Kết quả sơ sinh:
Cân nặng thai nhi từ 2000 - 2500gr chiếm tỉ lệ cao
ở cả 2 thai (39,4%) và nhóm có cân nặng < 2000gr là
26,1%. Như vậy nhóm trẻ sinh ra có cân nặng thấp trong
song thai chiếm tỉ lệ rất cao (65,5%), kết quả này hoàn
toàn phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hiền
(60,2%). Cân nặng thai nhi thấp chủ yếu liên quan đến
sinh non và thai chậm tăng trưởng, hai biến chứng phổ
biến nhất trong nghiên cứu chúng tôi. Không có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa cân nặng hai thai (p > 0,05),
chứng tỏ việc chênh lệch cân nặng giữa hai thai là ngẫu
nhiên và không có liên quan đến vị trí của thai nhi trong
tử cung.
Tỷ lệ trẻ phải nhập NICU là 21,7% và tử vong sau
sinh chiếm 4,4%, còn lại là các trường hợp thai nhi đã
chết trong tử cung chiếm 6,6%. Không có mối tương
quan có ý nghĩa của kết quả sơ sinh với thứ tự thai (p >
0,05). Mặc dù có một số nghiên cứu cho rằng, nguy cơ
bệnh suất và tử suất của thai thứ hai thường cao hơn
thai thứ nhất, đặc biệt là trong sinh đường âm đạo như
suy thai, ngôi bất thường, nhau bong non và thậm chí
phải chuyển mổ. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có
ý nghĩa chứng tỏ việc tiên lượng trong song thai và lựa
chọn phương pháp xử trí ngay từ ban đầu ngày càng
tốt hơn. Không có ca song thai phải can thiệp bằng thủ
thuật hay sinh thường thai thứ nhất nhưng phải chuyển
mổ thai thứ hai.
Qua mô hình hồi quy hồi quy đa biến dự đoán kết quả
bất lợi cho thai nhi cho thấy, thai nhi sinh non có nguy cơ
gặp kết quả bất lợi (nhập NICU hay tử vong sau sinh) cao
gấp 18,6 lần (OR 18,6; 95% CI: 7,8 - 44,5) so với thai nhi
đủ tháng. Bên cạnh đó thai nhi ở nhóm một bánh nhau
có nguy cơ gặp kết quả bất lợi cao hơn gấp 3,0 lần so với
những trẻ nhóm song thai có hai bánh nhau riêng biệt
(OR 3,0; 95% CI: 1,4 - 6,6). Cũng qua mô hình này chúng
tôi thấy rằng, IUGR tăng nguy cơ kết quả bất lợi cho thai
nhi lên 2,6 lần so với nhóm không có biến chứng này (OR
2,6; 95% CI: 1,1 - 6,1).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu một số biến chứng và kết quả thai kỳ ở các sản phụ song thai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
34
Nghiên cứu một số biến chứng và kết quả thai kỳ ở các sản phụ song thai
Mai Ngọc Ba1, Trương Thị Linh Giang2
1 Khoa Y Dược, Trường Đại học Tây Nguyên
2 Bộ môn Phụ Sản, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
doi:10.46755/vjog.2020.3.1136
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Mai Ngọc Ba, email: mnba@ttn.edu.vn
Nhận bài (received): 29/08/2020 - Chấp nhận đăng (accepted): 28/10/2020
NGHIÊN CỨU SẢN KHOA
Mai Ngọc Ba và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(3):34-40. doi: 10.46755/vjog.2020.3.1136
Tóm tắt
Mục tiêu: Khảo sát một số biến chứng và đánh giá kết quả thai kỳ ở các sản phụ song thai.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 118 sản phụ song thai theo dõi kết thúc thai
kỳ tại khoa Phụ sản - Bệnh viện Trung ương Huế và khoa Phụ sản - Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế trong thời gian
từ tháng 5 năm 2019 đến tháng 4 năm 2020.
Kết quả: Song thai hai bánh nhau - hai buồng ối chiếm 52%, một bánh nhau - hai buồng ối chiếm 46% và một bánh nhau -
một buồng ối chiếm 2%. Biến chứng mẹ chủ yếu là thiếu máu chiếm 33,1% và rối loạn tăng huyết áp thai kỳ chiếm 16,9%.
