Có 47,06% chó đã được tiêm phòng 1 mũi
vẫn mắc bệnh, theo chúng tôi có thể do tiêm
phòng chưa đúng cách, hoặc do người nuôi tiêm
phòng không đầy đủ cho chó, do tiêm phòng
không đúng quy trình, do bảo quản vắc xin không
đúng cách làm mất hiệu lực của vắc xin, do sức
đề kháng của từng cá thể chó khác nhau, do chế
độ chăm sóc nuôi dưỡng của chủ vật nuôi. Đồng
thời có một số người nuôi không mang chó đến
tiêm ở các cơ sở thú y mà tự mua vắc xin về tiêm
cho chó, do vậy có thể vắc xin đã không được bảo
quản tốt nên không có hiệu lực.
Đối với những chó đã được tiêm phòng
vacxin 2 mũi vẫn mắc bệnh với tỷ lệ 1,59% có
thể do những nguyên nhân như tiêm phòng 1
mũi (tiêm chưa đúng cách, tiêm phòng không
đúng quy trình, do bảo quản vacxin không đúng
làm mất hiệu lực của vacxin, do sức đề kháng
của từng cá thể chó khác nhau, do chế độ chăm
sóc nuôi dưỡng. Thậm chí có một số người chủ
không mang chó đến tiêm phòng ở các cơ sở
thú y mà tự mua vacxin về tiêm cho chó. Ngoài
ra còn do cơ địa sản sinh miễn dịch của từng cá
thể. Do vậy vẫn còn một tỷ lệ nhất định khi chó
tiêm vắc xin vẫn không được bảo hộ.
Kết quả khảo sát cho thấy tiêm phòng vacxin
có hiệu quả, đối với những chó đã được tiêm
phòng vacxin nguy cơ mắc bệnh thấp hơn. Tuy
nhiên việc tiêm phòng vacxin không phải là an
toàn tuyệt đối.
Vì vậy, tiêm phòng vacxin cho chó rất quan
trọng, bên cạnh đó cần chú ý đến cách sử dụng,
bảo quản vacxin và cách chăm sóc nuôi dưỡng
để việc tiêm phòng đạt hiệu quả cao hơn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ ở chó mắc bệnh Parvo tại bệnh xá thú y, trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
40
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
NGHIEÂN CÖÙU MOÄT SOÁ ÑAËC ÑIEÅM DÒCH TEÃ ÔÛ CHOÙ MAÉC BEÄNH PARVO
TAÏI BEÄNH XAÙ THUÙ Y, TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NOÂNG LAÂM THAÙI NGUYEÂN
Phan Thị Hồng Phúc, Nguyễn Văn Lương,
Lê Thị Khánh Hòa, La Văn Công
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
TÓM TẮT
Kết quả kiểm tra 946 con chó đến khám và chữa bệnh tại Bệnh xá Thú y, Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên cho thấy có 318 con dương tính với Parvovirus, chiếm 33,62% với các
triệu chứng lâm sàng điển hình như: nôn mửa, mệt mỏi, bỏ ăn, tiêu chảy phân lẫn máu mùi tanh.
Trong tổng số 318 con chó mắc bệnh Parvo, có 127 con chết sau khi khám và điều trị, chiếm
39,94%. Giống chó nhập nội có tỷ lệ nhiễm bệnh Parvo cao nhất, chiếm 39,90%, tỷ lệ này thấp
nhất là ở giống chó nội (17,19%). Chó ở độ tuổi từ 2 - 6 tháng tuổi có tỷ lệ mắc bệnh Parvo cao
nhất (48,95%), thấp nhất ở chó trên 12 tháng tuổi (4,96%). Tỷ lệ chó mắc bệnh Parvo không phụ
thuộc vào tính biệt. Chó chưa được tiêm phòng vacxin có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn chó đã được
tiêm phòng vacxin.
Từ khóa: Chó, Parvovirus, triệu chứng, tỷ lệ nhiễm bệnh, tỉnh Thái Nguyên.
