Nghiên cứu một số biện pháp xử lý cây con trong giai đoạn vườn ươm để sản xuất cây giống cà phê sạch bệnh

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 4.1. Kết luận Đất phơi nắng + tủ PE trong mùa khô nhiệt độ tăng không đạt 600C trong thời gian dài để tiêu diệt tuyến trùng ở trong đất, vì vậy sau khi cắm cây vào bầu cần phải xử lý các loại chế phẩm sinh học định kỳ để ngăn chặn sự phát sinh của tuyến trùng. Việc lót nền bằng nilon sẽ ngăn chặn được sự xâm nhiễm của tuyến trùng nhưng không triệt để. Xử lý chế phẩm sinh học định kỳ 2 tháng/lần giúp hạn chế sự xâm nhiễm của tuyến trùng và nấm gây hại cây cà phê trong giai đoạn vườn ươm, làm tăng tỷ lệ cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn. Cây cắm trực tiếp vào bầu lớn để lưu vườn 2 năm có khả năng sinh trưởng và bộ rễ phát triển tốt hơn so với cây sang bầu. 4.2. Đề nghị Cần phải xử lý đất vào bằng biện pháp tủ phơi nắng + tủ PE, các loại chế phẩm sinh học trong thành phần có Peacilomyces lilacinus, Trichoderma hazianum, Trichoderma viride, Chitosan, Abamectin kết hợp với việc tưới định kỳ 2 tháng/lần đối với cây con trong vườn ươm để ngăn chặn sự phát triển và xâm nhiễm của tuyến trùng. Có những thí nghiệm về xử lý giá thể và phòng trừ bệnh trong vườn ươm chặt chẽ hơn để xây dựng và ban hành quy trình sản xuất cây giống sạch bệnh.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu một số biện pháp xử lý cây con trong giai đoạn vườn ươm để sản xuất cây giống cà phê sạch bệnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
93 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019 Study on application of Rohapect enzyme in processing of white pepper from black pepper Pham Van Thao, Phan Thanh Binh, Vo Thi Thuy Dung, Truong Minh Hang, Tran Thi Tham Ha, Nguyen Thi Kim Oanh Abstract Processing white pepper from black pepper corns is being used widely at both industrial and farm level as a raw material to produce white pepper because of their abundance and availability. This method applies enzyme technology in order to minimize environmental pollution; makes food hygiene and safety and reduces costs and equipment expenditure. The experiments were carried out during 2017 and 2018 harvesting seasons and used black pepper corns collected from Dak Lak province. In these experiments, Rohapect enzyme was added in two processing stages: fermentation and whitening. The results showed that the concentration of Rohapect enzyme used at the fermenting stage was 1000 ppm in 108 hours; the rate of the pepper removed peel was 99.8%. At the whitening stage, the concentration of the Rohapect enzyme was 300 ppm, the percentage of peppers with white color and white- yellow was more than 97%. The flavor and quality of white pepper products were very good and without strange taste. Keywords: Pepper, white pepper, enzyme, rohapect, pectinase Ngày nhận bài: 25/11/2018 Ngày phản biện: 18/12/2018 Người phản biện: TS. Dương Thị Phượng Liên Ngày duyệt đăng: 11/1/2019 NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP