Nét đặc trng nhất của nền y tế theo cơ chế
thị trờng có định hớng xã hội chủ nghĩa
chính là sự thống nhất giữa hai mặt “công
bằng” và “hiệu quả” trong các chính sách xã
hội về chăm sóc sức khoẻ. Hai mặt này song
song tồn tại, nơng tựa vào nhau và hỗ trợ lẫn
nhau trong quá trình phát triển của chính sách
xã hội. Một nền y tế đợc coi là đạt đến công
bằng nhng lại kém hiệu quả thì công bằng đó
chỉ là hình thức. Chẳng hạn việc đa bác sỹ về
trạm y tế xã nhằm nâng cao chất lợng các dịch
vụ y tế tuyến cơ sở, giúp đa số nhân dân nhất là
nông dân đợc tiếp cận với các dịch vụ y tế có
chất lợng, góp phần thực hiện công bằng trong
chăm sóc sức khoẻ. Nhng nếu bác sỹ đó lại yếu
kém về chuyên môn, chất lợng dịch vụ y tế
không đợc cải thiện, tức là y tế cơ sở kém hiệu
quả về khám chữa bệnh, thì công bằng đó cũng
chỉ là hình thức mà thôi. Ngợc lại, một nền y tế
có hiệu quả phải đợc hiểu là hiệu quả theo cả ba
mặt: hiệu quả về khám chữa bệnh và phòng
bệnh, hiệu quả về đầu t nguồn lực và hiệu quả
cả về mặt xã hội nhân văn (tức là tính công
bằng). Nh vậy, công bằng cũng phải đợc xem
nh một trong những tiêu chí của hiệu quả, chứ
không thể chỉ đánh giá hiệu quả bằng tiêu chí
hiệu quả đầu t kinh tế và hiệu quả phòng bệnh,
chữa bệnh đơn thuần. Hiện nay khi đánh giá
hiệu quả của một cơ sở dịch vụ y tế, chúng ta dễ
sa vào cách đánh giá đơn thuần về hiệu quả đầu
t và hiệu quả khám chữa bệnh mà coi nhẹ hiệu
quả về mặt nhân văn của hệ thống y tế, đó là tính
công bằng. Một nền y tế dù cho phát triển kỹ
thuật cao đến mấy, nhng ngời nghèo, ngời
rủi ro về sức khỏe bị những rào cản mà không
tiếp cận đợc và hởng thụ các dịch vụ đó, thì
nền y tế đó cũng không thể xem là đã hiệu quả.
Hơn thế một hệ thống y tế đợc đánh giá là tốt
không chỉ dựa trên những tiêu chí kỹ thuật, chữa
khỏi nhiều bệnh mà còn phải dựa trên những
tiêu chí tài chính: đó là một hệ thống y tế không
làm ngời dân bị nghèo hóa do không vợt qua
nổi những chi phí cao dành cho khám chữa
bệnh. Điều này cũng giống nh trờng hợp:
trớc đây khi đánh giá sự phát triển của một
quốc gia, ngời ta chỉ dựa đơn thuần trên sự tăng
trởng kinh tế ( vì vậy các nớc đợc chia thành
hai loại: đã phát triển và đang phát triển); hiện
nay sự phân loại ấy đã đợc bổ sung bằng cách
dựa trên chỉ số HDI (human development
index). Chỉ số HDI là kết quả tích hợp của các
chỉ số GDP cùng các chỉ số mang tính nhân văn
xã hội (nh tỷ lệ trẻ sống trên 1 tuổi trong 1000
trẻ đẻ ra, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ trẻ em vào học
cấp I đúng độ tuổi, tỷ lệ trẻ bỏ học ở các cấp
học ). Chính vì vậy, công bằng và hiệu quả
phải đi đôi với nhau trong các chính sách xã hội
về y tế.
20 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 13 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu năng lực kiểm dịch y tế của một số cửa khẩu, sân bay, hải cảng chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t kế thủy ngân
hoặc điện tử cho các cửa khẩu. Chỉ có 01/11
TTKDYTQT có đủ bộ lấy bệnh phẩm cho các
cửa khẩu, 03/11 TTKDYTQT có đủ hòm lạnh
giữ mẫu và 02/11 trung tâm đảm bảo được bộ
Test kiểm tra độc chất tại các cửa khẩu. Hầu hết
các cửa khẩu đều không đáp ứng đủ số lượng
TTB theo yêu cầu (bảng 5)
Khoa chưa có TTB gì, chỉ làm 1 số Test nhanh. Bản thân năng lực
cán bộ cũng không thể thực hiện được, mà chỉ lấy mẫu gửi về
TTYTDP tỉnh cách đây 80 Km và từ khi tách trung tâm đến nay
cũng chưa có mẫu XN nào và chưa gửi mẫu nào”
(Quảng Trị)
TT được trang bị máy xét nghiệm thực phẩm và test nhanh thông
thường, các xét nghiệm chuyên sâu thì chúng tôi phải nhờ do bên
TTYTDP làm nhưng cũng không nhiều
(Hải Phòng)
Chúng tôi chưa triển khai được xét nghiệm gì cả vì chưa bố trí được
khoa XN, các trường hợp cần thiết thì gửi sang TTYTDP để làm
nhưng rất ít khi làm.
(Tây Ninh)
Trung tâm chỉ có các máy XN bình thường như máy XN độc tố vi
nấm, máy quang phổ nước, test nhanh là chính chứ không có gì
hiện đại. Máy kiểm tra độc tố cũng ít khi kiểm tra vì hàng hóa nhập
khẩu về không nhiều.
(Lạng Sơn)
Hộp 1
Trung tâm KDYTQT Khoa KDYT
SL Tỷ lệ (%) SL Tỷ lệ (%)
Loại TTB
16
Máy phun hóa chất chạy điện
Máy phun hóa chất cầm tay
Máy phun hóa chất động cơ nổ
Máy bơm phun hóa chất
Dụng cụ bắt muỗi
Dụng cụ bắt chuột
2
2
6
2
0
2
18
18
55
18
0
18
2
2
1
1
0
1
8
8
4
4
0
4
Nghiên cứu về chính sách y tế
Bảng 5: TTB do TTKDYTQT đảm bảo cho các cửa khẩu
Trang thiết bị bảo hộ cho cán bộ kiểm dịch
rất hạn chế và không được đầy đủ, chỉ 01/6
TTKDYTQT có cửa khẩu đường thủy trang bị
đủ á o phao, 01/11 trung tâm có đủ mặt nạ chống
độc và 04/11 trung tâm có đủ quần á o bảo hộ cho
cán bộ kiểm dịch.
Các thiết bị thông tin liên lạc và quản lý thông
tin dữ liệu được cung cấp chưa đầy đủ và đồng
bộ. Chỉ có 2/11 trung tâm có đủ máy bộ đàm, chỉ
có 03/11 TTKDYTQT và 01 khoa KDYT là có
máy fax riêng. Chỉ có 4/11 TTKDYTQT và 5/26
*Nguồn: Cục YTDP 2008
khoa kiểm dịch có đủ lượng máy tính phục vụ
cho quản lý dữ liệu, không có phần mềm chuyên
dụng và thiếu cơ chế chia sẻ dữ liệu thông tin
giữa các đơn vị có liên quan tại cửa khẩu.
3.2. Trình độ và cơ cấu nhân lực kiểm dịch
y tế
Tại các TTKDYTQT, tỉ lệ cán bộ chuyên
môn chiếm 53%, cán bộ làm công tác xét
nghiệm chiếm 9%. Tại các khoa KDYT, cán bộ
kiêm nhiệm chiếm tới 42% (Bảng 6).
Bảng 6: Tình hình nhân lực làm công tác KDYT
Đáp ứng nhu cầu về
số lượng
SL (n = 11)
Tỷ lệ
(%)
Được bảo dưỡng
hàng năm
SL (n = 11)
Tỷ lệ
(%)
Trung tâm KDYTQT Khoa KDYT
Cán bộ làm chuyên môn
Cán bộ làm XN
Cán bộ quản lý, hành chính
Cán bộ kiêm nghiệm
Tổng số cán bộ
199
34
139
3272
Số lượng
Loại TTB
Nhân lực
Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
53
9
38
100
70
51
121
58
42
100
Tình trạng thiếu cán bộ có chuyên môn
nghiệp vụ về kiểm dịch y tế phổ biến ở hầu hết
các tỉnh vì chưa có đào tạo chuyên ngành về
KDYT tại các cơ sở đào tạo. So với Thông tư số
08/2007 thì hiện có 2/11 TTKDYTQT và 14/20
khoa KDYT cơ bản đủ số lượng cán bộ, còn lại
17
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
Nhiệt kế thủy ngân
Nhiệt kế điện
Huyết áp, ống nghe
Máy đo nhiệt độ bằng hồng ngoại
Bộ test kit VSAATP
Bộ test kit kiểm tra chất độc
Bộ lấy mẫu bệnh phẩm
Hòm lạnh giữ mẫu
6
6
8
2
1
2
1
3
55
55
73
18
9
18
9
27
2
2
3
3
2
1
1
2
18
18
27
27
18
9
9
18
trung tâm). Đối với các Khoa/tổ KDYT thì hầu
hết không triển khai đầy đủ các hoạt động
chuyên môn. KDYT với người có 22/26 đơn vị
(84,6%) triển khai. KDYT đối với phương tiện
có 19/26 đơn vị (73%) triển khai. KDYT đối với
hàng hóa có 17/26 đơn vị (65,4%), giám sát
vector có 13/26 đơn vị (50%). Còn lại các nhóm
dịch vụ khác như kiểm dịch bưu phẩm, sản phẩm
y tế, làm xét nghiệm rất ít các đơn vị triển
khai. Riêng tiêm chủng có 6/11TTKDYTQT và
21/26 khoa/tổ KDYT chưa thực hiện (Bảng 7).
không đảm bảo về cơ cấu cán bộ, đặc biệt thiếu
cán bộ làm xét nghiệm. 11 trung tâm chỉ có 290
cán bộ nhưng cần 466 người. Tỷ lệ cán bộ có khả
năng giao tiếp ngoại ngữ đạt yêu cầu (tương
đương bằng C) rất thấp, đạt 2-3%.