Study on some epidemiological characteristics of Parvovirus infection in
dogs at Veterinary Clinic, Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry
Phan Thi Hong Phuc, Nguyen Van Luong,
Le Thi Khanh Hoa, La Van Cong
SUMMARY
The result of testing 946 dogs at the Veterinary Clinic, Thai Nguyen University of
Agriculture and Forestry showed that there were 318 cases infected with Parvovirus,
accounting for 33.62% with the typical symptoms, such as: vomiting, tiredness, loss of
appetite and bloody diarrhea. There were 127 dogs out of 138 disease dogs died after
examination and treatment, accounting for 39.94%. The rate of the exotic dog breeds
infecting with parvo disease was the highest (39.90%), the infection rate of the indigenous
dog breeds was the lowest (17.19%). The dogs at 2-6 months old were infected with the
highest rate (48.95%); the dogs at over 12 months old were infected with the lowest rate
(4.96%). The parvo disease infection rate was not different between the male and female
dogs. The parvo disease infection rate of the un-vaccinated dogs was higher than that of
the vaccinated dogs.
Keywords: Dogs, Parvovirus, symptoms, infection rate, Thai Nguyen province.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm gần đây, nền kinh tế của tỉnh
Thái Nguyên ngày càng phát triển, đời sống dân
trí được nâng cao và cải thiện, do vậy việc nuôi
chó làm cảnh, làm kinh tế, giữ nhà được nhiều
hộ gia đình quan tâm. Nhiều giống chó ngoại
quý hiếm được nhập về làm phong phú thêm số
lượng và chủng loại chó. Song, chó là loài động
vật rất mẫn cảm với các tác nhân gây bệnh. Bệnh
truyền nhiễm, bệnh do ký sinh trùng, nội khoa
đã và đang làm chết nhiều chó ở Thái Nguyên,
gây tổn hại về tinh thần, thiệt hại kinh tế cho
nhiều hộ chăn nuôi, đặc biệt là các hộ chăn nuôi
41
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
những giống chó quý hiếm. Một trong những
bệnh truyền nhiễm gây thiệt hại cho người nuôi
chó phải kể đến bệnh do Parvovirus gây nên với
các biểu hiện như: nôn mửa, mệt mỏi, bỏ ăn, tiêu
chảy, ỉa ra máu mùi tanh, tỷ lệ chết rất cao. Xuất
phát từ nhu cầu cấp thiết của thực tế trên, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu một đặc điểm dịch tễ ở
chó mắc bệnh Parvo đến khám và chữa bệnh tại
Bệnh xá Thú y, khoa Chăn nuôi-Thú y, Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, từ đó đưa các
khuyến cáo trong phòng và trị bệnh, góp phần
giảm thiểu thiệt hại cho người chăn nuôi.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu: Bệnh xá Thú y, Khoa
Chăn nuôi-Thú y, Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái
Nguyên.
Thời gian nghiên cứu: tháng 1/2019 - 6/2019.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh Parvo trên chó đến khám và điều trị tại
Bệnh xá Thú y, Khoa Chăn nuôi-Thú y, Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, thành phố
Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết ở
chó mắc bệnh Parvo
- Nghiên cứu tỷ lệ mắc bệnh Parvo ở chó
theo nhóm giống chó, theo lứa tuổi, tính biệt.
- Xác định tỷ lệ mắc bệnh giữa chó đã
được tiêm phòng và chưa được tiêm phòng
vacxin.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
- Theo dõi và thu thập thông tin: theo dõi và
ghi chép đầy đủ các thông tin cần nghiên cứu
vào sổ khám bệnh bao gồm mã hiệu, giống chó,
nguồn gốc, tính biệt, độ tuổi, thời gian thăm
khám và địa điểm nuôi của các chó nghi mắc
bệnh Parvo. Toàn bộ số liệu được cập nhật vào
phần mềm quản lý của Bệnh xá.
- Xác định bệnh bằng bộ test Parvo virus bao
gồm: 1 tăm bông, 1 ống dung dịch test, 1 ống
hút, 1 que test.
Cách làm như sau: lấy tăm bông cho vào
hậu môn của chó ngoáy vào sâu, sau đó cho vào
ống dung dịch, vê tăm bông làm cho mầm bệnh
hòa vào dung dịch, làm liên tục 3 lần, sau đó
lấy ống hút, hút dung dịch nhỏ vào que test, chờ
15 phút, nếu một vạch là âm tính, nếu 2 vạch là
dương tính.