XỬ LÝ CÂY CON TRONG GIAI ĐOẠN VƯỜN ƯƠM ĐỂ SẢN XUẤT CÂY GIỐNG CÀ PHÊ SẠCH BỆNH Nguyễn Thị Thanh Mai1, Lê Văn Phi1, Đinh Thị Tiếu Oanh1, Nguyễn Đình Thoảng1, Lê Văn Bốn1, Nông Khánh Nương1, Lại Thị Phúc1, Đào Hữu Hiền1, Nguyễn Phương Thu Hương1, Hạ Thục Huyền1 TÓM TẮT Cây giống cà phê đảm bảo chất lượng là yếu tố quan trọng để tái canh thành công. Do đó, việc sử dụng các biện pháp nhiệt, hóa học, sinh học để xử lý đất trước khi vào bầu, nền đất đặt bầu và cây con trong giai đoạn vườn ươm là rất cần thiết để tránh lây lan nguồn bệnh. Kết quả nghiên cứu cho thấy ngoài nguồn đất vào bầu bị nhiễm tuyến trùng và nấm thì nền đất đặt bầu cũng bị tuyến trùng và nấm xâm nhiễm khá nặng. Để sản xuất cây giống cà phê sạch bệnh cần phải có sự kết hợp xử lý đất trước khi vào bầu với xử lý cây con trong vườn ươm. Các biện pháp xử lý đất được áp dụng là phơi nắng + tủ tấm nhựa PE, thuốc hóa học, chế phẩm sinh học. Sau khi cắm cây vào bầu tiếp tục xử lý cây con bằng chế phẩm sinh học định kỳ 2 tháng/lần để ngăn chặn sự xâm nhiễm và lây lan của tuyến trùng và nấm gây hại. Từ khóa: Tuyến trùng, cây giống sạch bệnh, vườn ươm 1 Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong nhiều năm qua các kết quả nghiên cứu đã xác định nguyên nhân chính gây chết cà phê tái canh là do tuyến trùng  Pratylenchus coffea,  Meloidogyne  spp. và nấm  Fusarium  sp tấn công làm thối rễ, vàng lá, khô héo và chết (Trần Kim Loang, 2002; Nguyễn Văn Tuất và ctv., 2017). Các vườn cà phê tái canh thất bại chủ yếu không thực hiện tốt các giải pháp cải tạo và xử lý đất, vệ sinh đồng ruộng, đầu tư chăm sóc, phân bón... Bên cạnh đó, cây giống cà phê không đảm bảo chất lượng là một trong những nguyên nhân gây chết cây ở năm đầu tiên tái canh lên đến 30 - 40% (Chế Thị Đa và ctv., 2012). Cây giống cà phê bị nhiễm bệnh nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời thì khi đưa ra trồng sẽ lây lan nguồn bệnh ra ngoài đồng. Trong trường hợp bị nhiễm bệnh nặng sẽ làm cho cây cà phê chết ngay ở năm trồng mới, nhưng bị nhẹ sẽ là hệ lụy làm cho cây cà phê bị chết ở những năm thứ 2, thứ 3, gây thiệt hại lớn cho người trồng cà phê. Nguyên nhân cây con trong vườn ươm bị nhiễm bệnh là do nguồn đất vào bầu hoặc nền đất đặt bầu đã bị nhiễm tuyến trùng và nấm (Nguyễn Văn Tuất và ctv., 2016). Vì vậy, nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật xử lý đất, phòng trừ tuyến trùng trong giai đoạn vườn ươm để sản xuất cây giống sạch bệnh là rất cần thiết. 94 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019 II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu nghiên cứu Đất được lấy từ vườn cà phê đã thanh lý, bị nhiễm bệnh ở mức trung bình, mật độ tuyến trùng tổng số trong đất là 140 con/100 g đất. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Xử lý đất trước khi vào bầu - Thí nghiệm bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 6 công thức (đối chứng, đất hấp, phơi nắng + PE (nhựa dẽo, trong), xử lý Điền trang Nema, Vimoca + Dupont, đất tầng sâu >1 m), 3 lần lặp lại, mỗi ô cơ sở 0,5 m3 đất, mỗi công thức 1,5 m3 đất. Đất được đổ thành luống có chiều rộng 1,2 m; dày 20 cm. Đất được xử lý trước khi vào bầu 2 tháng. Sau khi xử lý, cho đất vào bầu theo từng công thức cùng với phân chuồng hoai tỷ lệ 3:1 + 15 kg lân/1m3 đất để tiếp tục theo dõi ảnh hưởng của tuyến trùng và nấm. - Chỉ tiêu theo dõi: Ở công thức phơi nắng + tủ PE, đo nhiệt độ ở giữa luống đất xử lý nhiệt 2 lần/ ngày vào thời điểm 10 h và 14 h trong vòng 1 tháng. + Mật độ tuyến trùng và nấm trong đất trước xử lý; trước khi vào bầu; trong đất và rễ trước khi xuất vườn. + Sinh trưởng của cây con và phát triển của bộ rễ sau 6 tháng cắm cây vào bầu (chiều cao cây, đường kính gốc, chiều dài rễ, khối lượng rễ). + Tỷ lệ cây xấu, cây chết, cây bị nhiễm bệnh và cây đủ tiêu chuẩn xuất vườn. 2.2.2. Xử lý nền đất vườn ươm và cây giống bầu nhỏ - Thí nghiệm bố trí theo kiểu lô chính, lô phụ (2 yếu tố) gồm 2 loại nền (đất và phủ nilon), 5 công thức (không xử lý, xử lý Điền Trang-NEMA, Tervigo, Trichosan, Sumargrow), 3 lần lặp lại, gồm 30 ô cơ sở, mỗi ô cơ sở 60 cây, tổng số cây thí nghiệm là 1500 cây. Đất trước khi vào bầu được tủ PE trong mùa khô và xử lý chế phẩm sinh học trước khi vào bầu 2 tháng, các công thức xử lý, sau khi cắm cây 2 tháng xử lý chế phẩm định kỳ 2 tháng/lần. - Chỉ tiêu theo dõi: + Sinh trưởng của cây và phát triển của bộ rễ (chiều cao cây, đường kính gốc, chiều dài rễ, khối lượng rễ) sau 6 tháng cắm cây vào bầu. + Mật độ tuyến trùng và nấm trong đất trước khi vào bầu; mật độ tuyến trùng, nấm trong đất, rễ và tỷ lệ cây bị thối, u sưng rễ trước khi xuất vườn. 2.2.3. Xử lý cây con để sản xuất cây giống bầu lớn - Thí nghiệm bố trí theo kiểu lô chính, lô phụ (2 yếu tố) gồm 2 công thức sang bầu và không sang bầu, 2 công thức xử lý bệnh và không xử lý bệnh, 3 lần lặp lại, gồm 12 ô cơ sở, mỗi ô cơ sở 60 cây, tổng số cây thí nghiệm là 720 cây. Đất trước khi vào bầu được tủ nilon trong mùa khô và xử lý chế phẩm sinh học trước 2 tháng, sau đó cho vào bầu 1 ˟ 3 ˟ 23 cm để sang bầu khi cây được 5 cặp lá. Kích thước bầu sử dụng để cắm trực tiếp và sang bầu là 25 ˟ 35 cm để lưu cây 2 năm. Sau khi cắm cây con 2 tháng xử lý chế phẩm Trichosan định kỳ 2 tháng/lần cho đến khi xuất vườn . - Chỉ tiêu theo dõi: + Sinh trưởng của cây và sự phát triển của bộ rễ (chiều cao cây, đường kính gốc, chiều dài rễ, khối lượng rễ) sau khi sang bầu 6 tháng và trước khi xuất vườn. + Tỷ lệ cây bị thối rễ, u sưng rễ; Mật độ tuyến trùng và nấm trong đất, rễ sau sang bầu 2, 4, 6 tháng và trước khi xuất vườn. Giá thể vào bầu cho các thí nghiệm được phối trộn với tỷ lệ 4m3 đất + 1m3 phân chuồng (4 : 1), mỗi m3 hỗn hợp đất, phân trộn thêm 5 - 6 kg lân nung chảy. Tiêu chuẩn cây giống thực sinh 6 - 8 tháng tuổi: Cây cao 25 - 30 cm kể từ mặt bầu; có 5 - 6 cặp lá; đường kính gốc ≥ 4 mm, có một rễ mọc thẳng, cây giống không bị sâu bệnh hại, không bị vàng lá, thối rễ, u sưng rễ. Tiêu chuẩn cây giống thực sinh 18 - 20 tháng tuổi: Cây cao 35 - 50 cm kể từ mặt bầu; có 3 - 4 cặp cành; đường