3.2. Hoạt động chuyên môn
Một số cửa khẩu thuộc TTKDYTQT chưa
triển khai được hoạt động chuyên môn như kiểm
dịch các sản phẩm y tế và tiêm chủng (06 trung
tâm), bưu phẩm (03 trung tâm), xét nghiệm (02
Bảng 7: Công tác thực hiện kiểm dịch theo cho các đối tượng
Một số hoạt động chuyên môn khác như:
KDYT đối với bưu kiện, bưu phẩm, sản phẩm y
tế, mỹ phẩm, thực phẩm đã chế biến, thực phẩm
xách tay, kể cả đồ tươi sống, sơ chế thực hiện
chưa thường xuyên và tùy thuộc vào nhân lực,
TTB của từng cửa khẩu.
3.2. Công tác phối hợp liên ngành
Trong hoạt động phối hợp liên ngành ở cửa
khẩu hiện nay, các văn bản chỉ đạo còn thiếu
chưa đồng bộ và chồng chéo. Mới chỉ có các văn
bản ký kết giữa các Bộ/Ngành riêng rẽ với nhau
về kiểm soát một số hàng hóa có liên quan. Chưa
có văn bản thống nhất trên toàn quốc quy định
cụ thể nhiệm vụ và cơ chế phối hợp tất cả các
đơn vị tại cửa khẩu. Một số địa phương có văn
bản chỉ đạo của UBND về công tác cửa khẩu dựa
trên Nghị định số 32/2005/NĐ-CP của Chính
phủ về quy chế cửa khẩu biên giới đất liền và
Quyết định số 254/2006/QĐ-TTg về quản lý
hoạt động thương mại biên giới với các nước có
chung biên giới nhưng cũng không quy định rõ
việc phân công phối hợp và trách nhiệm cụ thể
của mỗi ngành.
4. Kết luận:
Qua tìm hiểu và phân tích về thực trạng hoạt
động công tác KDYT có thể rút ra một số kết
luận sau đây:
1. Công tác KDYT hiện nay chưa đáp ứng
đầy đủ yêu cầu ngăn chặn dịch bệnh và các yếu
tố nguy hiểm thâm nhập vào nội địa. Điều này
thể hiện qua số lượng và loại dịch vụ chuyên
môn chưa được thực hiện đầy đủ tại các cửa
khẩu. Nhiều dịch vụ chuyên môn chưa được
triển khai hoặc chưa thực hiện đầy đủ. Các
nguyên nhân chủ yếu là:
- Cơ sở hạ tầng không đảm bảo được với nhu
cầu chuyên môn, không có đủ phương tiện phục
vụ cho yêu cầu công việc.
- TTB y tế, văn phòng không đủ và đáp ứng
với nhu cầu công việc, đặc biệt là TTB phục vụ
cho xét nghiệm, đặc biệt là các xét nghiệm
chuyên ngành, chuyên sâu.
- Nhân lực KDYT thiếu cả về số lượng và
chất lượng, không có cán bộ chuyên ngành
KDYT vì hiện không có ngạch đào tạo tại các cơ
sở đào tạo.
KD
người
Tại TTKDQT
Khoa / Tổ KDYT
5
3
Phương
tiện
Hàng hóa Thi hài Bưu phẩm Sản phẩm
y tế
8
6
11
12
11
17
11
19
11
22
18
Nghiên cứu về chính sách y tế
2. Thiếu các văn bản quy định cụ thể thống
nhất trên toàn quốc về phối hợp và trách nhiệm,
trao đổi, chia sẻ thông tin của các ngành hoạt
động tại cửa khẩu trong việc kiểm soát con
người, phương tiện và hàng hóa.
5. Kiến nghị
1. Cần có sự đầu tư đồng bộ, cơ bản và phù
hợp đối với công tác KDYT bao gồm cơ sở hạ
tầng, TTB tại các cửa khẩu cũng như cơ cấu tổ
chức cụ thể là:
- Xây dựng đề á n quy hoạch mạng lưới KDYT,
trong đó chú trọng tới việc tham khảo mô hình ở
các nước tiên tiến để xây dựng và phát triển một
mô hình phù hợp với Việt Nam, với nguyên tắc
một cơ quan chuyên trách về kiểm dịch, một đầu
mối chịu trách nhiệm về chuyên môn.
- Đưa nội dung đào tạo về kiến thức, kỹ năng
KDYT vào chương trình đào tạo ở các trường
đại học y và cơ sở có chức năng đào tạo.
2. Cần có chính sách và biện pháp tuyển
dụng phù hợp nhằm thu hút cán bộ làm công tác
dự phòng nói chung cũng như đối với riêng cán
bộ làm công tác kiểm dịch y tế, trong đó chú ý
tới xây dựng chế độ chính sách đặc thù và có
tính tới các yếu tố khu vực khó khăn, biên giới,
chế độ trực, làm ngoài giờ...
3. Cần xây dựng các văn bản liên ngành giữa
Y tế và Hải quan và các Bộ, ngành khác có liên
quan để cụ thể hóa các phạm vi thực hiện công
tác chuyên môn đối với các đối tượng kiểm
dịch. Mặt khác cần có quy định của Chính phủ
trong đó yêu cầu nâng cao vai trò của Ban quản
lý cửa khẩu và chính quyền địa phương trong
quản lý các hoạt động ở cửa khẩu.
TàI LIệU THAM KHảO
1. Báo cáo hoạt động kiểm dịch y tế biên giới 2007 - Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế.
2. "Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam với các nước Vương quốc Campuchia, Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Liên bang Mianma, Vương quốc Thái Lan
để tạo thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá và người qua lại biên giới giữa các nước Tiểu vùng Mê
Kông mở rộng" (gọi tắt là Hiệp định GMS) năm 2006.
3. Quyết định số 2331/2004/QĐ-BYT ngày 6/7/2004 về Quy trình kiểm dịch y tế biên giới nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Quyết định số 22/2008/QĐ-BYT về ủy quyền thực hiện chức năng quản lý mỹ phẩm cho ban
quản lý khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài Tây Ninh.
5. Tổ chức Y tế thế giới (2002), Điều lệ Kiểm dịch quốc tế.
6. NXB Y học, Hà Nội. Thông tư số 06/TT/HQ-BĐ về việc kiểm tra hải quan đối với vật phẩm,
hàng hóa xuất nhập khẩu gửi qua bưu điện.
7. Mafart B, Perret JL. (1998), "History of the Concept of Quarantine", Med Trop (Mars), 58 (2
Suppl): 14 - 20.
19
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
ới mục tiêu đánh giá thực trạng tình hình
tử vong mẹ ở Việt Nam làm cơ sở cho V
công tác xây dựng và hoạch định chính sách
trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản, năm
2008, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế đã
phối hợp cùng Vụ Sức khỏe Bà mẹ Trẻ em, Bộ Y
tế tiến hành cuộc điều tra tử vong mẹ giai đoạn
hai năm 2006-2007 với quy mô cỡ mẫu được
tính toán đại diện quốc gia. Đây là nghiên cứu
điều tra cắt ngang. Thông tin được thu thập từ
nhiều nguồn khác nhau (hệ thống báo cáo chính
thức, các số liệu hồi cứu từ các cơ sở y tế công và
tư, thông tin từ cộng đồng, phỏng vấn hộ gia
đình, phỏng vấn cán bộ y tế...). Sử dụng bộ câu
hỏi cấu trúc và đánh giá nhanh được phối hợp để
thu thập thông tin trong quá trình nghiên cứu.
1. Về phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu
Các nguyên tắc chung
- Để đảm bảo cho cuộc điều tra có thể thu
được số liệu ước lượng tỉ số tử vong mẹ đại diện
cho toàn quốc trong điều kiện hạn hẹp của
nguồn lực, nhóm nghiên cứu với sự trợ giúp kỹ
thuật của nhóm chuyên gia Tổ chức Y tế Thế
giới đã áp dụng kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên
hệ thống có phân tầng.
