Nghiên cứu mối quan hệ giữa trạng thái gen MYCN với tuổi và kết quả mô bệnh học trên 41 bệnh nhân u nguyên bào thần kinh
          
        
            
            
              
            
 
            
                
                    KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 3.1. Khuếch đại gen MYCN 41 bệnh nhân UNBTK được đánh giá sự khuếch đại gen MYCN tại khoa Di truyền và Sinh học phân tử. Kết quả có 9/41 bệnh nhân UNBTK được phát hiện có khuếch đại gen MYCN, chiếm tỷ lệ 22%. Tỷ lệ này cũng tương ứng với các tỷ lệ về MYCNA đã công bố trên thế giới [1]. 3.2. Quan hệ giữa khuếch đại gen MYCN và tuổi chẩn đoán của bệnh nhân Độ tuổi chẩn đoán là yếu tố tiên lượng đầu tiên ở các bệnh nhân UNBTK. Chúng tôi sắp xếp tuổi của bệnh nhân vào 3 nhóm: ít hơn 12 tháng, từ 12-18 tháng và hơn 18 tháng tương ứng với tiên lượng bệnh khác nhau [3]. Các bệnh nhân trên 18 tháng tuổi thường có tiên lượng bệnh xấu hơn. Ở nhóm này, tỷ lệ MYCNA là 67% số bệnh nhân, cao hơn hẳn so với các nhóm tuổi còn lại. Kết quả này của chúng tôi tương đối khác biệt với nghiên cứu của Mary Lou Schmidt năm 2005 với nhóm tuổi có tỷ lệ MYCNA cao nhất là 12-24 tháng [5]; song lại tương đồng với nghiên cứu năm 2013 của Mohammad Pedram với nhóm tuổi có tỷ lệ MYCNA cao nhất là hơn 2,5 tuổi [6].
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 33 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu mối quan hệ giữa trạng thái gen MYCN với tuổi và kết quả mô bệnh học trên 41 bệnh nhân u nguyên bào thần kinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ NHI KHOA 2016, 9, 3
46
1. MỞ ĐẦU
U nguyên bào thần kinh (neuroblastoma), 
u bào thai của hệ thần kinh giao cảm là nguyên 
nhân gây ra khoảng 15% số trẻ tử vong vì ung thư 
[1]. Một đặc điểm đáng chú ý của u nguyên bào 
thần kinh (UNBTK) là có biểu hiện lâm sàng rất đa 
dạng, từ dạng tự thoái triển đến khối u tiến triển 
nhanh và nguy kịch. Việc tiên lượng bệnh trước 
đây dựa vào một số đặc điểm đặc trưng như tuổi 
chẩn đoán, giai đoạn, các chỉ số VMA/HVA niệu, 
LDH, hay kết quả mô bệnh học [2]. 
Tuổi chẩn đoán là một yếu tố tiên lượng đầu 
tiên và quan trọng, bởi vì đã có nhiều công bố 
cho thấy rằng, trẻ nhỏ (ít hơn 12 tháng) thường 
có tiên lượng tốt hơn so với trẻ lớn [3]. Giai đoạn 
bệnh, theo Hệ thống phân loại UNBTK quốc tế 
(INSS), cũng là một yếu tố tiên lượng có giá trị. 