2.5. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được được xử lý theo
phương pháp thống kê sinh học, theo tài liệu của
Nguyễn Xuân Trạch và Đỗ Đức Lực (2016)[9]
và phần mềm Microsoft Excel 2010.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả chẩn đoán bệnh Parvo ở chó đến
khám và chữa bệnh tại Bệnh xá Thú y
Để biết được tình hình mắc bệnh Parvo trên
chó ở một số huyện, thành tại thành phố Thái
Nguyên đến khám và chữa bệnh tại Bệnh xá
Thú y, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,
trong quá trình nghiên cứu từ tháng 1/2019 đến
tháng 6/2019, chúng tôi đã tiến hành dùng bộ
test Parvo để chẩn đoán bệnh cho chó, kết quả
được trình bày qua bảng 1.
Kết quả bảng 1 cho thấy, trong 946 chó đến
khám và chữa bệnh tại Bệnh xá Thú y, Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, có 318 chó
dương tính với Parvo, chiếm tỷ lệ 33,62%. Chó
có những biểu hiện triệu chứng lâm sàng điển
hình như: nôn mửa, mệt mỏi, bỏ ăn, tiêu chảy sau
đó ỉa ra máu mùi tanh. Tỷ lệ mắc bệnh ở thành
phố Sông Công là cao nhất (40,59%), điều này
có thể là do Sông Công là thành phố mới được
thành lập, điều kiện sống của người dân cũng dần
được nâng lên, nhu cầu nuôi thú cảnh cũng được
người dân chú ý hơn, do mới nuôi kinh nghiệm
chưa có nhiều nên việc chăm sóc nuôi dưỡng và
42
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
tiêm phòng vacxin cho chó còn hạn chế, vì vậy
tỷ lệ mắc bệnh cao. Nghiên cứu về tình hình mắc
bệnh Parvo trên chó, Chollom và cs. (2013)[1]
cho biết, chó bị nhiễm Parvovirus tại Nigeria là
40,00%; nghiên cứu của Cságola và cs. (2014)
[2] tại Hungary là 84,00%; kết quả nghiên cứu
tại các tỉnh thành khác của Việt Nam cho thấy:
chó nhiễm Parvo tại Thành phố Hồ Chí Minh là
43,30% (Nguyễn Văn Dũng và cs. (2018)[3]),
tại thành phố Cần Thơ là 44,03% (Nguyễn Thị
Yến Mai và cs. (2018)[4]). Kết quả chẩn đoán
bệnh do Parvovirus gây ra trên chó của chúng
tôi thấp hơn các tác giả nghiên cứu trước đó có
thể do thực tế nhu cầu nuôi thú cưng của người
dân tại địa điểm nghiên cứu ngày càng cao nên
việc chăm sóc nuôi dưỡng và phòng bệnh cho
chó được tốt hơn nên tỷ lệ nhiễm bệnh thấp hơn.
3.2. Tỷ lệ chó chết do mắc bệnh Parvo
Bảng 1. Kết quả chẩn đoán chó mắc bệnh Parvo
STT Địa điểm(thành phố/huyện)
Tổng số chó đến khám
(con)
Số chó mắc Parvo
(con) Tỷ lệ (%)
1 Thái Nguyên 570 189 33,16
2 Sông Công 101 41 40,59
3 Phổ Yên 89 32 35,96
4 Đại Từ 125 37 29,60
5 Định Hóa 61 19 31,15
Tính chung 946 318 33,62
Bảng 2. Tỷ lệ chó mắc bệnh và chết do bệnh Parvo
STT Địa điểm(thành phố/huyện)
Số chó mắc bệnh
(con)
Số chó mắc bệnh chết
(con)
Tỷ lệ chết
(%)
1 Thái Nguyên 189 85 44,97
2 Sông Công 41 16 39,02
3 Phổ Yên 32 10 31,25
4 Đại Từ 37 11 29,73
5 Định Hóa 19 5 26,32
Tính chung 318 127 39,94
Kết quả ở bảng 2 cho thấy, trong tổng số 318
chó mắc bệnh Parvo, có 127 chó chết, chiếm tỷ
lệ 39,94%. Như vậy, tỷ lệ chó bị chết do mắc
bệnh Parvo là khá cao. Sở dĩ tỷ lệ chó mắc bệnh
và chết cao như vậy là do ở Thái Nguyên, nhiều
hộ nuôi chó chưa thật sự hiểu về tác hại của
bệnh truyền nhiễm, khi nào cần tiêm phòng và
tiêm ở đâu, khi chó bị bệnh mang đến khám và
nhờ tư vấn của bác sỹ thú y thì mới hiểu được sự
nguy hiểm của bệnh. Quá trình nuôi chó người
dân thường chỉ tiêm phòng dại, ít tiêm phòng
các bệnh khác dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh và chết
cao. Mặt khác khi chó mới mắc bệnh, chủ nuôi
chó thường tự chữa, khi bệnh nặng mới mang
đến phòng khám, do vậy chủ nuôi chó thường
mang đến muộn, khi mang đến bệnh đã ở tình
trạng rất nặng như: con vật gầy dộc, sốt cao, nôn
nhiều, phân nước lẫn máu mùi tanh khắm,... Do
vậy việc cứu chữa gặp rất nhiều khó khăn, dẫn
đến tỷ lệ chết cao.