- Thiết kế mẫu cho điều tra này là mẫu hai
tầng, trong đó 10 tỉnh được chọn ngẫu nhiên hệ
thống và các huyện của 10 tỉnh này sẽ được chia
nhóm theo điều kiện địa lý vào 3 chùm: nông
thôn miền núi, nông thôn đồng bằng và thành
thị.
- Theo ý kiến thống nhất của Hội đồng khoa
học Bộ Y tế và chuyên gia hỗ trợ kỹ thuật của tổ
PHƯƠNG PHáP CHọN MẫU Và ƯớC TíNH
Tỉ Số Tử VONG Mẹ CủA CUộC ĐIềU TRA Tử VONG Mẹ
ở VIệT NAM GIAI ĐOạN 2006 - 2007
1
ThS. Phan Hồng Vân
chức Y tế Thế giới, tỉ lệ các huyện miền núi nông
thôn, đồng bằng nông thôn và thành thị là 16:10:4.
- Số huyện của mỗi chùm cũng được chọn ra
từ tổng số huyện của chùm đó ở 10 tỉnh nghiên
cứu bằng phương pháp chọn ngẫu nhiên hệ thống.
Chọn tỉnh nghiên cứu
Để chọn mẫu tỉnh, 64 tỉnh/thành trong cả nước
được sắp xếp theo các vùng sinh thái và các vùng
sinh thái có điều kiện gần giống nhau về địa lý sẽ
đứng cạnh nhau. Với giả định mỗi tỉnh/thành có
10 huyện để đảm bảo các tỉnh đều có cơ hội được
lựa chọn như nhau không tính đến tỉnh lớn (có
nhiều huyện) hay tỉnh nhỏ (có ít huyện). Khoảng
cách mẫu vì vậy là 640/10 = 64. Mười tỉnh/thành
được chọn ngẫu nhiên hệ thống là Sơn La, Quảng
Ninh, Thái Nguyên, Hải Dương, Đà Nẵng, Lâm
Đồng, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Phước, Long An,
Cần Thơ.
Chọn huyện nghiên cứu
Để chọn 30 huyện trong 10 tỉnh, nhóm nghiên
cứu đã thực hiện các bước sau:
+ Liệt kê số huyện miền núi nông thôn trong
10 tỉnh đã chọn, tổng số có 36 huyện. Với giả
định mỗi huyện có 100 xã để đảm bảo các huyện
đều có cơ hội được lựa chọn như nhau, như vậy
tổng số xã trong 36 huyện là 3600 xã. Vì số
huyện cần phải chọn là 16 nên ta có khoảng
cách mẫu là 3600/16 = 225. Dùng phương pháp
1
Trưởng phòng Quản lý Khoa học - Đào tạo - HTQT, Viện
CL&CSYT.
20
Nghiên cứu về chính sách y tế
Quảng Ninh Ba Chẽ (MN), Bình Liêu (MN), Uông Bí (TT), Vân Đồn (ĐB)
chọn ngẫu nhiên hệ thống ta chọn được 16
huyện miền núi nông thôn.
+ Tương tự, liệt kê số huyện đồng bằng nông
thôn trong 10 tỉnh đã chọn, tổng số có 41 huyện.
Với giả định mỗi huyện có 100 xã, ta có tổng số
xã là 4100. Vì số huyện phải chọn là 10 nên ta có
khoảng cách mẫu là 4100/10 = 410. Dùng
phương pháp chọn ngẫu nhiên hệ thống ta chọn
được 10 huyện đồng bằng nông thôn.
+ Cũng tương tự, liệt kê số quận/thị trong 10
tỉnh đã chọn, tổng số có 24 quận/thị. Với giả
định mỗi quận/thị có 100 phường, ta có tổng số
phường là 2400. Vì số quận/thị phải chọn là 4
nên ta có khoảng cách mẫu là 2400/4 = 600.
Dùng phương pháp chọn ngẫu nhiên hệ thống ta
chọn được 4 quận/thị/thành phố.
Tổng hợp mẫu nghiên cứu được chọn xem tại
bảng 1.
Bảng 1: Danh sách các tỉnh và huyện trong mẫu điều tra
* MN = miền núi; ** ĐB = đồng bằng; *** TT = thành thị
Qui mô của mẫu.
Tất cả các xã của 30 huyện được chọn sẽ
được tiến hành điều tra tất cả các trường hợp tử
vong phụ nữ 15-55 trong thời gian 1/1/2006 đến
31/12/2007 thông qua các đối tượng:
- Cộng đồng,
- Gia đình, người thân, hàng xóm của người
phụ nữ tử vong
- Cán bộ y tế tại các cơ sở y tế nơi có các phụ
nữ tử vong.
Hạn chế của phương pháp chọn mẫu
Vì lý do kinh phí hạn hẹp nên mẫu được chọn
chỉ đại diện quốc gia, không đại diện cho từng
khu vực vì vậy việc so sánh sự khác biệt giữa
khu vực miền núi và đồng bằng sẽ bị hạn chế.
2. Các kỹ thuật á p dụng để thu thập thông
tin
Xác định các trường hợp tử vong mẹ:
Phương pháp RAMOS (Reproductive Age
Mortality Studies - Nghiên cứu tử vong ở độ tuổi
sinh sản) và kỹ thuật xác định nguyên nhân tử
vong bằng phương pháp phỏng vấn (verbal
autopsy) đã được sử dụng trong điều tra này. Cụ
thể các bước như sau:
(1) Thu thập danh sách phụ nữ 15-55 tuổi tử
vong trong mẫu. Các bước cụ thể như sau:
Bảo Lâm (MN), Di Linh (MN), Lạc Dương (MN), Đam Rông (MN),
Đơn Dương (MN), Thành phố Đà Lạt (TT)
Tỉnh Huyện
Bình Phước Bình Long (MN*), Bù Đăng (MN)
Cần Thơ Thốt Nốt (ĐB**)
Hải Dương Gia Lộc (ĐB), Nam Sách (ĐB), Thanh Miện (ĐB)
Long An Bến Lức (ĐB), Cần Giuộc (ĐB), Mộc Hóa (ĐB), Tân An (TT***)
Lâm Đồng
Sơn La Bắc Yên (MN), Mộc Châu (MN), Thuận Châu (MN), Yên Châu (MN)
Thái Nguyên
Vũng Tàu
Đà Nẵng
Đại Từ (MN), Định Hóa (MN), Phú Bình (ĐB)
Châu Đức (MN)
Hòa Vang (ĐB), Hải Châu (TT)
21
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
+ Thu thập danh sách phụ nữ 15-55 tuổi tử
vong trong khoảng thời gian xác định từ các
nguồn khác nhau như hệ thống báo cáo chính
thức của UBND, dân số, thống kê, TYT xã, các
thống kê tử vong tại bệnh viện, Trung tâm Chăm
sóc Sức khỏe Sinh sản tỉnh.
+ Dùng phương pháp đánh giá nhanh có sự
tham gia (PRA) để thu thập thông tin về các
trường hợp tử vong phụ nữ 15-55 tuổi tại cộng
đồng, loại bỏ các trường hợp sai hoặc trùng lặp,
bổ sung vào danh sách những trường hợp tử
vong mới phát hiện được tại cộng đồng.
+ Lên danh sách cuối cùng: danh sách phụ nữ
15-55 tuổi tử vong.
(2) Điều tra dựa vào bảng hỏi tại hộ gia đình
có phụ nữ 15-55 tuổi tử vong.
(3) Điều tra tại các cơ sở y tế đối với các
trường hợp tử vong mẹ tại cơ sở y tế hoặc đã đến
khám, điều trị tại cơ sở y tế trước khi tử vong
bằng bảng hỏi cán bộ y tế chứng kiến kết hợp với
hồi cứu hồ sơ bệnh á n tử vong.
(4) Phương pháp chuyên gia: dựa trên các
phiếu điều tra chuyên gia sẽ thẩm định các
trường hợp tử vong mẹ và xác định nguyên nhân
tử vong.
Xác định mẫu số của cuộc điều tra:
Mẫu số của cuộc điều tra này là số trẻ đẻ sống
và số phụ nữ 15-49 tuổi trong hai năm 2006 và
2007 của tất cả các xã tại 30 huyện điều tra.
Số liệu trẻ đẻ sống và phụ nữ 15-49 tuổi được
thu thập tại từng xã điều tra. Các số liệu này đã
được thiết kế trong biểu mẫu thu thập thông tin
Mẫu số 1 “Phiếu thu thập danh sách phụ nữ 15-
55 tuổi tử vong trong hai năm 2006-2007 tại
trạm y tế xã.”
Khi các điều tra viên đến thu thập thông tin
tại các xã đã lấy các số liệu về số lượng trẻ đẻ
sống của xã trong hai năm 2006 và 2007 tại trạm
y tế xã. Đa số các trạm y tế xã đều sẵn có các số
liệu này. Tuy nhiên có một số xã miền núi cao
như ở Sơn La đã không sẵn có số liệu này. Vì
vậy, các số liệu này đã phải lấy số liệu chung của
toàn huyện tại Trung tâm y tế huyện.