Biến chứng thai gồm: 69,2% thai chậm tăng trưởng, 42,4% sinh non, 9,3% chết một thai, 8,5% thai chậm tăng trưởng có
chọn lọc, 5.9% hội chứng truyền máu trong song thai, 4,2% sẩy thai. Tỉ lệ mổ lấy thai chiếm 67% và phổ biến là nhóm
nguyên nhân do thai với chiếm 40,8%, trong đó nguyên nhân do ngôi thai chiếm 19,7% và thai suy chiếm 13,2%. Trẻ sơ
sinh có cân nặng thấp chiếm 65,5%. Tỉ lệ nhập đơn vị Chăm sóc tích cực Sơ sinh chiếm 21,7%, tử vong sau sinh chiếm
4,4% và liên quan với song thai một bánh nhau, thai chậm phát triển trong tử cung, sinh non (p < 0,05).
Kết luận: Song thai là một thai kỳ có nhiều biến chứng. Tình trạng một bánh nhau, thai chậm tăng trưởng trong tử cung
và sinh non là những yếu tố quan trọng liên quan đến kết quả bất lợi của thai nhi.
Từ khóa: Song thai, Hội chứng truyền máu trong song thai, Thai chết trong tử cung.
Complications and pregnancy outcomes in twin pregnancies
Mai Ngoc Ba1, Truong Thi Linh Giang2
1 Faculty of Medicine and Pharmacy, Tay Nguyen University
2 Department of Obstetrics and Gynecology, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Abstract
Objective: To determine the complications of twin pregnancy and pregnancy outcomes.
Materials and Methods: A cross-sectional study on 118 twins who were monitored and ended their pregnancy at the
Department of Obstetrics and Gynecology - Hue Central Hospital and Department of Obstetrics and Gynecology - Hue
University of Medicine and Pharmacy Hospital in the period from May 2019 to April 2020.
Results: Dichorionic – Diamniotic was 52%, Monochorionic – Diamniotic was 46% and Monochorionic – Monoamniotic
was 2%. The common maternal complications were anemia (33.1%) and hypertensive disorders of pregnancy (16.9%).
The fetal complications: 69.2% of fetal had intrauterine growth restriction, preterm birth was 42.4%, death of one fetus
was 9.3%, selective intrauterine growth restriction was 8.5%, twin – to – twin transfusion syndrome was 5.9% and the
miscarriage was 4.2%. The rate of cesarean section was 67% and the most common indication was the fetal cause
group with 40.8%, of which fetal malpresentation was 19.7% and fetal distress was 13.2%. Low birth weight was 65.5%.
Neonatal Intensive Care Unit admission was 21.7%, perinatal mortality was 4.4% and they were related to monochori-
onic, IUGR and preterm birth (p < 0.05).
Conclusions: Twin pregnancy is a complex pregnancy with many complications. Monochorionic, intrauterine growth
restriction and preterm birth are important factors correlating with the adverse fetal outcomes.
Keywords: Twins, Twin to twin transfusion syndrome, stillbirth.
35Mai Ngọc Ba và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(3):34-40. doi: 10.46755/vjog.2020.3.1136
1. ĐặT VấN Đề
Song thai là một thai kỳ tiềm ẩn nhiều nguy cơ, có thể
gây hậu quả bất lợi đến sức khỏe mẹ và thai trong thai
kỳ, chuyển dạ và sau khi sinh. Những biến chứng hay
gặp trong thai kỳ song thai về phía mẹ như các rối loạn
tăng huyết áp trong thai kỳ (THATTK), đái tháo đường
thai kỳ, thiếu máu; một số biến chứng cho con phần lớn
liên quan đến nguy cơ sinh non, thai chậm tăng trưởng
(IURG) và dị tật bẩm sinh, kèm theo đó là những biến
chứng nặng nề cho thai liên quan đến tình trạng chung
bánh nhau như hội chứng truyền máu trong song thai
(TTTS), thai chậm tăng trưởng có chọn lọc (sIUGR), hội
chứng thiếu máu - đa hồng cầu (TAPS) hay hội chứng
đảo ngược tưới máu động mạch (TRAP) [1]. Trong quá
trình chuyển dạ, các trường hợp song thai cũng hay xảy
ra nhiều biến cố nguy hiểm hơn thai kỳ đơn thai, đặc biệt
là với thai thứ hai như ngôi bất thường, nhau bong non
sau khi sinh thai thứ nhất [2]. Không những thế, song
thai cũng làm tăng nguy cơ mắc các biến chứng sau
sinh như băng huyết sau sinh do đờ tử cung hay nhiễm
trùng sau sinh [3].
Nắm vững kiến thức về đặc điểm của nhóm sản phụ
song thai và những biến chứng có thể xảy ra sẽ giúp
bác sĩ quản lý thai kỳ phù hợp cũng như về thái độ xử trí
trong chuyển dạ đúng. Mục đích cuối cùng là giảm thiểu
những tai biến, đảm bảo kết quả thai kỳ tối ưu cho mẹ và
thai nhi. Để góp phần trong quản lý những thai kỳ song
thai, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài này nhằm mục
tiêu: Khảo sát một số biến chứng và đánh giá kết quả kết
thúc thai kỳ ở các sản phụ song thai.