kính gốc ≥ 8 mm, có một rễ mọc thẳng, cây giống không bị sâu bệnh hại, không bị vàng lá, thối rễ, u sưng rễ. 2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 11 năm 2014 đến tháng 7 năm 2016 tại Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên. III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Xử lý đất trước khi vào bầu Đối với đất phơi nắng + tủ PE, trong tháng 3 nhiệt độ tầng đất từ 0 - 10 cm cao nhất lúc 10 giờ khoảng 45oC và lúc 14 giờ khoảng 55oC. Như vậy, đất phơi nắng + tủ PE đã làm nhiệt độ tăng lên đáng kể so với nhiệt độ bên ngoài, hạn chế khả năng phát triển của tuyến trùng nhưng chưa đủ cao để tiêu diệt tuyến trùng (t0 > 60oC trong thời gian dài). Do đó biện pháp xử lý bằng phơi nắng + tủ PE cần phải xử lý thêm các loại thuốc hóa học, chế phẩm sinh học sau khi cắm cây con vào bầu để ngăn chặn sự phát sinh, phát triển của tuyến trùng. 95 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019 Bảng 1. Mật độ tuyến trùng và nấm trong đất trước khi xử lý và trước khi vào bầu Thời điểm Công thức Mật độ tuyến trùng trong đất (con/100 g đất) Số lượng nấm Fusarium spp. trong đất (CFU/ g)Pra. Coffea Mel. spp. Đất trước xử lý 106 34 1,01 ˟ 104 Đất sâu > 1 m 0 0 0 Trước khi vào bầu ĐC (không xử lý) 60 38 0,80 ˟ 104 Đất hấp 0 0 2,95 ˟ 103 Phơi nắng + Tủ PE 0 0 2,05 ˟ 103 Điền Trang Nema 0 0 1,25 ˟ 103 Vimoca 10G 0 0 4,95 ˟ 103 Đất sâu > 1 m 0 0 2,85 ˟ 103 Trước khi xử lý, tuyến trùng tổng số trong đất là 140 con/100 g đất. Trong đó chủ yếu là tuyến trùng Pratylenchus coffea 106 con/100 g đất, tuyến trùng Meloidogyne spp có 34 con/100 g đất. Số lượng nấm Fusarium spp. xuất hiện trong đất khá cao 1,01 ˟ 104 cfu/g. Sau xử lý đất, ở các công thức thí nghiệm không xuất hiện tuyến trùng, ngoại trừ công thức đối chứng vẫn còn 98 con/100 g đất. Nấm Fusarium spp đều xuất hiện ở các công thức, trong đó công thức đối chứng có số lượng nấm nhiều nhất (0,80 ˟ 104 cfu/g), các công thức đất hấp và đất sâu > 1 m sau thí nghiệm cũng xuất hiện nấm với mật độ từ 2,85 - 2,95 ˟ 103 cfu/g. Như vậy, các loại thuốc hóa học, chế phẩm sinh học được dùng để xử lý đất phòng trừ tuyến trùng đã có hiệu quả, nhưng đối với nấm Fusarium spp. hiệu quả của việc xử lý các loại thuốc này chưa cao. Về sinh trưởng của cây, nhìn chung sau 6 tháng cắm cây vào bầu giữa các công thức thí nghiệm gần như tương đương nhau, riêng công thức đất sâu > 1 m có chiều cao cây thấp hơn so với các công thức khác. Điều này là do đất tầng sâu có độ xốp và hàm lượng dinh dưỡng thấp, nên trong cùng điều kiện chăm sóc sẽ sinh trưởng kém hơn. Cây giống đủ tiêu chuẩn xuất vườn ngoài sinh trưởng khỏe, có bộ rễ phát triển tốt, đặc biệt cây không bị bệnh là yếu tố hàng đầu đảm bảo tái canh thành công. Trong thực tế có nhiều vườn ươm cây giống trước khi xuất vườn sinh trưởng rất khỏe nhưng bộ rễ đã bị nhiễm bệnh, sau khi trồng tái canh tỷ lệ cây bị vàng lá, cây chết rất cao.Vì vậy, trước khi xuất vườn cần phải kiểm tra, đánh giá tình trạng của bộ rễ để tránh gặp phải rủi ro trong tái canh do