, p < 0,001. Tần suất
tăng AU máu ở nhóm giới nam cao gấp 2,42 lần
nhóm giới nữ.
So sánh với các nghiên cứu trong và ngoài
nước thì nghiên cứu của chúng tôi có sự tương
đồng: nam giới có xu hướng tăng acid uric máu
cao hơn nữ giới.
Một số nghiên cứu cho kết quả gần với
chúng tôi, ví dụ như theo nghiên cứu của
Duangta Thipphakhouanxay (2011)(2): có 30,8%
nam tăng acid uric máu và chỉ có 18,2% nữ tăng
acid uric máu. Bên cạnh đó, Bùi Đức Thắng
(2006)(1) cũng ghi nhận: tỷ lệ tăng acid uric máu ở
nam 88,2%, ở nữ 11,8%. Ngoài ra, nghiên cứu
của Vũ Đình Triển (2004)(Error! Reference source not found.)
cho kết quả: tỷ lệ đối tượng tăng acid uric máu ở
giới nam là 42,9%, ở giới nữ là 12,6%. Hơn nữa,
theo NC của Quyền Đăng Tuyên (2001)(6) cho
thấy: tỷ lệ tăng acid uric máu ở nam 25,6%, ở nữ
10,5%.
Ngoài nước, các NC cũng cho kết quả với
xu hướng nam có tỷ lệ tăng acid uric máu cao
hơn nữ: Yu KH (2008)(Error! Reference source
not found.) ghi nhận: tỷ lệ tăng acid uric máu
(dựa theo định nghĩa trong NC: > 462 μmol/l ở
nam và > 396 μmol/l ở nữ) ở nam giới là 25%
và 19% ở nữ giới. Bên cạnh đó, theo Lai SW
nghiên cứu tại Đài Loan (2001)(4): tỷ lệ tăng
acid uric máu là 57,3% ở nam và 40,9% ở nữ.
Nam giới tuổi 65‐ 69 tuổi có giá trị acid uric
máu cao nhất.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 223
Liên quan giữa tăng AU máu với yếu tố nguy cơ kinh tế
Bảng 3‐ Liên quan tình trạng tăng AU máu với yếu tố nguy cơ kinh tế
Tăng AU (n=149) Không tăng AU (n=1036)
p OR
n (%) n (%)
Kinh tế Khá giả (n=931) 123 13,2 808 86,8 >0,05 1,34 (0,85- 2,09)
Không (n=254) 26 10,2 228 89,8
Tỷ lệ tăng AU máu ở nhóm kinh tế khá giả
cao hơn nhóm kinh tế không khá giả. Tuy
nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
với p> 0,05.
Thật vậy, đối tượng khá giả sẽ có chế độ ăn
có chứa hàm lượng acid uric cao hơn hàm lượng
acid uric ở chế độ ăn người không khá giả.
Liên quan giữa tăng AU máu với yếu tố nguy cơ uống rượu
Bảng 4‐ Liên quan tình trạng tăng AU máu với yếu tố nguy cơ uống rượu
Tăng AU (n=149) Không tăng AU (n=1036)
p OR
n (%) n (%)
Uống rượu Có (n=349) 69 19,8 280 80,2 < 0,001 2,33 (1,64- 3,31)
Không (n=836) 80 9,6 756 90,4
Tỷ lệ tăng AU máu ở nhóm có uống rượu
cao hơn nhóm không uống rượu có ý nghĩa, p <
0,001. Tần suất tăng AU máu ở nhóm có uống
rượu cao gấp 2,33 lần nhóm không uống rượu.
Các nghiên cứu trong và ngoài nước cho kết
quả khác nhau tùy theo NC. Nhưng nhìn chung,
những đối tượng có uống rượu bia, trong đó
uống rượu bia nhiều có xu hướng có acid uric
máu cao hơn với những đối tượng không uống
rượu bia hay uống rượu bia ít.
Một số kết quả nghiên cứu trong nước như:
Duangta Thipphakhouanxay (2011)(2) ghi nhận:
tỷ lệ đối tượng tăng acid uric máu uống rượu bia
là 36,1%. Theo Bùi Đức Thắng (2006)(1): có 37,1%
đối tượng có thói quen thường dùng rượu bia.
Nhìn chung, số đối tượng uống rượu bia có
nồng độ acid uric máu tăng chiếm tỷ lệ khá cao
(60,7%). Còn theo Tuấn Anh Huy (2004)(Error!
Reference source not found.) cho thấy: nhóm
đối tượng tăng acid uric máu có tỷ lệ người uống
rượu (62,4%) cao hơn so với nhóm không tăng
acid uric máu (37,9%). Ngoài ra, kết quả nghiên
cứu của Vũ Đình Triển (2004)(Error! Reference source not
found.) thu được: ở nhóm tăng acid uric máu có
74,2% đối tượng có thói quen uống rượu vừa và
nhiều, cao hơn so với nhóm uống ít và không
uống (25,8%). Bên cạnh đó, tác giả Quyền Đăng
Tuyên (2001)(6) cho kết quả: trong nhóm tăng
acid uric máu có 26,8% uống rượu mức độ vừa
và nhiều. Nồng độ trung bình acid uric máu ở
nhóm uống rượu mức độ vừa và nhiều cao hơn
ở nhóm uống rượu mức độ ít và không uống.
Ngoài nước, nghiên cứu Yu KH (2008)(Error!
Reference source not found.) cho kết quả: phân
tích hồi quy logistic nhiều tầng chỉ ra rằng tiêu
thụ bia liên quan đáng kể với tăng acid uric máu
ở nam giới sau khi điều chỉnh về tuổi, tổng
lượng calo, chỉ số khối cơ thể và khu vực địa lý.
Uống bia hạn chế có thể giúp ngăn ngừa tăng
acid uric máu trong dân số.
Liên quan giữa tăng AU máu với yếu tố nguy cơ hút thuốc
Bảng 5‐ Liên quan tình trạng tăng AU máu với yếu tố nguy cơ hút thuốc
Tăng AU (n=149) Không tăng AU (n=1036)
p OR
n (%) n (%)
Hút thuốc Có (n=199) 35 17,6 164 82,4 < 0,05 1,63 (1,08- 2,47) Không (n=986) 114 11,6 872 88,4
Tỷ lệ tăng AU máu ở nhóm có hút thuốc cao
hơn nhóm không hút thuốc có ý nghĩa, p < 0,05.
Tần suất tăng AU máu ở nhóm có hút thuốc cao
gấp 1,63 lần nhóm không hút thuốc.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 5 * 2014
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 224
So sánh với các tác giả khác, nghiên cứu của
chúng tôi có tỷ lệ đối tượng hút thuốc lá kèm
tăng acid uric máu thấp hơn. Tuy nhiên, có điểm
gần với các nghiên cứu khác: những đối tượng
có hút thuốc lá có xu hướng có acid uric máu cao
hơn những đối tượng hút thuốc lá ít hoặc không
hút thuốc lá. Theo Duangta Thipphakhouanxay
(2011)(2) ghi nhận: tỷ lệ đối tượng tăng acid uric
máu có hút thuốc lá là 29,4%. Còn Vũ Đình Triển
(2004)(Error! Reference source not found.) ghi nhận: ở nhóm
tăng acid uric máu có 56,1% đối tượng có thói
quen hút thuốc mức độ nhiều (nghiện thuốc),
cao hơn 1,4 lần so với nhóm hút ít và không hút.
Nghiên cứu của Tuấn Anh Huy (2004)(Error!
Reference source not found.) cho kết quả: nhóm đối tượng
tăng acid uric máu có tỷ lệ người hút thuốc lá
(48,7%) tương đương với nhóm không tăng acid
uric máu (53,6%).