Bên cạnh đó, kết quả mô bệnh học được sử dụng 
NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA TRẠNG THÁI GEN MYCN 
VỚI TUỔI VÀ KẾT QUẢ MÔ BỆNH HỌC TRÊN 41 BỆNH NHÂN 
U NGUYÊN BÀO THẦN KINH
 Vũ Đình Quang1, Nguyễn Thị Hồng Vân2, Phùng Tuyết Lan3, Trần Ngọc Sơn4, 
Lê Đình Công5, Hoàng Ngọc Thạch6, Nguyễn Xuân Huy1, Ngô Diễm Ngọc1
1Khoa Di truyền và Sinh học phân tử, 3Ung bướu, 4Ngoại, 
5Chẩn đoán hình ảnh, 6Giải phẫu bệnh - Bệnh viện Nhi Trung ương;
 2Bộ môn Di truyền học, Khoa Sinh học Trường ĐHKHTN - ĐHQG Hà Nội
TÓM TẮT
U nguyên bào thần kinh (UNBTK) là dạng khối u ác tính ngoài sọ phổ biến nhất ở trẻ em, và 
được đặc trưng bởi sự không đồng nhất về mặt sinh học, dẫn đến các kết quả điều trị rất khác 
nhau. Có nhiều yếu tố tiên lượng được sử dụng đối với bệnh UNBTK như tuổi, giai đoạn, giải 
phẫu bệnh, các dấu ấn sinh hóa và đặc điểm di truyền. Khuếch đại gen MYCN (MYCNA) được 
xem là một yếu tố tiên lượng đặc hiệu nhất. Mục tiêu: Xác định mối quan hệ giữa giữa trạng 
thái gen MYCN với tuổi và kết quả mô bệnh học (MBH) trong số 41 bệnh nhân UNBTK trong 
năm 2014. Phương pháp: Sử dụng kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ, trạng thái gen MYCN được 
xác định và so sánh với các yếu tố lâm sàng khác. Kết quả: Kết quả cho thấy, MYCNA được tìm 
thấy trong 9/41 bệnh nhân UNBTK. Tỷ lệ MYCNA theo các nhóm tuổi là 01 bệnh nhân dưới 12 
tháng (11%), 02 bệnh nhân từ 12-18 tháng (22%) và 06 bệnh nhân trên 18 tháng (67%). Kết quả 
MYCNA là 02 bệnh nhân ở nhóm mô bệnh học thuận lợi (25%) và 06 bệnh nhân ở nhóm không 
thuận lợi (75%). Bàn luận: Như vậy, MYCNA có quan hệ mật thiết với tuổi chẩn đoán trên 18 
tháng và mô bệnh học không thuận lợi. Mặc dù, tuổi và MBH có thể là dấu ấn có giá trị trong 
chẩn đoán, trạng thái gen MYCN xác định bởi kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ là một trong 
những công cụ quan trọng nhất cho việc lựa chọn phác đồ điều trị tối ưu.
Từ khóa: U nguyên bào thần kinh, MYCN, độ tuổi chẩn đoán, mô bệnh học.
47
PHẦN NGHIÊN CỨU
để khẳng định chẩn đoán UNBTK cũng như để 
phân biệt các nhóm mô bệnh học thuận lợi hay 
không thuận lợi (dựa vào sự biệt hóa, chỉ số nhân 
chia/nhân tan) theo phân loại mô bệnh học 
UNBTK quốc tế (INPC) [4].
Có nhiều biến đổi di truyền của UNBTK, trong 
đó có khuếch đại gen MYCN, đã được ghi nhận 
và sử dụng trong chẩn đoán, tiên lượng bệnh [1]
[1]. Khuếch đại gen MYCN (MYCNA) là được coi là 
biến đổi có giá trị hàng đầu trong tiên lượng và 
phân loại bệnh nhân. MYCNA thường gặp ở giai 
đoạn muộn (giai đoạn III, IV) của UNBTK tiên phát 
trên các bệnh nhân chưa được điều trị, hoặc đôi 
khi được phát hiện ở các u NBTK có độ ác tính 
cao, với tỷ lệ gặp khoảng 20-25%. Đối với UNBTK 
có MYCNA, dù ở lứa tuổi hay giai đoạn bệnh nào, 
đều có tiên lượng xấu, tỷ lệ sống trên 5 năm của 
bệnh nhân chỉ khoảng 30% [1]. 
Tại Bệnh viện Nhi Trung ương (BVNTƯ), hàng 
năm có khoảng 40-50 trường hợp được chẩn 
đoán mắc mới UNBTK ở các giai đoạn và độ tuổi 
khác nhau. Việc đánh giá khuếch đại gen MYCN 
bằng kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ đã được 
thực hiện tại khoa Di truyền và Sinh học phân tử 
trong những năm gần đây. Tuy nhiên cho đến nay, 
vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh giá mối liên hệ 
giữa MYCNA với các yếu tố tiên lượng khác. Vì 
vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục 
tiêu xác định được mối quan hệ giữa trạng thái 
gen MYCN với một số yếu tố tiên lượng khác trên 
41 bệnh nhân u nguyên bào thần kinh.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
41 bệnh nhân đến khám và chẩn đoán mắc 
mới UNBTK tại BVNTƯ trong năm 2014. Các bệnh 
nhân này được sinh thiết lấy mẫu bệnh phẩm u 
bằng phẫu thuật mở hoặc sinh thiết kim dưới 
siêu âm để phân tích mô bệnh học và đánh giá 
MYCNA.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Mẫu bệnh phẩm 
Mảnh u đặc được thu thập và nghiên cứu ngay 
sau sinh thiết hoặc mẫu được cố định trong khối 
nến để bảo quản.