cây giống gây ra. Bảng 2. Sự phát triển của bộ rễ, tỷ lệ cây bị nhiễm bệnh, cây xấu, cây chết và cây đủ tiêu chuẩn xuất vườn sau 6 tháng trồng Công thức Chiều dài rễ cọc (cm) Khối lượng rễ (g/cây) Tỷ lệ cây có bộ rễ bị nhiễm bệnh (%) Tỷ lệ cây xấu (%) Tỷ lệ cây chết (%) Tỷ lệ cây đủ tiêu chuẩn xuất vườn (%) Đối chứng 16,9 7,8 20,0 12,1 9,0 58,9 Đất hấp 21,6 10,5 10,5 15,1 5,2 69,2 Tủ P.E 20,3 11,5 15,5 9,2 5,2 70,1 Điền Trang Nema 22,0 10,0 4,9 14,0 8,3 72,8 Vimoca 10G 20,5 10,1 1,1 9,2 5,7 84,0 Tầng đất <1m 18,7 9,3 5,5 19,0 9,7 65,8 Theo Trịnh Quang Pháp và cộng tác viên (2004), mật độ tuyến trùng có ảnh hưởng đến toàn bộ các chỉ tiêu sinh trưởng và phát triển của cây cà phê, trong đó bộ rễ cây bị ảnh hưởng nhiều nhất và chi phối đến tổng trọng của cây. Kết quả nghiên cứu cho thấy: sau 6 tháng cắm cây vào bầu các công thức xử lý đất có chiều dài rễ trên 20 cm, dài hơn đáng kể so với công thức đối chứng chỉ đạt 16,9 cm. Hơn nữa, khi quan sát ở công thức đối chứng không xử lý đất trước khi vào bầu một số cây đã bị tuyến trùng tấn công làm đứt rễ cọc, có triệu chứng thâm đen và bắt đầu thối nhũn. 96 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019 Tương tự chiều dài rễ thì khối lượng rễ ở công thức đối chứng cũng đạt thấp nhất, kế đến là công thức đất tầng sâu > 1 m, các công thức còn lại có khối lượng rễ tương đương nhau. Các công thức thí nghiệm trước khi xuất vườn đều có tỷ lệ cây chết, cây xấu nhất định, do việc chăm sóc, sâu bệnh..., đặc biệt là các loài tuyến trùng và nấm gây hại. Kết quả bảng 2 cũng cho thấy các công thức được xử lý đất bằng thuốc hóa học, chế phẩm sinh học có tỷ lệ cây bị nhiễm bệnh thấp < 5%; công thức đối chứng (không xử lý) có tỷ lệ cây nhiễm bệnh cao nhất (20%). Công thức đất hấp (10,5%), công thức phơi nắng + tủ PE (15,5%) nhiễm bệnh với tỷ lệ khá cao, điều này cho thấy các công thức sau khi cắm cây vào bầu nếu không tiếp tục xử lý bằng các loại thuốc hóa học, chế phẩm sinh học thì tuyến trùng sẽ xâm nhập từ nền vườn ươm vào; Tủ PE chưa đủ nhiệt độ để diệt trứng và tuyến trùng, vì vậy tuyến trùng sẽ tiếp tục tăng trưởng và gây hại. Công thức đất tầng sâu < 1 m có tỷ lệ cây bệnh ít (5,5%) nhưng cây sinh trưởng kém nên tỷ lệ cây đủ tiêu chuẩn xuất vườn thấp, điều này là do đất ở tầng sâu có hàm lượng dinh dưỡng kém. Tuyến trùng gây hại cây con ở trong vườn ươm không chỉ là do nguồn đất vào bầu bị nhiễm bệnh mà còn do nền đất của vườn ươm, bị lây lan bởi cây lá sò. Vì vậy, việc sản xuất cây giống, mặc dù đất trước khi vào bầu đã được xử lý kỹ nhưng cũng cần phải tiếp tục xử lý ở thời kỳ cây con để ngăn chặn triệt để nguồn bệnh. Tỷ lệ cây đủ tiêu chuẩn xuất vườn biến động từ 58,9 - 84,0%, trong đó công thức xử lý vimoca có tỷ lệ cây xuất vườn cao nhất và công thức đối chứng là thấp nhất. Bảng 3. Mật độ tuyến trùng trong đất và rễ trước khi xuất vườn Công thức Mật số tuyến trùng trong đất (con/ 100 g đất) Mật số tuyến trùng trong rễ (con/ 5 g rễ) Pra. Mel. Pra. Mel. Đối chứng 0 0 0 72 Đất hấp 0 0 0 65 Tủ P.E 0 0 0 48 Điền