43
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
3.3. Tỷ lệ chó mắc bệnh Parvo theo giống
Người chăn nuôi chó ở Thái Nguyên có
sở thích rất đa dạng, đặc biệt là với chó cảnh.
Mỗi giống chó có những đặc tính ưu việt riêng.
Những giống chó có thể vóc nhỏ như Fox,
Chihuahua, Bắc Kinh, Boxer thông minh,
rất tình cảm, tiêu tốn ít thức ăn, đặc biệt các
giống chó này sạch sẽ và ít gây ô nhiễm môi
trường. Những giống chó ngoại lớn như Béc
giê, Rottweiler, Doberman, Greatdanethường
được huấn luyện làm vệ sĩ bảo vệ chủ, trông giữ
nhà cửa rất tốt.
Mỗi giống chó do có nguồn gốc xuất xứ và
đặc điểm khác nhau nên sức đề kháng cũng khác
nhau, vì thế nguy cơ nhiễm bệnh cũng khác nhau.
Để khái quát chung về tỷ lệ nhiễm Parvo, chúng
tôi đã chia thành 3 nhóm: chó nội, chó nhập nội,
chó lai. Kết quả được trình bày ở bảng 3.
Bảng 3. Tỷ lệ chó mắc bệnh Parvo theo giống
GIống chó Số chó theo dõi (con)
Số chó mắc bệnh Parvo
(con) Tỷ lệ (%)
Nội 192 33 17,19
Nhập nội 619 247 39,90
Lai 135 38 28,15
Tính chung 946 318 33,62
Bảng 4. Tỷ lệ chó mắc bệnh Parvo theo lứa tuổi
Tuổi (tháng) Số chó theo dõi (con) Số chó mắc bệnh Parvo (con) Tỷ lệ (%)
≤ 2 156 27 17,31
> 2 - 6 429 210 48,95
> 6 -12 240 75 31,25
> 12 121 6 4,96
Tính chung 946 318 33,62
Qua bảng 3 cho thấy, với các giống chó được
đưa đến khám và điều trị tại Bệnh xá Thú y,
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, giống
chó nhập nội mắc Parvo cao nhất, chiếm tỷ lệ
39,90%, sau đó là giống chó lai chiếm 28,15%
và thấp nhất là giống chó nội 17,19%. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Tattersall và Cotmore (1990)[8].
Sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt thống
kê do số lượng chó ngoại đem đến khám nhiều
hơn, bởi nhu cầu nuôi chó ở thành phố đa phần
là nhóm chó cảnh.
Theo McCandlish (1998)[5], tất cả các giống
chó đều có nguy cơ nhiễm bệnh do Parvovirus
gây ra nhưng mức độ bệnh trầm trọng khiến chó
mau suy kiệt nhất dễ xảy ra ở các giống chó
ngoại như: Rottweiler và Dobermans.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi thấy
rằng: tỷ lệ chó ngoại bị bệnh Parvo cao hơn chó
nội. Do chó nội thích nghi với điều kiện khí hậu
trong nước tốt hơn so với chó ngoại nên sức đề
kháng cao hơn, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn.