2.2.2. Kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ (FISH)
Tiêu bản u được lai với đầu dò hai màu LSI 
N-MYC (2p24) Spectrum Green/ CEP 2 Spectrum 
Orange (Vysis) để đánh dấu vào hai vị trí trên 
nhiễm sắc thể số 2: màu xanh đánh dấu vào vị 
trí gen MYCN (2p24) và tín hiệu đối chứng màu 
đỏ đánh dấu vào tâm động nhiễm sắc thể số 2. 
Kết quả phản ứng lai được phân tích bằng phần 
mềm ISIS (Metasystem) dưới hệ thống kính hiển 
vi huỳnh quang M1 (Zeiss). MYCNA sẽ được phát 
hiện khi có nhiều hơn 10 tín hiệu xanh (nằm rải 
rác hay tập trung thành cụm lớn).
2.2.3. Các xét nghiệm cận lâm sàng khác
Phân tích mô bệnh học được thực hiện tại 
khoa Giải phẫu bệnh, BVNTƯ.
3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Khuếch đại gen MYCN
41 bệnh nhân UNBTK được đánh giá sự 
khuếch đại gen MYCN tại khoa Di truyền và Sinh 
học phân tử. Kết quả có 9/41 bệnh nhân UNBTK 
được phát hiện có khuếch đại gen MYCN, chiếm 
tỷ lệ 22%. Tỷ lệ này cũng tương ứng với các tỷ lệ 
về MYCNA đã công bố trên thế giới [1].
TẠP CHÍ NHI KHOA 2016, 9, 3
48
A. B. 
Hình 1. A. khuếch đại gen MYCN; B. không khuếch đại gen MYCN (MYCNN)
3.2. Quan hệ giữa khuếch đại gen MYCN và tuổi chẩn đoán của bệnh nhân
Độ tuổi chẩn đoán là yếu tố tiên lượng đầu tiên ở các bệnh nhân UNBTK. Chúng tôi sắp xếp tuổi 
của bệnh nhân vào 3 nhóm: ít hơn 12 tháng, từ 12-18 tháng và hơn 18 tháng tương ứng với tiên lượng 
bệnh khác nhau [3]. 
Hình 2. Quan hệ giữa khuếch đại gen MYCN với độ tuổi chẩn đoán của bệnh nhân
MYCNA
CEP2
MYCN
→
→
→ →
Các bệnh nhân trên 18 tháng tuổi thường 
có tiên lượng bệnh xấu hơn. Ở nhóm này, tỷ lệ 
MYCNA là 67% số bệnh nhân, cao hơn hẳn so với 
các nhóm tuổi còn lại. Kết quả này của chúng tôi 
tương đối khác biệt với nghiên cứu của Mary Lou 
Schmidt năm 2005 với nhóm tuổi có tỷ lệ MYCNA 
cao nhất là 12-24 tháng [5]; song lại tương 
đồng với nghiên cứu năm 2013 của Mohammad 
Pedram với nhóm tuổi có tỷ lệ MYCNA cao nhất là 
hơn 2,5 tuổi [6].
3.3. Quan hệ giữa khuếch đại gen MYCN và kết 
quả mô bệnh học
Kết quả giải phẫu bệnh vừa dùng để khẳng 
định chẩn đoán cho các bệnh nhân UNBTK, vừa 
đưa ra thông tin cho việc tiên lượng và phân loại 
bệnh nhân. Có 36/41 bệnh nhân UNBTK được 
đánh giá mô bệnh học (MBH) là thuận lợi hay 
không thuận lợi. 
49
PHẦN NGHIÊN CỨU
Hình 3. Quan hệ giữa trạng thái gen MYCN với kết quả mô bệnh học
Nhóm tiên lượng xấu đối với yếu tố này là 
nhóm MBH không thuận lợi. Kết quả về di truyền 
về gen MYCN cũng ủng hộ kết luận này. Tỷ lệ 
MYCNA ở nhóm MBH không thuận lợi cao gấp 3 
lần nhóm MBH thuận lợi. Sự phân bố này là phù 
hợp với nghiên cứu năm 2001 của R.E. George và 
cộng sự [7]
Như vậy, chúng tôi thấy rằng MYCNA có mối 
quan hệ rất chặt chẽ với một số yếu tố tiên lượng 
xấu khác như tuổi chẩn đoán hơn 18 tháng hay 
mô bệnh học không thuận lợi.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng vẫn còn một 
tỷ lệ nhỏ bệnh nhân có tiên lượng tốt dựa vào 
tuổi chẩn đoán, kết quả mô bệnh học nhưng lại 
có MYCNA. Có khoảng 11% số bệnh nhân ít hơn 
12 tháng và 25% bệnh nhân có mô bệnh học 
thuận lợi. Do vậy, nếu các nhà lâm sàng chỉ dựa 
vào các yếu tố trên mà không có kết quả đánh giá 
gen MYCN thì việc phân loại bệnh nhân đôi khi 
không chính xác, dẫn đến kết quả điều trị thấp, 
hay thậm chí thất bại.