Các số liệu mẫu số thu thập ở các xã sẽ được
cộng lại cho số liệu của từng huyện. Đơn vị mẫu
số nhỏ nhất trong điều tra này tính theo từng
huyện.
3. Các chỉ số dịch tễ học
Tỉ lệ tử vong mẹ và tỉ số tử vong mẹ
Trong cuộc điều tra này phát hiện 1196
trường hợp tử vong PN 15-49, trong đó có số tử
vong mẹ là 49 trường hợp. Tỉ lệ tử vong mẹ trên
tổng số tử vong chung phụ nữ 15-49 tuổi
(PMDF) là 4,10%.
Bảng 2: Tỉ lệ tử vong mẹ trong số PN 15 - 49 tử vong (PMDF) theo khu vực địa lý
Khu vực Số trường
hợp PN 15-49
tử vong
Số trường hợp
tử vong mẹ
Tỉ lệ tử vong mẹ trong số
PN 15-49 tử vong
(PMDF) (%)
Nông thôn miền núi
Nông thôn đồng bằng
Thành thị
Chung
565
437
194
1196
35
9
5
49
6,19
2,06
2,58
4,10
Trong 49 trường hợp này chỉ có 18 trường hợp
từ các nguồn của các địa phương báo lên là tử
vong mẹ, còn lại 31 trường hợp phát hiện thông
qua các cuộc thảo luận nhóm tại các xã điều tra
và điều tra hộ gia đình. Trong 31 trường hợp phát
hiện mới này có 12 trường hợp có trong danh
22
Nghiên cứu về chính sách y tế
Bảng dưới đây sẽ cho chúng ta thấy sự khác biệt
giữa MMR theo con số địa phương báo cáo
(19,8/100.000 trẻ đẻ sống) và MMR tính từ số
liệu thu được sau cuộc điều tra (46,2/100.000
trẻ đẻ sống). Khi tính tách riêng cho từng tỉnh, ta
thấy sự khác biệt rất lớn ở một số tỉnh như Sơn
La (98 và 187), Quảng Ninh (0 và 16), Thái
Nguyên (8,5 và 17), Đà Nẵng (22 và 76), Lâm
Đồng (0 và 28), Bình Phước (31 và 72), Long An
(0 và 6), Cần Thơ (0 và 21). Tuy việc chọn mẫu ở
đây chỉ cho ra con số đại diện cho toàn quốc,
không có giá trị trong việc so sánh giữa các tỉnh
và các khu vực nghiên cứu. Nhưng trên thực tế
khi đưa ra các con số so sánh ở bảng dưới cũng
phần nào phản ánh được sự khác biệt giữa các
thông tin của địa phương và các thông tin từ
cuộc điều tra.
187
16
17
17
76
28
72
22
6
21
46,2
MMR
Bảng 3: Tỉ số tử vong mẹ 2006 - 2007 của các tỉnh tính theo các nguồn
số liệu của địa phương và từ số liệu sau điều tra (tính trên 100.000 trẻ đẻ sống)
sách phụ nữ tử vong chung của địa phương và 19
trường hợp là phát hiện mới ngoài danh sách địa
phương. Đặc biệt ở các tỉnh miền núi như Sơn
La, con số địa phương báo cáo là 11, nhưng qua
điều tra phát hiện tổng số 21 trường hợp, như vậy
là địa phương thống kê bỏ sót đến 50% các
trường hợp tử vong mẹ. Điều này cho thấy nếu
chỉ dựa vào báo cáo từ các nguồn số liệu của địa
phương, thì trong toàn mẫu điều tra chúng ta chỉ
có được 20/49 = 41% các trường hợp tử vong mẹ
so với thực tế. Trong 20 trường hợp các địa
phương báo lên là tử vong mẹ thì có 2 trường hợp
qua quá trình điều tra phát hiện đây không phải
là tử vong mẹ (1 ở Sơn La và 1 ở Bình Phước).
Đây chính là ưu điểm của việc thu thập thông tin
từ nhiều nguồn nhằm bổ trợ thông tin và giảm tối
đa việc bỏ sót các trường hợp tử vong mẹ.
Tỉnh
Số trẻ đẻ
sống
Báo cáo của địa phương Số liệu qua điều tra
Sơn La
Quảng Ninh
Thái Nguyên
Hải Dương
Đà Nẵng
Lâm Đồng
Bình Phước
Bà Rịa - VT
Long An
Cần Thơ
Chung
11 231
6 287
11 759
11 611
9 171
21 253
9 702
4 519
15 682
4 809
106 024
11
0
1
2
2
0
3
1
0
0
20
98
0
8,5
17
22
0
31
22
0
0
18,7
21
1
2
2
7
6
7
1
1
1
49
Số ca TVM MMR Số ca TVM
Các tỉ số tử vong mẹ và tỉ suất tử vong mẹ cho
các khu vực nông thôn miền núi tương ứng là
70,2/100.000 và 4,7/100.000, khu vực nông
thôn đồng bằng là 23,9 và 1,4, khu vực thành thị
là 26,9 và 1,7. Như vậy ta có thể thấy tử vong mẹ
cao nhất ở khu vực miền núi. ở khu vực này tử
vong mẹ cao xấp xỉ gấp 3 lần so với khu vực
nông thôn đồng bằng và thành thị.
Các số liệu điều tra sau khi được tính trọng
số (weight) và điều chỉnh theo khuyến cáo của
Tổ chức Y tế Thế giới.
Để hạn chế tối đa các sai số do bỏ sót các
trường hợp tử vong, chuyên gia của Tổ chức Y tế
23
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
Bảng 4: Ước lượng Tỉ số tử vong mẹ (MMR) cho Việt Nam 2006-2007.
Thế giới - GS. Saffudin của Trường Đại học John
Hoppkin, Hoa Kỳ đã sử dụng phương pháp của
Chandrashekar và Demming về ước đoán các
trường hợp bỏ sót bằng cách so sánh hai nguồn
cung cấp số liệu trong hệ thống thông tin địa
1
phương cung cấp . Cụ thể ở đây hai nguồn số
liệu được so sánh là các thông tin về các trường
hợp tử vong phụ nữ và tử vong mẹ thu được từ
các cơ sở y tế công tư, khám chữa bệnh, dự
phòng của các huyện, tỉnh điều tra và các thông
tin thu được từ các xã điều tra. Kết quả cho thấy
ở tất cả các tỉnh, số các trường hợp tử vong phụ
nữ không được các cơ sở y tế báo cáo mà do
cộng đồng xã phát hiện ra là rất lớn (khoảng 181
trường hợp) và số trường hợp tử vong mẹ bị bỏ
sót trong toàn mẫu là khoảng 2 trường hợp.
Sau đó kỹ thuật "Weighted and corrected
estimates" đã được sử dụng để tính tỉ số tử vong
mẹ chung cho toàn quốc và cho các khu vực
nông thôn miền núi, nông thôn đồng bằng và
thành thị.
Việc ước lượng MMR trên 100.000 trẻ đẻ
sống dựa vào số tử vong mẹ đã được tính trọng
số (weight) và số trẻ sinh sống. Như đã phân tích
ở trên khi sử dụng phương pháp Chandrashekar-
Demming để ước lượng các trường hợp bị bỏ sót
thì theo tính toán có khoảng 2 trường hợp tử
vong mẹ bị bỏ sót. MMR khi đưa ra báo cáo sẽ
tính trọng số (weighted) cho các khu vực do
phân bố số huyện của các khu vực trong mẫu có
tỉ lệ không tương ứng. MMR và 95% khoảng tin
cậy cho chung toàn quốc và cho 3 khu vực địa lý
nông thôn miền núi, nông thôn đồng bằng và
thành thị được trình bày ở bảng dưới đây.
Như vậy sau khi tính trọng số thì MMR
chung của Việt Nam là 42 trên 100.000 trẻ đẻ
sống trong giai đoạn 2006-2007. Với 95%
khoảng tin cậy MMR dải từ 23 - 61 trên 100.000
trẻ đẻ sống.
Theo một tài liệu về tử vong mẹ năm 2005 do
WHO, UNICEF, UNFPA và World Bank phối
hợp thực hiện đã chỉ ra rằng ở một số nước
(Brazil, Egypt, Jordan và Thổ Nhĩ Kỳ) đã tiến
hành nghiên cứu toàn quốc sử dụng phương
pháp RAMOS (hoặc đã tiến hành nghiên cứu
theo phương pháp RAMOS ở một số khu vực
được chọn mẫu đại diện cho cả quốc gia). Các số
liệu về tỉ số tử vong mẹ có được từ cuộc điều tra
được chấp nhận như là giới hạn dưới của tỉ số
này và giới hạn trên là MMR thu được từ điều tra
RAMOS nhân với hai. Điểm giữa giới hạn trên
và giới hạn dưới được xem như là điểm ước
2
lượng cho tỉ số tử vong mẹ . Theo cách ước tính
này tỉ lệ tử vong mẹ của Việt Nam là 63 trên
Toàn quốc
Các khu vực
Nông thôn miền núi
Nông thôn đồng bằng
Thành thị
MMR
weighted
trên 100.000
trẻ đẻ sống
95%
khoảng tin
cậy
95%
khoảng tin
cậy
MMR điều chỉnh
(theo WHO) trên
100.000
trẻ đẻ sống
42
72
24
27
(23-61) 63 (42-84)
(25-119)
(2-46)
(4-50)
108
36
40
(72-144)
(24-48)
(27-54)
1
Sarmukaddam SB.(1996) Chandrashekar-Demming vs
capture - recapture and log - linear methods using dual/multi
record system: comparison. Unpublished 1996 POPLINE
Document Number 194386.