3.4. Tỷ lệ chó mắc bệnh Parvo theo lứa tuổi
Bảng 4 cho thấy có sự khác nhau về tỷ lệ
mắc bệnh ở các lứa tuổi (P < 0,05). Chó ở độ
tuổi từ 2 - 6 tháng tuổi có tỷ lệ mắc bệnh Parvo
cao nhất (48,95%), thấp nhất ở chó trên 12
44
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
tháng tuổi (4,96%), chó từ 6 - 12 tháng tuổi tỷ
lệ mắc bệnh là 31,25%, chó dưới 2 tháng tuổi tỷ
lệ mắc bệnh là 17,31%. Nguyên nhân chó dưới
2 tháng tuổi có tỷ lệ mắc bệnh thấp là do chó
con thu được miễn dịch thụ động tự nhiên từ
chó mẹ thông qua sữa đầu (miễn dịch của chó
mẹ có được thông qua cảm thụ từ tự nhiên hoặc
do được tiêm phòng). Tuy vậy, vẫn có một tỷ lệ
nhất định chó mắc bệnh là do chó con sinh ra
nhưng vì lí do nào đó mà chúng không được bú
sữa đầu; chó con thu được miễn dịch thụ động
tự nhiên qua sữa đầu nhưng lượng kháng thể này
giảm dần hoặc không đủ khả năng phòng bệnh.
Những chó ở giai đoạn từ 2 đến 6 tháng tuổi
tỷ lệ nghi mắc bệnh Parvo cao nhất (48,95%) do
trong giai đoạn này chó sinh trưởng phát triển
nhanh nên năng lượng hầu hết phục vụ cho quá
trình sinh trưởng, gây ảnh hưởng đến sức đề
kháng của con vật, hệ thống miễn dịch của chó
chưa hoàn thiện, sinh lý của con vật thay đổi,
chó nhạy cảm với sự thay đổi của các yếu tố môi
trường, sự cai sữa tập quen dần với thức ăn và
đặc biệt hàm lượng kháng thể thụ động giảm...
Vì vậy, khi Parvovirus xâm nhập vào cơ thể, hệ
thống miễn dịch của cơ thể không đủ khả năng
sản sinh ra kháng thể chống lại tác nhân gây bệnh.
Giai đoạn chó từ 6 - 12 tháng tuổi là giai
đoạn trưởng thành về mặt sinh trưởng và phát
triển. Tuy nhiên, khả năng đáp ứng miễn dịch
của chó trong giai đoạn này chưa cao. Đối với
những chó đã được tiêm phòng thì đủ khả năng
bảo hộ với bệnh. Tuy nhiên những con không
được tiêm phòng hoặc tiêm phòng không đúng
thời điểm là nguyên nhân xảy ra bệnh Parvo trên
chó. Vì vậy, tỷ lệ mắc bệnh của chó ở giai đoạn
này cũng tương đối cao (31,25%).
Chó trên 12 tháng tuổi tỷ lệ mắc bệnh thấp vì
ở giai đoạn này chó đã trưởng thành và đã dần
thích nghi với môi trường, điều kiện nuôi dưỡng
nên sức đề kháng với bệnh cao.
Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi
phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị
Quyên và cs. (2018)[7], tỷ lệ nhiễm bệnh Parvo
cao nhất ở giai đoạn từ 2 - 6 tháng tuổi (51,35%)
và thấp nhất là trên 12 tháng tuổi (8,11%).
Theo Trần Thanh Phong (1996)[6], về mặt lâm
sàng, bệnh viêm ruột do Parvovirus gây ra ít khi xảy
ra ở chó trưởng thành, khỏe mạnh trên 1 năm tuổi
và chó con dưới 1 tháng tuổi. Vì cả hai giai đoạn
này, sự nhân lên của tế bào biểu mô hốc thấp, đồng
thời kháng thể thụ động mẹ truyền còn cao. Đặc biệt
đối với chó ở giai đoạn >2 tháng tuổi là mẫn cảm
nhất vì lúc này kháng thể do mẹ truyền sang qua sữa
đầu đã bắt đầu giảm dần hoặc do chó mẹ không có
miễn dịch trong thời gian nuôi con, những kháng
thể này sẽ được loại thải hết trong khoảng 6-10 tuần
tuổi, lúc này chó dễ cảm thụ bệnh nhất.
3.5. Tỷ lệ chó mắc bệnh Parvo theo tính biệt
Bảng 5. Tỷ lệ chó mắc bệnh Parvo theo tính biệt
Tính biệt Số chó theo dõi (con) Số chó mắc bệnh Parvo (con) Tỷ lệ (%)
Đực 512 182 35,55
Cái 434 136 33,62
Tính chung 946 318 33,62
Kết quả bảng 5 cho thấy: tỷ lệ chó mắc bệnh
Parvo theo tính biệt có sự khác nhau không đáng
kể. Trong tổng số 946 chó theo dõi, có 182/512
chó đực mắc bệnh Parvo, chiếm 35,55% và
136/434 chó cái mắc bệnh Parvo, chiếm 31,34%.