2. ĐốI TƯỢNG VÀ PHƯơNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn gồm tất cả các trường hợp song
thai được theo dõi kết thúc thai kỳ tại Phụ Sản - Bệnh viện
Trung ương Huế và khoa Phụ Sản - Bệnh viện Trường
Đại học Y Dược Huế trong thời gian từ 01/05/2019 đến
30/04/2020.
Loại những trường hợp mắc các bệnh lý có sẵn như
thiếu máu mạn, tăng huyết áp mạn, đái tháo đường...
Những trường hợp không có hồ sơ theo dõi thai kỳ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Các bước tiến hành:
Các sản phụ mang song thai thỏa mãn tiêu chuẩn
chọn bệnh sẽ được tư vấn và đưa vào nghiên cứu, các
bước tiến hành như sau:
- Bước 1: Phỏng vấn và thu thập thông tin quản lý
thai kỳ.
- Bước 2: Khám và theo dõi trước khi sinh, quá trình
chuyển dạ. Theo dõi các biến chứng trong quá trình
chuyển dạ, phương thức chấm dứt thai kỳ cũng như kết
quả sản khoa của mẹ và bé.
- Bước 3: Theo dõi biến chứng sớm có thể xảy ra
trong quá trình hậu sản. Kết thúc nghiên cứu khi sản phụ
và trẻ sơ sinh xuất viện.
Xử lý số liệu:
Dữ liệu nghiên cứu được trình bày dưới dạng tỉ lệ
phần trăm và giá trị trung bình, sử dụng kiểm định Chi
– square để xem xét mối tương quan cũng như sự phù
hợp với p < 0,05. Sử dụng chỉ số odds ratio (OR) để tính
nguy cơ.
Sử dụng phần mềm IBM SPSS Statistics 20.0 đề
quản lý và xử lý số liệu.
3. KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu, có 118 sản phụ song thai được theo dõi kết thúc thai kỳ.
3.1. Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Bảng 1. Một số đặc điểm của mẫu nghiên cứu.
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ %
Tuổi sản phụ
< 20 3 2,5
20 - 24 20 16,9
25 - 29 43 36,4
30 - 34 34 28,8
≥ 35 18 15,3
Số lần đẻ
Con so 57 48,3
Con rạ 61 51,7
Cách thụ thai
Tự nhiên 95 80,5
TTTON 21 17,8
TTNT 2 1,7
Loại song thai
D - D 62 52,5
M - D 54 45,8
M - M 2 1,7
Ghi chú: TTTON: thụ tinh trong ống nghiệm; TTNT: Thụ tinh nhân tạo; D – D: hai bánh nhau - hai buồng ối; M – D: một
bánh nhau - hai buồng ối; M – M: một bánh nhau - một buồng ối.
36
Tuổi sản phụ chủ yếu ở nhóm 20 - 34 tuổi, chiếm 82,1%. Sản phụ mang thai con so chiếm 48,3%, con rạ chiếm
51,7%. Tỉ lệ có thai tự nhiên chiếm đa số với 80,5%. Song thai nhóm D - D chiếm tỉ lệ cao nhất với 52,5%.
3.2. Biến chứng của song thai
Biến chứng mẹ:
Bảng 2. Một số biến chứng mẹ
Biến chứng Không biến chứng
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Biến chứng trước sinh:
Thiếu máu 39 33,1 79 66,9
THATK 5 4,2 113 95,8
Tiền sản giật 15 12,7 103 87,3
Biến chứng sau sinh:
Băng huyết sau sinh 2 1,7 111 94,1
Sót nhau 9 7,6 104 88,1
Nhiễm trùng sau sinh 1 0,8 112 94,9
Biến chứng mẹ trong thai kỳ phổ biến nhất là thiếu máu (33,1%), biến chứng sau sinh phổ biến nhất là sót nhau (7,6%).
Biến chứng thai:
Bảng 3. Một số biến chứng thai
Biến chứng Không biến chứng
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Biến chứng chung cho thai
Sẩy thai 5 4,2 113 95,8
Sinh non 50 42,4 68 57,6
Chết một thai 11 9,3 107 90,7
Hai thai chết trong tử cung 2 1,7 116 98,3
IUGR 131 62,4 79 37,6
sIUGR 10 8,5 108 91,5
Dị tật bẩm sinh 3 2,5 115 97,5
Biến chứng chỉ có ở song thai một bánh nhau
tttS 7 5,9 111 94,1
TRAP 1 0,8 117 99,2
IUGR là biến chứng phổ biến nhất chiếm 69,2% các trường hợp thai nhi được sinh ra (loại các thai bị sẩy và chết
trong tử cung không rõ thời điểm), sau đó là sinh non với 42,4%.