4. KẾT LUẬN
Có nhiều yếu tố tiên lượng và phân loại bệnh 
nhân được sử dụng trong UNBTK như tuổi chẩn 
đoán, giai đoạn, kết quả mô bệnh học, một số 
dấu ấn sinh hóa hay trạng thái gen MYCN. Mặc 
dù các yếu tố này có vai trò khác nhau trong việc 
chẩn đoán nhưng trạng thái gen MYCN xác định 
bởi kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ là một trong 
những công cụ quan trọng nhất cho việc lựa chọn 
phác đồ điều trị tối ưu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thorner, P.S., The molecular genetic profile 
of neuroblastoma. Diagnostic Histopathology, 
2014. 20(2): p. 76-83.
2. Ambros, P.F., et al., International consensus 
for neuroblastoma molecular diagnostics: report 
from the International Neuroblastoma Risk 
Group (INRG) Biology Committee. British journal 
of cancer, 2009. 100(9): p. 1471-82.
3. Evans, A.E. and G.J. D’Angio, Age at diagnosis 
and prognosis in children with neuroblastoma. 
Journal of Clinical Oncology, 2005. 23(27): p. 
6443-4.
4. Sano, H., et al., International neuroblastoma 
pathology classification adds independent 
prognostic information beyond the prognostic 
contribution of age. European journal of cancer, 
2006. 42(8): p. 1113-9.
5. Schmidt, M.L., et al., Favorable prognosis 
for patients 12 to 18 months of age with stage 4 
nonamplified MYCN neuroblastoma: a Children’s 
Cancer Group Study. Journal of clinical oncology, 
2005. 23(27): p. 6474-80.
TẠP CHÍ NHI KHOA 2016, 9, 3
50
6. Pedram, M., et al., Impact of N-myc 
Amplification on Median Survival in Children 
With Neuroblastoma. Journal of Comprehensive 
Pediatrics, 2012. 3(1): p. 29-33.
7. George, R.E., et al., Relationship Between 
Histopathological features, MYCN Amplification, 
and Prognosis: A UKCCSG Study. Medical and 
Pediatric Oncology, 2001. 36: p. 169–176.
ABSTRACT
STUDY ON THE RELATIONSHIP BETWEEN MYCN STATUS AND PATIENT’S AGE, 
HISTOPATHOLOGY IN 41 PATIENTS WITH NEUROBLASTOMA
Vũ Đình Quang1, Nguyễn Thị Hồng Vân2, Phùng Tuyết Lan3,
Trần Ngọc Sơn4, Lê Đình Công5, Hoàng Ngọc Thạch6, Nguyễn Xuân Huy1, Ngô Diễm Ngọc1 
Departments of 1Human Genetics, 3Oncology, 4Surgery, 
5Radiology, and 6Pathology, National Hospital of Pediatrics, Hanoi, Vietnam 
2Department of Genetics, Faculty of Biology, VNU University of Science, Hanoi, Vietnam
Brief background: Neuroblastoma (NBL) is the most common extracranial solid cancer of childhood 
and is characterized by a remarkable biological heterogeneity, resulting in favorable or unfavorable 
outcomes. There are many prognostic factors like age, stage, histopathology, plasma and urinary 
markers and the molecular characteristics of tumor cells. Amplification of the MYCN gene (MYCNA) 
is established as the most powerful prognostic factor, Objectives: to investigate, in a series of 41 
NBL patients ascertained in 2014, the relationship between amplification of MYCN and some other 
prognostic factors: patient’s age and histopathology. Methods: MYCNA was identified by FISH. The 
MYCN status was compared with the other clinic-biological factors. Results: MYCNA is found on 9/41 
NBL patient. The proportion of MYCNA according to the age group is 11% (<12 months), 22% (12-
18 months) and 67% (>18 months). The favorable and unfavorable histology cases show a different 
frequency of MYCNA, 25% and 75%, respectively. Conclusions: The MYCNA is strongly associated with 
age at diagnosis >18 months, unfavourable histology. The patient’s age and histopathology could 
be valuable markers for diagnosis, however, the MYCN status determined by FISH is one of the most 
important tools for treatment stratification.
Keywords: Neuroblastoma, MYCN, age of diagnosis, histopathology.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bai7_29_9059_2281353.pdf bai7_29_9059_2281353.pdf