Như vậy, tính biệt không ảnh hưởng rõ rệt tới
nguy cơ mắc bệnh Parvo ở chó.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp
với nghiên cứu của Nguyễn Văn Dũng và cs.
(2018)[3], giới tính không ảnh hưởng tới tỷ lệ
nhiễm bệnh do Parvovirus ở chó.
45
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
3.6. Tỷ lệ chó mắc bệnh Parvo ở chó được tiêm phòng và chó chưa tiêm phòng
Bảng 6. Tỷ lệ chó mắc bệnh Parvo ở chó được tiêm phòng và chó chưa tiêm phòng
Số mũi tiêm vacxin Parvo Số chó khảo sát (con)
Số chó mắc bệnh Parvo
(con) Tỷ lệ (%)
Chưa tiêm vacxin 390 286 73,33
Đã được tiêm 1 mũi vacxin Parvo 51 24 47,06
Đã được tiêm 2 mũi vacxin Parvo 505 8 1,59
Tính chung 946 318 33,62
Kết quả bảng 6 cho thấy sự khác biệt về tỷ
lệ mắc bệnh giữa chó đã được tiêm phòng và
chó chưa được tiêm phòng (P<0,05), chó chưa
được tiêm phòng vacxin có tỷ lệ mắc bệnh cao
(73,33%). Chó được tiêm phòng vacxin 1 mũi có
tỷ lệ mắc bệnh là 47,06%, chó được tiêm phòng
vacxin 2 mũi có tỷ lệ mắc bệnh thấp (1,59%). Kết
quả trên cho thấy việc phòng bệnh bằng vacxin
có hiệu quả tích cực trong việc làm giảm khả
năng nhiễm Parvovirus (McCandlish, 1998)[5].
Qua khảo sát, chúng tôi thấy hầu hết những
chó đến khám ở phòng khám đều chưa được tiêm
phòng vacxin hoặc tiêm phòng vacxin không đầy
đủ. Điều này cho thấy ý thức phòng bệnh của
người nuôi chó chưa cao. Bên cạnh đó có nhiều
chủ nuôi coi chó là thú cưng trong nhà, được nuôi
và chăm sóc rất cẩn thận. Họ nghĩ rằng: chó được
nuôi trong môi trường an toàn không tiếp xúc
với mầm bệnh bên ngoài sẽ không mắc bệnh nên
không cần phải tiêm phòng.
Có 47,06% chó đã được tiêm phòng 1 mũi
vẫn mắc bệnh, theo chúng tôi có thể do tiêm
phòng chưa đúng cách, hoặc do người nuôi tiêm
phòng không đầy đủ cho chó, do tiêm phòng
không đúng quy trình, do bảo quản vắc xin không
đúng cách làm mất hiệu lực của vắc xin, do sức
đề kháng của từng cá thể chó khác nhau, do chế
độ chăm sóc nuôi dưỡng của chủ vật nuôi. Đồng
thời có một số người nuôi không mang chó đến
tiêm ở các cơ sở thú y mà tự mua vắc xin về tiêm
cho chó, do vậy có thể vắc xin đã không được bảo
quản tốt nên không có hiệu lực.
Đối với những chó đã được tiêm phòng
vacxin 2 mũi vẫn mắc bệnh với tỷ lệ 1,59% có
thể do những nguyên nhân như tiêm phòng 1
mũi (tiêm chưa đúng cách, tiêm phòng không
đúng quy trình, do bảo quản vacxin không đúng
làm mất hiệu lực của vacxin, do sức đề kháng
của từng cá thể chó khác nhau, do chế độ chăm
sóc nuôi dưỡng. Thậm chí có một số người chủ
không mang chó đến tiêm phòng ở các cơ sở
thú y mà tự mua vacxin về tiêm cho chó. Ngoài
ra còn do cơ địa sản sinh miễn dịch của từng cá
thể. Do vậy vẫn còn một tỷ lệ nhất định khi chó
tiêm vắc xin vẫn không được bảo hộ.