Đối với những biến chứng chỉ có ở song thai một bánh nhau, TTTS chiếm 5,9% và hội chứng TRAP chiếm 0,8%.
3.3. Kết quả kết thúc thai kỳ ở các sản phụ song thai
Phương pháp chấm dứt thai kỳ:
Biểu đồ 1. Phương pháp chấm dứt thai kỳ
Tỉ lệ mổ lấy thai chiếm 67%, sinh đường âm đạo chiếm 33%.
Mai Ngọc Ba và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(3):34-40. doi: 10.46755/vjog.2020.3.1136
37
Bảng 4. Nguyên nhân mổ lấy thai
Nguyên nhân mổ lấy thai Số lượng Tỷ lệ %
Nguyên nhân của mẹ
Bệnh lý mẹ 6 7,9
Sẹo mổ cũ 16 21,1
Tổng 22 29,0
Nguyên nhân từ thai
Nguyên nhân do ngôi thai 15 19,7
Thai suy 10 13,2
Các nguyên nhân khác của thai 6 7,9
Tổng 31 40,8
Nguyên nhân từ phần phụ Nhau bong non 2 2,6
Nguyên nhân xã hội 18 23,7
Nguyên nhân khác Chuyển dạ kéo dài 3 3,9
Tổng 76 100,0
Nguyên nhân mổ lấy thai phổ biến nhất là do thai (40,8%), trong đó chủ yếu do ngôi thai (19,7%), thai suy (13,2%).
Kết quả sơ sinh:
Bảng 5. Cân nặng của trẻ sơ sinh trong song thai
Cân nặng (gram)
Thai thứ nhất Thai thứ hai Tổng
p
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
< 2000 28 24,8 31 27,4 59 26,1
0,123
2000 - < 2500 39 34,5 50 44,2 89 39,4
2500 - < 3000 37 32,7 28 24,8 65 28,8
≥ 3000 9 8,0 4 3,5 13 5,7
Tổng 113 100,0 113 100,0 226 100,0
Nhóm trẻ sinh ra có cân nặng thấp (< 2500gr) chiếm tỉ lệ 65,5%.
Bảng 6. Kết quả sơ sinh
Kết quả sơ sinh
Thai 1 (n = 113) Thai 2 (n = 113) Tổng (n = 226)
p
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Bình thường 79 69,9 73 64,6 152 67,3
0,255
Nhập NICU 24 21,2 25 22,1 49 21,7
Tử vong sau sinh 6 5,3 4 3,5 10 4,4
Chết trong tử cung 4 3,5 11 9,7 15 6,6
Tỷ lệ trẻ nhập đơn vị Chăm sóc tích cực Sơ sinh (NICU) là 21,7%, tử vong sau sinh chiếm 4,4%, thai chết trong tử
cung chiếm 6,6%.
Bảng 7. Dự báo kết quả bất lợi cho thai nhi trong song thai.
Yếu tố dự báo OR 95% CI p
Một bánh nhau 3,0 1,4 – 6,6 0,005
IUGR 2,6 1,1 – 6,1 0,029
Sinh non 18,6 7,8 – 44,5 < 0,001
Lưu ý: Kết quả bất lợi cho thai gồm tử vong sau sinh hoặc nhập NICU.
Mô hình được kiểm soát bởi các yếu tố: sinh non, số lượng bánh nhau, tình trạng thiếu máu trước sinh của mẹ, rối
loạn THATK, IUGR. Thai nhi sinh non có nguy cơ gặp kết quả bất lợi cao gấp 18,6 lần (OR 18,6; 95% CI: 7,8 - 44,5), song
thai một bánh nhau có nguy cơ gặp kết quả bất lợi cho thai cao gấp 3,0 lần (OR 3,0; 95% CI: 1,4 – 6,6) và IUGR tăng
nguy cơ này lên 2,6 lần (OR 2,6; 95% CI: 1,1 - 6,1).