2
Maternal Mortality 2005 Estimates developed by WHO,
UNICEF, UNFPA and the World Bank
24
Nghiên cứu về chính sách y tế
100.000 trẻ đẻ sống với khoảng dao động dải từ
42-84 ca tử vong mẹ trên 100.000 trẻ đẻ sống.
(Xem bảng 4).
Cũng từ bảng trên ta thấy khi xem xét MMR
theo các khu vực địa lý cho thấy sự phân bố mất
công bằng MMR ở Việt Nam: Phụ nữ ở miền
núi có nguy cơ tử vong mẹ cao gấp ba lần so với
phụ nữ ở đồng bằng và thành thị. Tuy nhiên sự
khác biệt giữa các khu vực này không có ý nghĩa
thống kê (p=0.85).
Nguy cơ chết mẹ
Sau khi đã hiệu chỉnh tỉ số tử vong mẹ MMR
chung cho toàn quốc giai đoạn 2006-2007 là
42/100.000 trẻ đẻ sống (khoảng dao động từ 23-
61). Con số này thấp hơn rất nhiều so với con số
MMR = 165/100.000 trẻ đẻ sống năm 2000-2001
là kết quả thu được từ cuộc điều tra tử vong mẹ của
Vụ Sức khỏe Sinh sản tiến hành năm 2002.
Tỉ số tử vong mẹ được đưa ra cho thấy có sự
khác biệt giữa các khu vực. Khu vực nông thôn
miền núi là nơi có tỉ số tử vong mẹ cao nhất
trong ba khu vực. Tuy nhiên, như đã đề cập
trong phần phương pháp nghiên cứu vì cách
chọn mẫu ở đây chỉ đảm bảo tính đại diện cho
toàn quốc chứ không tính đến đại diện cho các
khu vực do kinh phí hạn hẹp. Vì vậy, các con số
cho các khu vực khác nhau chỉ có tính tham
khảo.
Để tính nguy cơ chết mẹ (life time risk of
maternal death) chúng tôi sử dụng công thức:
Bảng 5: Nguy cơ chết mẹ chung cho toàn quốc và cho các khu vực địa lý
(tính theo MMR sau weight)
Toàn quốc
Nông thôn miền núi
Nông thôn đồng bằng
Thành thị
Tỉ số tử vong
mẹ MMR
Tổng tỉ suất
sinh 2007
(TFR)
95% CI của nguy
cơ chết mẹ
Nguy cơ
chết mẹ
(1/.....PN)
42 (23-61)
72 (25-119)
24 (2-46)
27 (4-50)
2,07*
2,4**
2,0***
2,0***
1/959
1/482
1/1736
1/1543
1/1750 - 1/660
1/1389 - 1/292
1/20833 - 1/906
1/10416 - 1/833
trong đó: TFR là tổng tỉ suất sinh
MMR là tỉ số tử vong mẹ
(Công thức từ Từ điển chỉ số thống kê y tế cơ
bản. Tháng 1/1998. Phòng Thống kê tin học, Vụ
Kế hoạch, Bộ Y tế)
áp dụng vào công thức ta có kết quả sau:
Nguy cơ chết mẹ = 1/(1,2 x TFR x MMR)
* TFR toàn quốc lấy theo Niên giám thống kê y tế 2007
** TFR của vùng nông thôn miền núi được ước lượng bằng số trung bình của TFR khu vực đông
bắc, tây bắc và tây nguyên
*** TFR của nông thôn đồng bằng và thành thị được ước lượng bằng số trung bình của TFR khu
vực đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long
25
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
Bảng 5 cho thấy nếu tính theo MMR đã
weight thì nguy cơ chết mẹ chung cho toàn quốc
là 1/959 với 95% CI dao động từ 1/1750 -
1/660). Với khu vực miền núi nguy cơ này cao
hơn (1/482) và thấp hơn ở khu vực đồng bằng
(1/1736) và khu vực thành thị (1/1543).
Xỏc
định
/đỏn
h gi
ỏ vấ
n đề
Xỏc
định
vấn
đề v
à cỏc
chủ
đề c
hớnh
Tổ c
hức
in tư
vấn
của
cỏc b
ờn li
ờn
quan
- Chu
ẩn b
ị RIA
sơ b
ộ
Chu
ẩn b
ị RI
A
mộ
t ph
ần
Chu
ẩn b
ị cỏ
c v
ăn b
ản th
am v
ấn (b
ao
gồm
RIA
một
phầ
n) v
à ph
ổ biế
n
Tha
m v
ấn c
ủa c
ỏc b
ờn li
ờn q
uan
T
iến h
ành
chớn
h thứ
c xin
tham
vấn
,
và/h
oặc
thu t
hập
cỏc t
ờ trỡn
h viế
t
tay
T
iến h
ành
điều
tra n
ếu c
ần th
iết
Thu
thậ
p số
liệu
và p
hõn
tớch
Túm
tắt c
ỏc th
am v
ấn, t
hu th
ập v
à
phõn
tớch
số l
iệu.
Xỏc
định
cỏc
vấn
đề tồ
n tại
Chu
ẩn b
ị bỏ
o cỏ
o RI
A
đầy
đủ
Chu
ẩn b
ị RIA
đầy
đủ, b
ao g
ồm
túm
tắt cỏ
c tha
m vấ
n
Thụ
ng q
ua b
ỏo c
ỏo R
IA
Đệ t
rỡnh
lấy
chữ
ký c
ủa th
ủ trư
ởng
cỏc c
ơ qu
an n
hà n
ước
cú tr
ỏch
nhiệ
m
Cú c
ần p
hải t
ham
vấn
và/h
oặc c
ần
thờm
số
liệu
sõu
hơn
khụn
g?
Cú Khụ
ng
Nhữ
ng k
ết qu
ả ban
đầu
cú g
iỳp ớ
ch ch
o RI
A
một
phần
khụ
ng?
Cú Khụ
ng
Bảng 6 : Nguy cơ chết mẹ chung cho toàn quốc và cho các khu vực địa lý
(tính theo MMR sau điều chỉnh theo khuyến cáo của WHO)
Bảng 6 cho thấy sau khi hiệu chỉnh MMR
theo khuyến cáo của WHO thì nguy cơ chết mẹ
đã tăng khoảng 1,5 lần so với kết quả bảng 5.
Nếu so sánh với kết quả điều tra tử vong mẹ
giai đoạn 2000-2001 thì nguy cơ tử vong mẹ đã
giảm xuống sau 6 năm.
4. Bàn luận về phương pháp luận và
phương pháp thu thập thông tin
Về mẫu nghiên cứu cho tử vong mẹ:
Khi tiến hành chọn mẫu đại diện được cho tử
vong mẹ trong toàn quốc, chuyên gia của WHO
đã đề xuất tỉ lệ phân bổ 30 huyện theo địa hình là
miền núi: nông thôn: thành thị = 20: 7: 3. Cơ sở
của việc đề xuất tỉ lệ này dựa trên kết quả của
cuộc điều tra tử vong mẹ tiến hành vào năm
2002 đã chỉ ra tỉ số tử vong mẹ ở miền núi cao
gấp 3 lần so với vùng đồng bằng và tỉ lệ phân bố
các huyện trong toàn quốc theo khu vực địa lý là
2:2:1 (số huyện miền núi = 255, đồng bằng =
278, thành thị = 128). Trong khi đó, Hội đồng
Khoa học công nghệ cấp Bộ có quan điểm cho
rằng tỉ lệ các huyện trong mẫu phải là 2:2:1 =
12:12:6. Sau quá trình thảo luận, trao đổi, hai
bên đã đi đến thống nhất tỉ lệ này là 16:10:4.
Việc thay đổi tỉ lệ này đã làm số huyện miền núi
giảm xuống (so với thiết kế ban đầu của chuyên
gia của WHO) và thay vào đó là các huyện nông
thôn và thành thị. Qua quá trình điều tra thấy rõ
các trường hợp tử vong mẹ đa phần là ở các
huyện miền núi. Vì vậy, kết quả thu được về tỉ số
tử vong mẹ theo điều tra sau khi điều chỉnh mẫu
có nhiều khả năng thấp hơn so với tỷ số tử vong
mẹ nếu vẫn giữ nguyên như mẫu ban đầu của
chuyên gia WHO.
Do nguồn kinh phí hạn hẹp nên cỡ mẫu 30
huyện chỉ cho ta một con số chung đại diện cho
toàn quốc mà không thể so sánh giữa các vùng
miền nên sự so sánh chỉ có ý nghĩa tham khảo.