Kết quả khảo sát cho thấy tiêm phòng vacxin
có hiệu quả, đối với những chó đã được tiêm
phòng vacxin nguy cơ mắc bệnh thấp hơn. Tuy
nhiên việc tiêm phòng vacxin không phải là an
toàn tuyệt đối.
Vì vậy, tiêm phòng vacxin cho chó rất quan
trọng, bên cạnh đó cần chú ý đến cách sử dụng,
bảo quản vacxin và cách chăm sóc nuôi dưỡng
để việc tiêm phòng đạt hiệu quả cao hơn.
IV. KẾT LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu thu được,
chúng tôi có một số kết luận như sau:
Trong tổng số 946 chó đến khám và chữa bệnh
tại Bệnh xá Thú y, Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, có 318 chó dương tính với Parvovirus,
chiếm 33,62% với những biểu hiện triệu chứng
lâm sàng điển hình như: nôn mửa, mệt mỏi, bỏ ăn,
tiêu chảy sau đó ỉa ra máu mùi tanh.
46
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 8 - 2019
Trong tổng số 318 chó mắc bệnh Parvo có
127 con chết, chiếm 39,94%. Như vậy, tỷ lệ chó
bị chết do mắc bệnh Parvo là khá cao.
Giống chó nhập nội có tỷ lệ nhiễm bệnh
Parvo cao nhất, chiếm 39,90%, thấp nhất là
giống chó nội (17,19%).
Chó ở độ tuổi từ 2 - 6 tháng tuổi có tỷ lệ mắc
bệnh Parvo cao nhất (48,95%), thấp nhất ở chó
trên 12 tháng tuổi (4,96%).
Tỷ lệ chó mắc bệnh Parvo theo tính biệt có
sự khác nhau không đáng kể, có 35,55% số chó
đực mắc bệnh Parvo và 31,34% số chó cái mắc
bệnh Parvo.
Chó chưa được tiêm phòng vacxin có tỷ lệ
mắc bệnh cao hơn chó được tiêm phòng vacxin.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chollom, S.C., Fyaktu, E.J., Okwori, A.E.J.
et al., 2013. Molecular detection of canine
Parvovirus in Jos, Nigeria, Veterinary
Medicine and Animal Health 5: 57-59
2. Cságola, A., Varga, S., Lőrincz, M. and
Tuboly, T., 2014. Analysis of the full
length VP2 protein of canine Parvoviruses
circulating in Hungary. Archives of Virology,
159(9): 2441-2444.
3. Nguyễn Văn Dũng, Phạm Xuân Thảo, Vũ
Kim Chiến, Ken Maeda, 2018. Dịch tễ học
phân tử Parvovirus trên chó nuôi tại Thành
phố Hồ Chí Minh. Chi cục Thú y Thành phố
Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Thị Yến Mai, Trần Ngọc Bích và
Trần Văn Thanh 2018. Khảo sát tình hình
bệnh do Parvovirus trên chó tại Bệnh xá thú
y, Trường Đại học Cần Thơ. Tạp chí khoa
học kỹ thuật thú y, 4: 36-41.
5. McCandlish, I.A., 1998. Canine Parvovirus
infection. In: NeilT. German, Canine
Medicine and Therapeutics, Fourth edition,
BlackwellScience, pp.127-130.
6. Trần Thanh Phong, 1996. Một số bệnh
truyền nhiễm chính trên chó, Đại Học Nông
Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Tủ sách
Trường Đại học Nông Lâm, 69-79.
7. Nguyễn Thị Quyên, Bùi Thị Hải Yến, Hoàng
Thị Phương Thúy, Bùi Thị Sao Mai, 2018.
Một số đặc điểm bệnh viêm ruột truyền
nhiễm do Parvovirus gây ra trên chó và thử
nghiệm điều trị. Tạp chí khoa học kỹ thuật
thú y, 8: 35-40.
8. Tattersall P, Cotmore S.P., 1990. Handbook
of Parvoviruses, 1st ed (Edited by Tijssen P),
pp. 40-123.
9. Nguyễn Xuân Trạch và Đỗ Đức Lực, 2016.
Giáo trình phân tích số liệu thí nghiệm và
công bố kết quả nghiên cứu chăn nuôi, Nhà
xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.
Ngày nhận 28-9-2019
Ngày phản biện 14-10-2019
Ngày đăng 1-12-2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_mot_so_dac_diem_dich_te_o_cho_mac_benh_parvo_tai.pdf