Mai Ngọc Ba và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(3):34-40. doi: 10.46755/vjog.2020.3.1136
38 Mai Ngọc Ba và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(3):34-40. doi: 10.46755/vjog.2020.3.1136
4. BÀN LUẬN
4.1. Biến chứng trong song thai
Biến chứng mẹ:
Biến chứng trước sinh của mẹ trong song thai phổ
biến nhất là thiếu máu với 33,1%. Tất cả đều nằm trong
nhóm thiếu máu nhẹ và vừa, không có trường hợp nào
thiếu máu nặng. Chúng tôi thu thập dữ liệu về công thức
máu của sản phụ trong thai kỳ và lúc chấm dứt thai kỳ,
phân loại thiếu máu trong thai kỳ dựa vào nồng độ he-
moglobin theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) [4]. Tỉ lệ
này không khác biệt so với một số nghiên cứu như của
Nguyễn Thị Thùy Dương (29,4%), Nguyễn Thanh Hiền
(28,1%) [5], [6]. Nguy cơ thiếu máu trong song thai phần
lớn do thiếu sắt bởi nhu cầu sắt trong song thai cao hơn
so với đơn thai. Điều này đòi hỏi có thêm những hướng
dẫn bổ sung sắt trong thai kỳ song thai.
Rối loạn tăng huyết áp thai kỳ chiếm tỉ lệ 16,9%, trong
đó tiền sản giật chiếm 12,7%. Kết quả này là phù hợp
khi so sánh với một số nghiên cứu khác như của Fox và
cộng sự trên 513 trường hợp song thai, có 76 trường hợp
có rối loạn THATK chiếm 14,8% [7], hay một nghiên cứu
trong nước của Nguyễn Thanh Hiền trên 235 trường hợp
song thai, có tỷ lệ tiền sản giật là 18,5% [6].
Biến chứng sau sinh phổ biến nhất là sót nhau, chiếm
7,6%. Nguyên nhân có thể do bánh nhau trong song thai
bám diện rộng, kèm theo tỉ lệ sinh non khá cao. Đó là
những yếu tố nguy cơ dẫn đến sót nhau. Phần lớn các
trường hợp sót nhau trong nghiên cứu của chúng tôi đều
được phát hiện và xử trí ngay lúc sinh, không có trường
hợp nào phải can thiệp phẫu thuật.
Biến chứng thai:
Nghiên cứu chúng tôi cho thấy IUGR là biến chứng
thường gặp nhất, chiếm tới 69,2% trong toàn bộ các thai
nhi được sinh ra. IUGR đánh giá trên mỗi thai nhi khi sinh
ra có cân nặng dưới bách phân vị thứ 10 so với tuổi thai
[8]. Nghiên cứu chúng tôi chỉ đánh giá trên các thai nhi
có tuổi thai trên 22 tuần. Sau khi đã loại bỏ các trường
hợp thai chết trong tử cung không rõ thời điểm, những
trẻ còn lại sinh ra sẽ được xác định trọng lượng, dựa theo
biểu đồ tăng trưởng thai nhi của WHO [9]. sIUGR trong
nghiên cứu của chúng tôi chiếm 8,5% và thấp hơn nghiên
cứu của Lewi (14%) [10]. Thai kỳ song thai được chẩn
đoán là sIUGR khi chỉ có một thai có cân nặng nằm dưới
bách phân vị thứ 10 so với tuổi thai và sự chênh lệch cân
nặng của hai thai là lớn hơn 25% [11].
Chết một thai cũng khá phổ biến và chiếm tỉ lệ 9,3%
tổng số song thai, hầu hết đều thuộc nhóm song thai
một bánh nhau. Có hai trường hợp chết cả hai thai
trong tử cung chiếm 1,7%, đều nằm trong nhóm song
thai một bánh nhau. Theo nghiên cứu của Morikawa và
cộng sự (2012) trên 9822 trường hợp song sinh ở Nhật
Bản, có 2,5% trường hợp song thai một bánh nhau tuổi
thai lớn hơn 22 tuần có một hoặc cả hai thai chết trong
tử cung so với 1,2% trường hợp song thai hai bánh
nhau [12]. Điều đó cho thấy có mối liên quan giữa tình
trạng chung bánh nhau và nguy cơ chết trong tử cung
của thai nhi.
Dị tật bẩm sinh trong nghiên cứu của chúng tôi phát
hiện 3 trường hợp, trong đó có một trường hợp u quái
vùng bụng và 2 trường hợp dị tật bẩm sinh. Ngoài ra,
một số biến chứng xảy ra ở song thai một bánh nhau
cũng khá phổ biến khi TTTS chiếm tỉ lệ 5,9%, tất cả
những trường hợp này đều được quản lý theo dõi và kết
thúc thai kỳ trước 34 tuần, một trường hợp song thai hội
chứng TRAP được chấm dứt thai kỳ lúc 29 tuần.