Trên thực tế nếu muốn có con số đại diện cho 3
vùng địa lý thì cỡ mẫu phải tăng gấp 3 lần (90
huyện). Do nguồn kinh phí hạn hẹp nên việc
điều tra chỉ có tiến hành ở 30 huyện.
Về vấn đề lựa chọn phương pháp để điều
tra tử vong mẹ:
Điều tra về tử vong mẹ là loại điều tra khó và
phức tạp vì tử vong mẹ thường bị xếp loại nhầm
(misclasified) hoặc báo cáo không đầy đủ
(undereported). Theo Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO), thông tin về tử vong mẹ có thể được thu
thập từ nhiều nguồn như:
1. Hệ thống đăng ký sinh tử (vital registration)
2. Điều tra hộ gia đình
3. Phương pháp chị em gái gián tiếp, trực tiếp
(indirect, direct sisterhood)
4. Phương RAMOS (Reproductive Age
Mortality Studies - Nghiên cứu tử vong ở độ tuổi
sinh sản)
5. Kết hợp trong các cuộc điều tra như Điều
tra biến động dân số vào ngày 1 tháng 4 hàng
Toàn quốc
Nông thôn miền núi
Nông thôn đồng bằng
Thành thị
Tỉ số tử vong
mẹ MMR
Tổng tỉ suất
sinh
(TFR)
95% CI của nguy
cơ chết mẹ
Nguy cơ
chết mẹ
(1/.....PN)
63 (42-84)
108 (72-144)
36 (24-48)
40 (27-54)
2,07
2.4
2.0
2.0
1/639
1/322
1/1157
1/1042
1/959 - 1/479
1/482 - 1/241
1/1736 - 1/868
1/1543 - 1/772
26
Nghiên cứu về chính sách y tế
năm, Tổng Điều tra Dân số...
Mỗi phương pháp kể trên đều có ưu và nhược
điểm. Ví dụ: Điều tra MICS 3 của Tổng cục
Thống kê như đã nói ở trên sử dụng phương
pháp chị em gái gián tiếp và đưa ra kết quả tỷ số
tử vong mẹ là 162/100.000 trẻ đẻ sống. Phương
pháp này có ưu điểm là không cần phải có cỡ
mẫu lớn vì vậy tiết kiệm được nguồn lực, tuy
nhiên phương pháp này cũng có nhiều nhược
điểm và chính vì vậy cần phải lưu ý khi sử dụng
số liệu do:
- Độ tin cậy thấp vì khoảng tin cậy rất rộng.
- Phương pháp này cho ước tính về tỷ số tử
vong mẹ là ước tính của nhiều năm trước cuộc
điều tra chứ không phải ước tính của hiện tại vì
vậy số liệu không phản ảnh đúng thực trạng tử
vong mẹ ở thời điểm hiện tại.
- Phương pháp chị em gái không nên dùng ở
những nước có TFR thấp (TFR <4) trong khi
TFR của VN trong nhiều năm qua đã ở mức rất
thấp (hiện nay là 2.1).
Vì những lý do trên, ước tính về tử vong mẹ
trong điều tra của Tổng cục Thống kê chỉ nên
dùng làm số liệu tham khảo và muốn có được số
liệu tin cậy hơn thì cần làm một nghiên cứu điều
tra khác về tử vong mẹ và nên sử dụng phương
pháp RAMOS để điều tra.
Trong cuộc điều tra này đã sử dụng phương
pháp RAMOS và thông tin được thu thập, đối
chiếu từ nhiều nguồn khác nhau. Nhờ việc thu
thập số liệu từ các nguồn khác nhau nên đã giảm
tối đa việc bỏ sót các trường hợp tử vong. Theo
số liệu báo cáo của địa phương trong hai năm
2006-2007 tại 30 huyện của 10 tỉnh nghiên cứu
chỉ có 19 trường hợp tử vong mẹ (Địa phương
báo cáo 21 TVM nhưng có 2 trường hợp qua
điều tra không phải TVM). Trong quá trình điều
tra phát hiện thêm 30 ca tử vong mẹ (trong đó
có 11 ca địa phương báo cáo là tử vong phụ nữ
và 19 ca phát hiện mới qua thảo luận nhóm và
điều tra hộ gia đình). Quá trình thu thập số liệu
đã được kiểm tra, giám sát chặt chẽ đảm bảo
tính chính xác của số liệu và hạn chế tối đa sai
số. Qua điều tra có 2 tỉnh có số tử vong mẹ được
phát hiện thấp so với dự kiến là Tỉnh Long An và
Quảng Ninh đã được yêu cầu rà soát lại hoặc
được các nghiên cứu viên chủ chốt của Viện
Chiến lược và Chính sách Y tế trực tiếp tiến hành
điều tra lại nhưng không phát hiện được thêm
trường hợp tử vong nào khác.
Tử vong mẹ là một sự kiện khó quên với cán
bộ y tế và người dân trong cộng đồng nên việc
bỏ sót các trường hợp tử vong mẹ trong mẫu
điều tra có thể khẳng định là khó xảy ra. Tuy
nhiên việc bỏ sót các trường hợp tử vong mẹ là
không tránh khỏi. Theo một tài liệu về tử vong
mẹ năm 2005 do WHO, UNICEF, UNFPA và
World Bank phối hợp thực hiện đã chỉ ra rằng ở
một số nước (Brazil, Ai Cập, Jordan và Thổ Nhĩ
Kỳ) đã tiến hành nghiên cứu toàn quốc sử dụng
phương pháp RAMOS (hoặc đã tiến hành
nghiên cứu theo phương pháp RAMOS ở một số
khu vực được chọn mẫu đại diện cho cả quốc
gia). Các số liệu về tỉ số tử vong mẹ có được từ
cuộc điều tra được chấp nhận như là giới hạn
dưới của tỉ số này và giới hạn trên là MMR thu
được từ điều tra RAMOS nhân với hai. Điểm
giữa giới hạn trên và giới hạn dưới được xem
3
như là điểm ước lượng cho tỉ số tử vong mẹ .
Theo cách ước tính này thì MMR cho Việt Nam
của cuộc điều tra này là 63/100.000 trẻ đẻ sống.
Sau khi đã điều chỉnh số liệu của cuộc điều
tra theo khuyến cáo của WHO cho các cuộc
điều tra có cỡ mẫu đại diện quốc gia áp dụng
phương pháp RAMOS, tỉ số tử vong mẹ ở Việt
Nam giai đoạn 2006 - 2007 là 63/100.000.
(1) So sánh với ước tính của WHO về tỷ số tử
vong mẹ của Việt Nam năm 2000 là 130/100.000
và năm 2005 là 150/100.000 trẻ đẻ sống thì tỷ số
tử vong mẹ theo điều tra này đã giảm ít nhất là 2
lần.
3
Maternal Mortality 2005 Estimates developed by WHO,
UNICEF, UNFPA and The World Bank.
27
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
(2) So sánh với cuộc điều tra tử vong mẹ của
Vụ SKSS phối hợp với TCYTTG năm 2002:
MMR năm 2000-2001 là 165/100.000 trẻ đẻ
sống và điều tra của Tổng cục Thống kê (điều tra
MICS-theo phương pháp sisterhood-điều tra
chị em gái) năm 2006 là 162/100.000 trẻ để
sống, tỷ số tử vong mẹ (MMR) của cuộc điều tra
này đã giảm xuống khoảng 2,5 lần. Tuy nhiên
việc so sánh này có thể không phù hợp vì cách
chọn mẫu, phương pháp điều tra của các cuộc
điều tra là khác nhau.
(3) So sánh với số công bố chính thức trong
niên giám thống kê y tế năm 2007 là MMR = 75
và NMR và = 12 và kết quả tổng điều tra dân số
2009 của Tổng cục Thống kê (MMR năm 2008
= 69/100.000 trẻ đẻ sống thì số liệu của cuộc
điều tra này cũng thấp hơn.
(4) So sánh với các nước trên thế giới: (nên
lấy con số 63/100.000 TĐS để so sánh hoặc tốt
nhất là con số 54/100.000 TĐS như công bố mới
đây của WHO để so sánh vì cùng một nguồn số
liệu ) theo điều tra này MMR Việt Nam là 44,
tương đương với Trung Quốc (45), Trinidad và
Tobago (45); cao hơn so với Uruguay (20) và
Costa Rica (30); tốt hơn Srilanca (58), Jordan
(62), Argentina (77) và tốt hơn rất nhiều so với
con số chung của khu vực Đông Nam á là 300
năm 2005.