KẾT LUẬN
Nghiên cứu mối liên quan giữa tăng AU
máu với một số yếu tố nguy cơ ở 1185 người dân
≥ 40 tuổi tại thành phố Cần thơ, chúng tôi rút ra
một số nhận xét sau:
Tỷ lệ tăng acid uric máu
‐ Nhóm > 60 tuổi cao hơn nhóm ≤ 60 tuổi có
ý nghĩa, p < 0,05.
‐ Nhóm giới nam cao hơn nhóm giới nữ có ý
nghĩa, p < 0,001.
‐ Nhóm kinh tế khá giả cao hơn nhóm kinh
tế không khá giả với sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê, p > 0,05.
‐ Nhóm có uống rượu cao hơn nhóm không
uống rượu có ý nghĩa, p < 0,001.
‐ Nhóm có hút thuốc cao hơn nhóm không
hút thuốc có ý nghĩa, p < 0,05.
Tần suất tăng acid uric máu
‐ Nhóm > 60 tuổi cao gấp 1,52 lần nhóm ≤ 60
tuổi.
‐ Nhóm giới nam cao gấp 2,42 lần nhóm giới
nữ.
‐ Nhóm có uống rượu cao gấp 2,33 lần nhóm
không uống rượu.
‐ Nhóm có hút thuốc cao gấp 1,63 lần nhóm
không hút thuốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Đức Thắng (2006). Nghiên cứu nồng độ acid uric máu ở
người cao tuổi. Luận văn tốt nghiệp chuyên khoa cấp II‐ Học
Viện Quân Y, tr 1 ‐72.
2. Duangta Thipphakhouanxay (2011). Nghiên cứu tỷ lệ, đặc điểm
hội chứng chuyển hóa và nồng độ acid uric máu ở cán bộ
thuộc đơn vị X. Luận văn thạc sĩ y học‐ Học Viện Quân Y, tr.
1‐ 72.
3. Đoàn Văn Đệ (2008). Bệnh Gút. Bệnh học nội khoa‐ NXb quân
đội nhân dân, Tập II, tr. 43‐53.
4. Lai SW, Tan CK & Ng KC (2001). Epidemiology of
Hyperuricemia in the Elderly. Yale Journal of Biology and
Medicine, 74, pp. 151‐157.
5. Nguyễn Tấn Dũng (2011). Quyết định về việc ban hành chuẩn
hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011‐ 2015, tr.
1‐2.
6. Quyền Đăng Tuyên (2001). Nghiên cứu nồng độ acid uric và
một số yếu tố liên quan đến hội chứng tăng acid uric máu
trong cán bộ quân đội. Luận văn thạc sĩ y học‐ Học Viện
Quân Y, tr. 1 ‐ 94.
7. Tuấn Anh Huy (2004). Mối tương quan giữa tăng acid uric
máu với rối loạn lipid máu, tăng huyết áp và vữa xơ động
mạch. Luận văn BSCK2‐ Học Viện Quân Y, tr. 1‐ 75.
8. Vũ Đình Triển (2004). Nghiên cứu nồng độ acid uric máu ở
bệnh nhân tăng huyết áp và thiếu máu cơ tim cục bộ. Luận
văn thạc sĩ y học‐ Học Viện Quân Y, tr. 1‐ 85.
9. Wortmann R.L (2008). Gout and Hyperuricemia. Textbook of
Rheumatology, 8th ed, II, Chapter 87.
10. Yu KH, See LC, Huang YC et al (2008). Dietary Factors
Associated with Hyperuricemia in Adults. Arthritis Rheum,
37, pp. 243‐250.
Ngày nhận bài báo: 25/9/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/9/2014
Ngày bài báo được đăng: 20/10/14
`
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_moi_lien_quan_giua_tang_acid_uric_mau_voi_mot_so.pdf