Một trong những biến chứng sớm của thai kỳ song
thai là sẩy thai, nghiên cứu chúng tôi có 5 trường hợp
và chiếm 4,2%. Tỉ lệ này là khá thấp bởi theo nhiều ng-
hiên cứu trước đây, tỉ lệ sẩy thai trong thai kỳ đơn thai
có thể lên đến 10 - 20% đối với mang thai lâm sàng và
có thể cao hơn bởi nhiều trường hợp sẩy thai không thể
xác định được [13]. Tại Việt Nam và trên thế giới chưa có
nhiều nghiên cứu về sẩy thai trong song thai tự nhiên,
một nghiên cứu của Philippe Tummers (2003) trên 397
ca song thai TTTON ghi nhận rằng tỉ lệ sẩy thai chiếm
17,1%, tỉ lệ này còn thấp hơn tỷ lệ sẩy thai của đơn thai
(21,7%) [14]. Cần có thêm các nghiên cứu về sảy thai
trong song thai, kể cả mang thai cận lâm sàng và mang
thai lâm sàng để đánh giá liên quan giữa song thai và
nguy cơ sẩy thai.
Sinh non chiếm tỉ lệ 42,4% trong toàn bộ các trường
hợp song thai. Tỉ lệ này thấp hơn rất nhiều so với ng-
hiên cứu của Vũ Hoàng Lan (70,9%) và Nguyễn Thị Lan
Hương (66,5%) [15], [16]. Sinh non trong song thai giảm
đi chứng minh sự thành công trong theo dõi và quản lý
thai kỳ trên đối tượng song thai. Theo Martin JA, nguy
cơ sinh non tăng khi số lượng thai càng nhiều, tỉ lệ sinh
non của đơn thai khoảng 10,4% và rất non (dưới 32
tuần) là 1,6% trong khi đó tỉ lệ sinh non đối với song thai
theo thống kê của tác giả là 58,8% và sinh rất non lên
tới 11,4% [17]. Tăng nguy cơ sinh non trong song thai
tương đối thống nhất, đã có nhiều nghiên cứu dự phòng
sinh non ở thai kỳ song thai bằng progesteron, khâu cổ
tử cung hay bằng vòng nâng cổ tử cung, tuy nhiên vẫn
chưa thống nhất về khuyến cáo dự phòng. Vì vậy, theo
dõi và phát hiện những nguy cơ sinh non vẫn là vấn đề
cần được chú trọng.
4.2. Kết quả kết thúc thai kỳ
Phương pháp chấm dứt thai kỳ:
Tỉ lệ mổ lấy thai trong nghiên cứu chúng tôi là
67%, sinh đường âm đạo chiếm 33%. Tỉ lệ mổ lấy thai
này không khác biệt với kết quả của nhiều tác giả như
Nguyễn Thị Minh Nguyệt (67,7%) và Nguyễn Thanh Hiền
(71,5%) [6], [18], song thấp hơn so với nghiên cứu của Vũ
Hoàng Lan (83,7%). Nguyên nhân một phần là do tỉ lệ
song thai TTTON trong nghiên cứu của chúng tôi như đã
trình bày ở trên thấp hơn rất nhiều so với của Vũ Hoàng
Lan, trong khi đó, các trường hợp TTTON thường được
mổ lấy thai với lý do con quý con hiếm.
Nguyên nhân mổ lấy thai phổ biến nhất là do thai
(40,8%), trong đó có một số nguyên nhân phổ biến như
do ngôi thai (19,7%), chỉ định mổ lấy thai tuyệt đối ở các
trường hợp ngôi thứ nhất không phải là ngôi đầu, trường
hợp hai ngôi là ngôi đầu sẽ có xu hướng chèn ép nhau
39
khi chuyển dạ chính vì vậy chỉ định mổ lấy thai do ngôi
khá phổ biến. Nguyên nhân thứ hai là thai suy với 13,2%
và một số nguyên nhân khác. Nhóm nguyên nhân từ mẹ
chiếm 29% chủ yếu là do sẹo mổ cũ (21,1%) và bệnh lý
của mẹ (7,9%).
Nguyên nhân xã hội có tỉ lệ khá cao, với 23,7%, chủ
yếu là do con quý con hiếm. Tỉ lệ này thấp hơn so với
nguyên cứu của Vũ Hoàng Lan (69,3%) và Nguyễn Thị
Lan Hương (42,7%) song lại cao hơn nghiên cứu của
Nguyễn Thanh Hiền (6%) [6], [15], [16]. Nguyên nhân này
dựa trên một số yếu tố cơ bản: tỉ lệ khá cao song thai
do kết quả điều trị vô sinh và hỗ trợ sinh sản, được xếp
vào nhóm con hiếm, tâm lý lo sợ khi theo dõi sinh đường
âm đạo, kỹ thuật gây tê, gây mê ngày càng an toàn và
hiệu quả cùng với đơn vị hồi sức sau mổ tốt dẫn đến xu
thế chọn giải pháp mổ lấy thai hơn. Bên cạnh đó, số liệu
chúng tôi được lấy gần với trung tâm hỗ trợ sinh sản lớn,
tỉ lệ song thai do hỗ trợ sinh sản cao hơn, kéo theo tỉ lệ
mổ lấy thai do nguyên nhân này tăng lên.