Theo ý kiến của chuyên gia WHO (GS
Saifuddin Ahmed), tỷ số tử vong mẹ của Việt
Nam theo điều tra này là hoàn toàn có thể chấp
nhận được vì kinh nghiệm của Hoa Kỳ cũng như
ở nhiều nước cho thấy tử vong mẹ một khi đã
giảm sẽ giảm rất nhanh, với mức giảm 64-66%
trong một thời gian ngắn là điều hoàn toàn có
thể. Thí dụ ở Hoa Kỳ chỉ trong giai đoạn từ
1939-1948, tử vong mẹ đã giảm 71% trong khi
điều kiện kinh tế xã hội của Mỹ vào thời kỳ này
cũng không hơn gì Việt Nam hiện nay. Nếu so
sánh với các nước như Uruguay, Costa Rica là 2
nước với địa hình chủ yếu là núi cao, điều kiện
kinh tế xã hội chưa phải là tốt nhưng đã đạt mức
MMR thấp hơn Việt Nam. Cũng tuơng tự như
vậy, Srilanka là nước có nội chiến liên miên với
mạng lưới y tế không thể bằng Việt Nam nhưng
MMR cũng đã đạt mức chỉ còn 58.
Theo kết quả của cuộc điều tra 2006 - 2007
này thì nguy cơ tử vong mẹ ở Việt Nam chỉ còn
1/959 (giảm hơn 3 lần so với bảng trên). Kết quả
của cuộc điều tra này cho thấy tỉ số tử vong mẹ
của Việt Nam 2006-2007 tương đương như của
Thái Lan năm 2005. Nếu tính nguy cơ chết mẹ
theo MMR đã được điều chỉnh thì kết quả sẽ là
1/639 tương đương như Malaysia năm 2005.
5. Kết luận
Bằng việc áp dụng các phương pháp trên,
nghiên cứu đã có các kết luận sau:
- Các số liệu thu được từ cuộc điều tra kết
hợp việc thu thập từ nhiều nguồn thông tin rất
khác biệt so với số liệu thống kê do địa phương
báo cáo lên. Với số liệu tử vong mẹ, cuộc điều
tra đã phát hiện thêm 19 trường hợp tử vong mẹ
bị bỏ sót, con số thực tế sau điều tra là 49).
- Tỉ số tử vong mẹ và tỉ suất tử vong sơ sinh đã
giảm đáng kể trong giai đoạn 5 năm trở lại đây.
Tử vong mẹ đã giảm từ 165 (năm 2001-2002)
xuống còn 63 (năm 2006-2007) trên 100.000
trẻ đẻ sống. ở khu vực miền núi, nguy cơ tử
vong mẹ cao hơn 3 lần so với các khu vực khác.
28
Nghiên cứu về chính sách y tế
ảng ta xác định phải xây dựng hệ thống y
tế vận hành phù hợp với cơ chế thị trường Đ
có định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc tìm hiểu
và xác định những đặc trưng của hệ thống y tế
vận hành theo cơ chế này có một ý nghĩa quan
trọng về lý luận cũng như thực tiễn. Trong thực
tế, thường xuất hiện một sự ngộ nhận là: trong
hệ thống y tế giữa công bằng và hiệu quả có sự
mâu thuẫn với nhau và sự mâu thuẫn này làm
cho công bằng không song hành với hiệu quả
trong cùng một hệ thống y tế. Sự ngộ nhận này
xuất hiện từ một thực tế tồn tại trong các hệ
thống y tế của các nước vận hành kinh tế theo cơ
chế thị trường. Tại các quốc gia này tuy cùng
vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường
nhưng cũng không có một mô hình hệ thống y tế
thống nhất. Với các nước vận hành nền kinh tế
theo cơ chế thị trường theo kiểu thị trường xã
hội, hệ thống y tế được xây dựng theo xu hướng
đề cao công bằng xã hội, hướng vào các giải
pháp mang tính cộng đồng, coi trọng y tế cộng
đồng và chăm sóc sức khỏe ban đầu, xây dựng y
tế nhà nước là lực lượng chủ yếu, nguồn tài
chính công (đầu tư của Nhà nước và nguồn
BHYT) chiếm phần chính trong tổng chi xã hội
cho y tế. Tuy vậy hệ thống y tế như vậy hay rơi
vào nguy cơ ỷ lại vào cộng đồng, dễ trì trệ trong
quản lý (do thiếu động lực kinh tế) và hiệu quả
về mặt đầu tư được đánh giá là không cao. Trái
với hệ thống y tế trên, tại các nước vận hành nền
kinh tế theo cơ chế thị trường tự do, hệ thống y tế
lại hướng đến đề cao vai trò cá nhân, coi trọng y
tế tư nhân, và phát triển y tế kỹ thuật cao, hướng
1
GS.TSKH. Phạm Mạnh Hùng
y tế phát triển theo yêu cầu tức là theo khả năng
chi trả cá nhân (vì vậy nguồn ngân sách do
người dân chi trả trực tiếp chiếm tỷ trọng cao
trong tổng chi xã hội cho y tế). Thoáng nhìn thì
hệ thống y tế này năng động hơn về quản lý, hiệu
quả hơn về đầu tư kinh tế và thông thoáng hơn về
cơ chế (đáp ứng theo yêu cầu tức khả năng chi
trả) nhưng nguy cơ thường không tránh khỏi của
hệ thống y tế này là sự mất công bằng trong đáp
ứng y tế (người giàu được đáp ứng tốt vì có khả
năng chi trả và người nghèo không được đáp
ứng). Chính vì vậy khi các đảng cánh hữu lên
nắm quyền thì họ lại chuyển dịch hệ thống y tế
theo cơ chế thị trường tự do và ngược lại khi các
đảng cánh tả lên cầm quyền thì họ lại chuyển
dịch hệ thống y tế theo hướng thị trường xã hội.
Ví dụ : năm 2006 tại Thụy Điển, khi đảng cánh
hữu lên cầm quyền, họ đã chuyển dịch hệ thống
y tế theo hướng “ mô hình lựa chọn tự do” (free
choice model) và “đồng tiền đi kèm với người
bệnh” (money follows patients). Ngay lập tức,
những chính sách này đã làm tăng sự mất công
bằng trong cách tiếp cận theo địa lý với chăm
sóc sức khỏe và từng bước làm giảm chất lượng
chăm sóc sức khỏe cho nhóm người thu nhập
thấp, trong khi việc tiếp cận cũng như chất
lượng chăm sóc sức khỏe cho nhóm người thu
nhập cao lại tốt hơn; ngân sách công dành cho y
tế được chuyển dịch từ chỗ ưu tiên cho người thu
MốI QUAN Hệ SONG HàNH GIữA CÔNG BằNG Và HIệU QUả
TRONG CHĂM SóC SứC KHOẻ: MộT ĐặC TRƯNG QUAN
TRọNG NHấT CủA Hệ THốNG Y Tế VậN HàNH THEO CƠ Chế
THị TRƯờNG Có ĐịNH HƯớNG X HộI CHủ NGHĩA.
1
Chuyên gia cao cấp, Nguyên Phó trưởng Ban Tuyên giáo
Trung ương.
29
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
nhập thấp nay chuyển sang cho nhóm người thu
2
nhập cao . Do vậy mà một số người đã đem đối
lập công bằng và hiệu quả.
ở Việt Nam khi bước vào thời kỳ đổi mới,
Đảng ta chủ trương trước hết là đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế từ quản lý theo kiểu bao cấp triệt
để, kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường
nhưng có định hướng xã hội chủ nghĩa. Năm
1986 khi bước vào thời kỳ “Đổi mới” nền y tế
nước ta đứng trước những thử thách rất gay gắt:
- Do thay đổi cơ chế quản lý mà nền kinh tế
nước ta từng bước tăng trưởng, đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt. Trong tình hình đó,
nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân được
đặt ra rất lớn và đa dạng bên cạnh nhiều hậu quả
to lớn về mặt sức khoẻ do chiến tranh để lại.
- Những vấn đề do mặt trái của cơ chế thị
trường mang lại đã gây một sức ép mới với
ngành y tế. Cụ thể là: trong khi nhiệm vụ chính
là tập trung để tăng trưởng kinh tế, rất dễ có tư
tưởng coi nhẹ công tác chăm sóc sức khỏe, coi
sức khoẻ là “của Trời cho” và chỉ biết tận dụng
sức khoẻ cho tăng trưởng kinh tế mà ít quan tâm
đến đầu tư cho sức khoẻ; sự phân hoá giàu nghèo
trước đây không có, nay đã xuất hiện làm cho
khó khăn trong việc thực hiện “Công bằng”
trong chăm sóc sức khỏe, người có tiền do có
khả năng chi trả nên yêu cầu (demand) trong
chăm sóc sức khỏe ngày một cao hơn, người
nghèo không có tiền để chi trả như vậy nhưng họ
lại là những đối tượng hay ốm đau nên nhu cầu
(need) chăm sóc sức khỏe của họ rất lớn, nền y
tế của ta vẫn phải đảm bảo sao cho mọi người
dân dù có tiền hay không có tiền đều có thể tiếp
cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe; các tệ
nạn xã hội xuất hiện ngày một nhiều và mang
tính đa dạng phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến
cơ cấu bệnh tật; tư tưởng chạy theo lợi nhuận, lời
lãi sẽ chen vào lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và
làm giảm tính nhân đạo vốn có của ngành y tế.