Trang Nema 0 0 0 0 Vimoca 0 0 0 0 Basamid 0 0 0 0 Tầng dưới 1 m 0 0 0 31 Sau 6 tháng cắm cây không thấy xuất hiện tuyến trùng trong đất, nhưng ở trong rễ cây con của các công thức đối chứng, đất hấp, tủ PE và tầng đất < 1 m có xuất hiện tuyến trùng Meloidogyne spp. với mật độ 31 - 72 con/5 g rễ. Như vậy, các công thức xử lý hóa học (Vimoca), chế phẩm sinh học (Điền Trang Nema) đã cho thấy hiệu quả của việc xử lý tuyến trùng hại cây con trong vườn ươm. 3.2. Xử lý nền đất vườn ươm và cây giống bầu nhỏ Theo kết quả điều tra của WASI, hiện nay tại Đắk Lắk có gần 90% số vườn ươm đã bị nhiễm bệnh do tuyến trùng và nấm gây hại. Vì vậy, việc xử lý tổng hợp nền đặt bầu, đất vào bầu và cây con là rất cần thiết để sản xuất cây giống sạch bệnh. Bảng 4. Thành phần, mật độ tuyến trùng và nấm trong đất, rễ và mức độ nhiễm bệnh của cây con trong vườn ươm sau 6 tháng cắm cây vào bầu Công thức Mật độ tuyến trùng trong đất (con/ 100 g đất) Mật độ tuyến trùng trong rễ (con/ 5 g rễ) Số lượng nấm trong đất (cfu/g đất) CSB Mức độ nhiễm bệnhPra. coffeae Mel. inc Pra. coffeae Mel. inc Fu.sp Rhi.sp Nền đất, không xử lý 50 0 50 20 2 ˟ 103 0 11,67 Nhiễm TB Nền đất, xử lý Điền Trang Nema 90 80 100 50 1 ˟ 10 3 0 6,67 Nhiễm nhẹ Nền đất, xử lý Tervigo 40 10 10 30 0 0 5,00 Nhiễm nhẹ Nền đất, xử lý Trichosan 0 0 10 10 0 0 1,67 Nhiễm nhẹ Nền đất, xử lý Sumargrow 0 0 10 20 0 0 5,00 Nhiễm nhẹ Nền nilon, không xử lý 10 0 30 20 0 0 8,33 Nhiễm nhẹ Nền nilon, xử lý Điền Trang Nema 0 0 60 190 0 0 5,00 Nhiễm nhẹ Nền nilon, xử lý Tervigo 40 0 0 0 1 ˟ 103 0 6,67 Nhiễm nhẹ Nền nilon, xử lý Trichosan 0 0 0 0 0 0 3,33 Nhiễm nhẹ Nền nilon, xử lý Sumargrow 110 10 20 20 0 0 6,67 Nhiễm nhẹ 97 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019 Sau 6 tháng cắm cây vào bầu, tỷ lệ cây bị nhiễm bệnh tăng dần từ mức nhẹ đến mức trung bình. Đặc biệt, trên nền đất không xử lý bệnh, mức độ nhiễm bệnh nặng nhất (chỉ số bệnh 11,67); tiếp theo là trên nền lót nilon không xử lý bệnh (chỉ số bệnh 8,33). Các công thức không được xử lý bệnh định kỳ có xu hướng nhiễm bệnh ngày càng tăng cao. Điều này chứng tỏ có sự lây lan tuyến trùng từ nền vườn ươm, do đó để ngăn chặn sự lây lan cần phải sử dụng các chế phẩm sinh học để xử lý bệnh định kỳ. Bảng 5. Ảnh hưởng của nền đặt bầu và các công thức xử lý bệnh đến tỷ lệ cây giống đạt tiêu chuẩn xuất vườn Công thức Nền N1 (nền đất) N2 (nền nilon) CT1 (Đ/C) 60,00 73,33 CT2 (Điền Trang-NEMA) 73,33 80,00 CT3 (Tervigo) 80,00 73,33 CT4 (Trichosan) 86,67 93,33 CT5 (Sumargrow) 80,00 73,33 Cây giống đạt tiêu chuẩn xuất vườn, đảm bảo chất lượng là yếu tố rất quan trọng. Kết quả theo dõi và đánh giá tỷ lệ cây giống đủ tiêu chuẩn xuất vườn dựa vào sinh trưởng và mức độ nhiễm bệnh của các công thức cho thấy: Trên 2 loại nền công thức xử lý Trichosan có tỷ lệ cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn cao nhất (93,33% nền nilon và 86,67% nền đất). Các công thức xử lý Điền Trang-NEMA, Tervigo và Sumargrow trên cả 2 loại nền có tỷ lệ cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn tương đương nhau biến động từ 73,33 - 80,00% và công thức đối chứng chỉ đạt 60,00 - 73,33%. Công thức xử lý Trichosan và Điền Trang-NEMA xử lý trên nền nilon tốt hơn so với nền đât, trong khi đó Tervigo và Sumagrow xử lý trên nền đất tỷ lệ cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn cao hơn so với nền nilon. Như vậy, lót nền bằng nilon phần nào ngăn chặn được sự xâm nhiễm của tuyến trùng nhưng không triệt để, do đó cần phải xử lý các loại chế phẩm sinh học định kỳ 2 tháng/lần để ngăn chặn tuyến trùng và nấm lây lan. 3.3. Xử lý cây con để sản xuất cây giống bầu lớn Kết quả sau khi sang bầu 6 tháng cho thấy: Cây cắm trực tiếp vào bầu lớn sinh trưởng và có bộ rễ phát triển tốt hơn so với cây sang bầu, sự khác biệt giữa các công thức của các chỉ tiêu này rất có ý nghĩa thống kê. Ở công thức xử lý bệnh các chỉ tiêu về chiều cao cây, đường kính gốc và khối lượng rễ cao hơn có ý nghĩa so với công thức không xử lý bệnh. Bảng 6. Ảnh hưởng của sang bầu và xử lý chế phẩm sinh học đến sinh trưởng của cây giống và sự phát triển của bộ rễ sau 6 tháng sang bầu Chỉ tiêu Công thức không sang bầu sang bầu TB X Chiều cao cây (cm) Không xử lý 72,7ab 71,5 c 72,2b Có xử lý 73,7a 72,4 bc 73,0a Trung bình S 73,2a 72,0b Đường kính gốc (mm) Không xử lý 10,6 b 9,4 d 10,0b Có xử lý 11,1a 9,8 c 10,4a Trung bình S 10,9a 9,6b Số cặp cành/cây (cặp) Không xử lý 1,5ab 1,1 c 1,3ns Có xử lý 1,8a 1,3 bc 1,5ns Trung bình S 1,7a 1,2b Chiều dài rễ cọc (cm) Không xử lý 32,6 33,0 32,9ns Có xử lý 33,2 33,0 32,9ns Trung bình S 33,0ns 33,0ns Khối lượng rễ (g) Không xử lý 25,1ab 23,6 c 24,29b Có xử lý 26,9a 24,2 bc 25,49a Trung bình S 26,0a 23,9b Có sự tương tác giữa các công thức sang bầu, không sang bầu với xử lý bệnh và không xử lý bệnh. Cây cắm trực tiếp vào bầu lớn kết hợp với xử lý tuyến trùng và nấm định kỳ sẽ có các chỉ tiêu sinh trưởng và khối lượng rễ cao hơn có ý nghĩa so với công thức sang bầu và không xử lý bệnh. Bảng 7. Mức độ nhiễm bệnh và tỷ lệ cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn Công thức CSB Mức độ nhiễm TL cây đạt TC xuất vườn (%) S1X1 - không sang bầu, không xử lý 11,67 Nhiễm TB 95,0 S1X2 - không sang bầu, xử lý Trichosan 0 Không nhiễm 100 S2X1 - sang bầu, không xử lý 13,33 Nhiễm TB 93,6 S2X2 - sang bầu, xử lý Trichosan 0 Không nhiễm 98,7 98 Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019 Trước khi xuất vườn, ở các công thức không xử lý bệnh đều bị nhiễm bệnh ở mức nhẹ đến trung bình. Đặc biệt, ở công thức sang bầu và không xử lý bệnh có chỉ số bệnh khá cao (13,33) và ở công thức này có tỷ lệ cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn thấp nhất (93,6%). Trong khi đó công thức không sang bầu, xử lý bệnh tỷ lệ cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn là 100%. Điều này cho thấy nền vườn ươm đã bị nhiễm bệnh, do đó trong giai đoạn vườn ươm cần phải tưới định kỳ 2 tháng/lần các loại chế phẩm sinh học để hạn chế sự xâm nhiễm của các loại tuyến trùng và nấm gây hại, làm tăng tỷ lệ cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn. IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 4.1. Kết luận Đất phơi nắng + tủ PE trong mùa khô nhiệt độ tăng không đạt 600C trong thời gian dài để tiêu diệt tuyến trùng ở trong đất, vì vậy sau khi cắm cây vào bầu cần phải xử lý các loại chế phẩm sinh học định kỳ để ngăn chặn sự phát sinh của tuyến trùng. Việc lót nền bằng nilon sẽ ngăn chặn được sự xâm nhiễm của tuyến trùng nhưng không triệt để. Xử lý chế phẩm sinh học định kỳ 2 tháng/lần giúp hạn chế sự xâm nhiễm của tuyến trùng và nấm gây hại cây cà phê trong giai đoạn vườn ươm, làm tăng tỷ lệ cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn. Cây cắm trực tiếp vào bầu lớn để lưu vườn 2 năm có khả năng sinh trưởng và bộ rễ phát triển tốt hơn so với cây sang bầu. 4.2. Đề nghị Cần phải xử lý đất vào bằng biện pháp tủ phơi nắng + tủ PE, các loại chế phẩm sinh học trong thành phần có Peacilomyces lilacinus, Trichoderma hazianum, Trichoderma viride, Chitosan, Abamectin kết hợp với việc tưới định kỳ 2 tháng/lần đối với cây con trong vườn ươm để ngăn chặn sự phát triển và xâm nhiễm của tuyến trùng. Có những thí nghiệm về xử lý giá thể và phòng trừ bệnh trong vườn ươm chặt chẽ hơn để xây dựng và ban hành quy trình sản xuất cây giống sạch bệnh. Hình 1. Rễ cây con của công thức đối chứng, công thức phơi nắng + tủ PE và xử lý Điền Trang - NEMA TÀI LIỆU THAM KHẢO Chế Thị Đa, Nguyễn Thị Thanh Mai, Trần Kim Loang, Trần Anh Hùng, Trịnh Xuân Hồng, Lê Đăng Khoa, Nông Khánh Nương, Nguyễn Đình Thoảng, Nguyễn Thị Thiên Trang, 2012. Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật tổng hợp trong tái canh cà phê vối ở Tây Nguyên. Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ (giai đoạn 2009 - 2012). 131 trang. Trần Kim Loang, 2002. Nghiên cứu một số nguyên nhân gây hiện tượng vàng lá, thối rễ trên cà phê vối (Coffea canephora P. ex Fr.) tại Đắk Lắk và khả năng phòng trừ. Luận án tiến sỹ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội, 136 trang. Trịnh Quang Pháp và Nguyễn Ngọc Châu, 2004. Bước đầu xác định ngưỡng chống chịu của cà phê chè đối với tuyến trùng Pratylenchus coffeae trong điều kiện nhà kính. Hội thảo quốc gia bệnh cây và sinh học phân tử lần thứ 4 - Đại học Cần Thơ ngày 29 tháng 10 năm 2004, trang 86-100. Nguyễn Văn Tuất, Trương Hồng, Nguyễn Văn Viết, Phạm Thị Vượng, Nguyễn Thị Thanh Mai, Nguyễn Xuân Hòa, Hồ Công Trực, Nguyễn Văn Liêm, Nguyễn Tiến Quân, 2017. Nghiên cứu nguyên nhân chính gây chết cà phê tái canh và đề xuất giải pháp khắc phục. Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ (giai đoạn 2014 - 2017). 170 trang. Nguyễn Văn Tuất, Nguyễn Văn Viết, Trương Hồng, Phạm Thị Vượng, Nguyễn Thị Thanh Mai, 2016. Nguyên nhân gây vàng lá chết cây và một số giải pháp tái canh cà phê bền vững ở Tây Nguyên. Hội thảo quốc gia bệnh hại thực vật Việt Nam lần thứ 15 tại Trường Đại học Cần Thơ ngày 21 - 23 tháng 7 năm 2016, trang 86-100.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_mot_so_bien_phap_xu_ly_cay_con_trong_giai_doan_vu.pdf