Kết quả sơ sinh:
Cân nặng thai nhi từ 2000 - 2500gr chiếm tỉ lệ cao
ở cả 2 thai (39,4%) và nhóm có cân nặng < 2000gr là
26,1%. Như vậy nhóm trẻ sinh ra có cân nặng thấp trong
song thai chiếm tỉ lệ rất cao (65,5%), kết quả này hoàn
toàn phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hiền
(60,2%). Cân nặng thai nhi thấp chủ yếu liên quan đến
sinh non và thai chậm tăng trưởng, hai biến chứng phổ
biến nhất trong nghiên cứu chúng tôi. Không có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa cân nặng hai thai (p > 0,05),
chứng tỏ việc chênh lệch cân nặng giữa hai thai là ngẫu
nhiên và không có liên quan đến vị trí của thai nhi trong
tử cung.
Tỷ lệ trẻ phải nhập NICU là 21,7% và tử vong sau
sinh chiếm 4,4%, còn lại là các trường hợp thai nhi đã
chết trong tử cung chiếm 6,6%. Không có mối tương
quan có ý nghĩa của kết quả sơ sinh với thứ tự thai (p >
0,05). Mặc dù có một số nghiên cứu cho rằng, nguy cơ
bệnh suất và tử suất của thai thứ hai thường cao hơn
thai thứ nhất, đặc biệt là trong sinh đường âm đạo như
suy thai, ngôi bất thường, nhau bong non và thậm chí
phải chuyển mổ. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có
ý nghĩa chứng tỏ việc tiên lượng trong song thai và lựa
chọn phương pháp xử trí ngay từ ban đầu ngày càng
tốt hơn. Không có ca song thai phải can thiệp bằng thủ
thuật hay sinh thường thai thứ nhất nhưng phải chuyển
mổ thai thứ hai.
Qua mô hình hồi quy hồi quy đa biến dự đoán kết quả
bất lợi cho thai nhi cho thấy, thai nhi sinh non có nguy cơ
gặp kết quả bất lợi (nhập NICU hay tử vong sau sinh) cao
gấp 18,6 lần (OR 18,6; 95% CI: 7,8 - 44,5) so với thai nhi
đủ tháng. Bên cạnh đó thai nhi ở nhóm một bánh nhau
có nguy cơ gặp kết quả bất lợi cao hơn gấp 3,0 lần so với
những trẻ nhóm song thai có hai bánh nhau riêng biệt
(OR 3,0; 95% CI: 1,4 - 6,6). Cũng qua mô hình này chúng
tôi thấy rằng, IUGR tăng nguy cơ kết quả bất lợi cho thai
nhi lên 2,6 lần so với nhóm không có biến chứng này (OR
2,6; 95% CI: 1,1 - 6,1).
KẾT LUẬN
Song thai là một thai kỳ có nhiều biến chứng trước,
trong và sau khi sinh. Tình trạng một bánh nhau, thai
chậm tăng trưởng trong tử cung và sinh non là những
yếu tố liên quan đến kết quả bất lợi cho thai nhi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cunningham FG, Leveno KJ, Bloom LS, Spong KY,
Dashe JS, Barbara L. Hoffman, et al. Multifetal Pregnan-
cy. Williams Obstetric. 25 ed. McGraw-Hill Education;
2018. p. 1336 - 87.
2. Bộ môn Phụ Sản - Trường Đại học Y Dược Thành phố
Hồ Chí Minh. Đa thai. Sản phụ khoa Tập 1. Nhà xuất bản
Y Học chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh; 2014. p. 298-
304.
3. Stach SL, Liao AW, Brizot MdL, Francisco RPV, Zugaib
M. Maternal postpartum complications according to
delivery mode in twin pregnancies. Clinics (São Paulo,
Brazil). 2014;69(7):447-51.
4. WHO. Haemoglobin concentrations for the diagnosis
of anaemia and assessment of severity. Vitamin and
Mineral Nutrition Information System.Geneva. 2011 [cit-
ed May 20th, 2020]. Available from:
vmnis/indicators/haemoglobin.