- Mặt khác, các cơ sở y tế không có đủ ngân
sách để trang trải các dịch vụ y tế thiết yếu theo
cách bao cấp như trước đây, chứ chưa nói đến
thực hiện các kỹ thuật cao. Chúng ta quen với cơ
chế bao cấp đã lâu, khi không còn cơ chế bao cấp
triệt để, chúng ta đã không nhanh chóng chuyển
đổi tư tưởng và cách suy nghĩ về một cơ chế kinh
tế y tế (hay cơ chế tài chính y tế) thích hợp với cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cũng có suy nghĩ (tuy không phổ biến) cho rằng
sức khỏe cũng là một loại hàng hóa và khi
chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì việc chăm
sóc sức khỏe cũng sẽ được điều tiết đơn thuần
bởi thị trường như các kiểu hàng hóa khác.
Đứng trước những thử thách này, Đảng ta đã
luôn luôn quan tâm đến việc xác định những
quan điểm của Đảng trong CSSK sao cho phù
hợp với tình hình mới và những cơ chế quản lý
mới. Năm 1993, Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp
hành TW Đảng khoá VII đã đề ra nghị quyết để
“phục hồi và phát triển nền y tế trong thời kỳ đổi
mới”. Năm 2002, Ban Bí thư TW Đảng ra Chỉ thị
06/CT-TW về: “Củng cố và hoàn thiện mạng
lưới y tế cơ sở” và đến năm 2005 Bộ chính trị
Ban chấp hành TW lại ban hành Nghị quyết số
46/NQ-TW về “Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới”. Những
nghị quyết và chỉ thị này của Đảng đã trở thành
kim chỉ nam để hướng dẫn việc vận hành ngành
y tế nước ta trong suốt hơn 20 năm qua. Một loạt
các nghị định hay nghị quyết của chính phủ ra
đời đã cụ thể hoá đường lối này trong từng giai
đoạn nhất định (Nghị quyết 37/CP của Chính
phủ ban hành ngày 20 tháng 6 năm 1996 về
“Định hướng chiến lược công tác chăm sóc và
bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong thời gian 1996
2000 và chính sách quốc gia về thuốc của Việt
Nam”, Quyết định số 35/2001/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 19 tháng 3
năm 2001 về “Phê duyệt chiến lược chăm sóc và
bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001 -
2010). Vì vậy trong những năm qua, “y tế Việt
2
Dahlgren Goran: Neoliberal reforms in Swedish primary
health care; for whom and for what purpose? Internat. J. of
Health service. 2008,Vol.38, N.4, p. 697.
30
Diễn đàn chính sách y tế
Nam tiếp tục đạt được những thành tựu quan
trọng. Mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở ngày
càng được củng cố và phát triển; nhiều dịch
bệnh nguy hiểm được khống chế và đẩy lùi; các
dịch vụ y tế ngày một đa dạng; nhiều công nghệ
mới được nghiên cứu và ứng dụng; việc cung
ứng thuốc và trang thiết bị y tế đã có nhiều cố
gắng hơn trước. Bảo hiểm y tế (BHYT) được
hình thành và bước đầu phát huy tác dụng. Nhân
dân ở hầu hết các vùng, miền đã được chăm sóc
sức khoẻ tốt hơn; phần lớn các chỉ tiêu tổng quát
về sức khoẻ của nước ta đều vượt các nước có
3
cùng mức thu nhập bình quân đầu người” .
Tuy nhiên sau hơn 20 năm đổi mới, thực hiện
cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, ngành y tế còn “chậm đổi mới, còn lúng
túng cả về nhận thức và xây dựng cơ chế hoạt
động, đặc biệt là cơ chế tài chính, nên chưa phát
huy tính chủ động, sáng tạo của các đơn vị y tế
cũng như của cán bộ y tế, chưa huy động đầy đủ
nguồn lực xã hội để vừa thực hiện mục tiêu bảo
đảm an sinh xã hội, công bằng trong CSSK, vừa
bảo đảm yêu cầu phát triển hệ thống y tế trong
4
nền kinh tế thị trường” . Vì vậy cần thiết phải
vạch rõ nét đặc trưng chủ yếu của cơ chế vận
hành nền y tế trong cơ chế thị trường có định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nét đặc trưng nhất của nền y tế theo cơ chế
thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa
chính là sự thống nhất giữa hai mặt “công
bằng” và “hiệu quả” trong các chính sách xã
hội về chăm sóc sức khoẻ. Hai mặt này song
song tồn tại, nương tựa vào nhau và hỗ trợ lẫn
nhau trong quá trình phát triển của chính sách
xã hội. Một nền y tế được coi là đạt đến công
bằng nhưng lại kém hiệu quả thì công bằng đó
chỉ là hình thức. Chẳng hạn việc đưa bác sỹ về
trạm y tế xã nhằm nâng cao chất lượng các dịch
vụ y tế tuyến cơ sở, giúp đa số nhân dân nhất là
nông dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế có
chất lượng, góp phần thực hiện công bằng trong
chăm sóc sức khoẻ. Nhưng nếu bác sỹ đó lại yếu
kém về chuyên môn, chất lượng dịch vụ y tế
không được cải thiện, tức là y tế cơ sở kém hiệu
quả về khám chữa bệnh, thì công bằng đó cũng
chỉ là hình thức mà thôi. Ngược lại, một nền y tế
có hiệu quả phải được hiểu là hiệu quả theo cả ba
mặt: hiệu quả về khám chữa bệnh và phòng
bệnh, hiệu quả về đầu tư nguồn lực và hiệu quả
cả về mặt xã hội nhân văn (tức là tính công
bằng). Như vậy, công bằng cũng phải được xem
như một trong những tiêu chí của hiệu quả, chứ
không thể chỉ đánh giá hiệu quả bằng tiêu chí
hiệu quả đầu tư kinh tế và hiệu quả phòng bệnh,
chữa bệnh đơn thuần. Hiện nay khi đánh giá
hiệu quả của một cơ sở dịch vụ y tế, chúng ta dễ
sa vào cách đánh giá đơn thuần về hiệu quả đầu
tư và hiệu quả khám chữa bệnh mà coi nhẹ hiệu
quả về mặt nhân văn của hệ thống y tế, đó là tính
công bằng. Một nền y tế dù cho phát triển kỹ
thuật cao đến mấy, nhưng người nghèo, người
rủi ro về sức khỏe bị những rào cản mà không
tiếp cận được và hưởng thụ các dịch vụ đó, thì
nền y tế đó cũng không thể xem là đã hiệu quả.
Hơn thế một hệ thống y tế được đánh giá là tốt
không chỉ dựa trên những tiêu chí kỹ thuật, chữa
khỏi nhiều bệnh mà còn phải dựa trên những
tiêu chí tài chính: đó là một hệ thống y tế không
làm người dân bị nghèo hóa do không vượt qua
nổi những chi phí cao dành cho khám chữa
bệnh. Điều này cũng giống như trường hợp:
trước đây khi đánh giá sự phát triển của một
quốc gia, người ta chỉ dựa đơn thuần trên sự tăng
trưởng kinh tế ( vì vậy các nước được chia thành
hai loại: đã phát triển và đang phát triển); hiện
nay sự phân loại ấy đã được bổ sung bằng cách
dựa trên chỉ số HDI (human development
index). Chỉ số HDI là kết quả tích hợp của các
3
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt
Nam: Nghị quyết 46/NQ-TW của Bộ Chính trị về “Bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới” ngày
23/2/2005.
4
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt
Nam: Kết luận của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế hoạt động, cơ
chế tài chính (trong đó có tiền lương và giá dịch vụ y tế) đối với
các đơn vị sự nghiệp y tế công lập (Kết luận số 42/KL-TW ngày
01 tháng 4 năm 2009).
31
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
chỉ số GDP cùng các chỉ số mang tính nhân văn
xã hội (như tỷ lệ trẻ sống trên 1 tuổi trong 1000
trẻ đẻ ra, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ trẻ em vào học
cấp I đúng độ tuổi, tỷ lệ trẻ bỏ học ở các cấp
học). Chính vì vậy, công bằng và hiệu quả
phải đi đôi với nhau trong các chính sách xã hội
về y tế. Ngoài “công bằng và hiệu quả”, Nghị
quyết 46/NQ-TW đã bổ xung thêm cụm từ
“phát triển” vào bên cạnh cụm từ “công bằng,
hiệu quả”. “Phát triển” ở đây có hàm ý là phải có
sự tăng trưởng về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật và trình
độ của y tế, nhưng sự tăng trưởng đó phải mang
lại những kết quả cả về mặt nhân văn và xã hội,
tức là đảm bảo cho một nền y tế công bằng.
Như vậy, điều quan trọng là phải hiểu khái
niệm và nội dung của công bằng, hiệu quả và
phát triển trong chăm sóc sức khoẻ một cách
đầy đủ và á p dụng vào từng chính xã hội về y tế.
Có như thế mới giúp cho việc đề ra chính sách
một cách đồng bộ và tránh được khuynh hướng
hình thức, một chiều hoặc cực đoan, làm cho hệ
thống y tế phát triển bền vững lâu dài, góp phần
đắc lực vào an sinh xã hội.
32
Diễn đàn chính sách y tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_nang_luc_kiem_dich_y_te_cua_mot_so_cua_khau_san_b.pdf