5. Nguyễn Thị Thùy Dương. Bước đầu nghiên cứu một số
đặc điểm của song thai một bánh nhau rau hai buồng ối
tuổi thai từ 12 tuần trở lên tại Bệnh viện Phụ Sản Trung
ương từ 2006 - 2011. Luận văn Bác sĩ Nội trú - Trường Đại
học Y Khoa Hà Nội; 2012.
6. Nguyễn Thanh Hiền, Nguyễn Vũ Quốc Huy. Nghiên cứu
tỉ lệ, một số yếu tố liên quan và kết quả kết thúc thai kỳ
ở các sản phụ song thai. Tạp chí Phụ Sản - Hội Sản Phụ
Khoa Việt Nam. 2016;14(04):28 - 34.
7. Fox NS, Roman AS, Saltzman DH, Hourizadeh T,
Hastings J, Rebarber A. Risk factors for preeclampsia
in twin pregnancies. American journal of perinatology.
2014;31(2):163-6.
8. Lees CC, Stampalija T, Baschat AA, da Silva Costa F,
Ferrazzi E, Figueras F, et al. ISUOG Practice Guidelines:
diagnosis and management of small-for-gestational-age
fetus and fetal growth restriction. Ultrasound in obstet-
rics & gynecology : the official journal of the Internation-
al Society of Ultrasound in Obstetrics and Gynecology.
2020;56(2):298–312.
9. Kiserud T, Piaggio G. The World Health Organization
Fetal Growth Charts: A Multinational Longitudinal Study
of Ultrasound Biometric Measurements and Estimated
Fetal Weight. PLoS Med. 2017;14(1):e1002220.
10. Lewi L, Jani J, Blickstein I, Huber A, Gucciardo L, Van
Mieghem T, et al. The outcome of monochorionic diam-
niotic twin gestations in the era of invasive fetal therapy:
a prospective cohort study. American journal of obstet-
rics and gynecology. 2008;199(5):514.e1 - 8.
11. Khalil A, Rodgers M, Baschat A, Bhide A, Gratacos
E, Hecher K, et al. ISUOG Practice Guidelines: role of
Mai Ngọc Ba và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(3):34-40. doi: 10.46755/vjog.2020.3.1136
40
ultrasound in twin pregnancy. Ultrasound in obstetrics
& gynecology : the official journal of the International
Society of Ultrasound in Obstetrics and Gynecology.
2016;47:247–63.
12. Morikawa M, Yamada T, Yamada T, Sato S, Cho K, Mi-
nakami H. Prospective risk of stillbirth: monochorionic
diamniotic twins vs. dichorionic twins. Journal of perina-
tal medicine. 2012;40(3):245-9.
13. Magnus MC, Wilcox AJ, Morken NH, Weinberg CR,
Håberg SE. Role of maternal age and pregnancy history
in risk of miscarriage: prospective register based study.
BMJ (Clinical research ed). 2019;364:l869.
14. Tummers P, De Sutter P, Dhont M. Risk of sponta-
neous abortion in singleton and twin pregnancies af-
ter IVF/ICSI. Human reproduction (Oxford, England).
2003;18(8):1720-3.
15. Vũ Hoàng Lan. Nghiên cứu xử trí song thai chuyển dạ
đẻ với tuổi thai từ 28 tuần trở lên tại bệnh viện Phụ Sản
Trung ương. Luận văn Thạc sĩ Y học - Trường Đại học Y
Khoa Hà Nội; 2015.
16. Nguyễn Thị Lan Hương, Nguyễn Thanh Phong. Nhận
xét tình hình đẻ song thai tại Bệnh viện Phụ Sản Trung
ương sáu tháng cuối năm 2015. Tạp chí Phụ Sản - Hội
Sản Phụ Khoa Việt Nam. 2015;14(1):80 - 5.
17. Martin JA, Hobel CJ, Hamilton BE, Ventura SJ, Oster-
man MJ, et al. Births: final data for 2009. National vital
statistics reports : from the Centers for Disease Control
and Prevention, National Center for Health Statistics, Na-
tional Vital Statistics System. 2011;60(1):1-70.
18. Nguyễn Minh Nguyệt. Nghiên cứu tỷ lệ, các phương
pháp xử trí và kết quả đẻ song thai tại Bệnh viện Phụ Sản
Trung ương trong hai giai đoạn năm 1996 – 1997 và năm
2006-2007. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa 2,
Trường Đại học Y Hà Nội; 2008.
Mai Ngọc Ba và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(3):34-40. doi: 10.46755/vjog.2020.3.1136
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_mot_so_bien_chung_va_ket_qua_thai_ky_o_cac_san_ph.pdf