Từ kết quả của 2 nghiên cứu này trên bệnh nhân ở
Việt Nam, chúng tôi cho rằng atosiban không có hiệu
quả trên tất cả bệnh nhân TTTON nhưng có thể có tác
dụng thật sự trên một số đối tượng bệnh nhân TTTON,
đặc biệt trên nhóm bệnh nhân thất bại nhiều lần.
Cơ chế tác dụng của atosiban có thể là do giảm
cơn co tử cung [10], [11], [12] và giúp tăng tưới máu, cải
thiện chất lượng nội mạc tử cung,[9] từ đó tăng tỉ lệ
làm tổ và tỉ lệ thai lâm sàng. [16] ,[17]
Atosiban không có tác dụng hại trên phôi.[13]
Atosiban đã được công nhận sử dụng chính thức
tại Việt Nam với tác dụng là giảm cơn co tử cung
để điều trị dọa sinh non trong nhiều năm qua, với
tỉ lệ tác dụng phụ rất thấp. Các tác dụng phụ được
ghi nhận trong y văn trên phụ nữ đang mang thai,
bao gồm tăng nhịp tim (5,5%), nôn (11,9%), nhức
đầu (9,7%), chóng mặt, lo lắng (1,1%) và lạnh rung
(1,4%).[18],[19],[20] Tuy nhiên, các tần suất này xuất
hiện tương đương ở cả 2 nhóm sử dụng atosiban
và giả dược (đối chứng), trong một nghiên cứu
ngẫu nhiên, mù đôi để điều trị dọa sinh non.[21] Do
đó, có thể xem atosiban là an toàn và có tác dụng
phụ không đáng kể trên phụ nữ mang thai. Trong
nghiên cứu này, chúng ta áp dụng điều trị cho phụ
nữ khỏe mạnh và chưa có thai, do đó, độ an toàn
có thể cao hơn.
Cả hai nhóm nghiên cứu và nhóm chứng đều có tỉ
lệ có thai lâm sàng và tỉ lệ làm tổ khá cao so với tỉ lệ có
thai chung của TTTON tại trung tâm IVFAS vào cùng
thời điểm. Việc truyền dịch trước, trong và sau chuyển
phôi có thể tạo cho bệnh nhân cảm giác an tâm, giúp
hạn chế đi lại trước và sau chuyển phôi nhằm tạo môi
trường ổn định cho phôi trong buồng tử cung, điều
này cũng có thể góp phần làm tăng khả năng làm tổ
của phôi. Đây có thể là một tác dụng có lợi, không
phải do thuốc (placebo effect) làm tăng khả năng có
thai ở cả hai nhóm.
Chi phí của truyền atosiban trong chuyển phôi là
không cao so với chi phí TTTON và chuyển phôi. Với
cơ chế tác dụng của atosiban là giảm cơn co và cải
thiện nội mạc tử cung, atosiban nên được chỉ định ở
những trường hợp chuyển phôi tươi và chuyển phôi
đông lạnh sau đây: thất bại nhiều lần (>2 lần), cơn co
tử cung tăng, nội mạc tử cung không thuận lợi. Đối
với một số bệnh nhân, việc truyền dịch, nghỉ ngơi sau
chuyển phôi có thể có tác động tâm lý, tích cực đến
hiệu quả điều trị
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi về hiệu quả sử dụng atosiban khi chuyển phôi trong thụ tinh trong ống nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản
15
Tạp Chí phụ sảN - 11(4), 15 - 19, 2013 ngHIÊn CỨu
NGHIÊN CỨU NGẫU NHIÊN, Mù đÔI Về HIệU qUả
SỬ DụNG ATOSIbAN kHI CHUYểN PHÔI
TRONG THụ TINH TRONG ốNG NGHIệM
hồ Mạnh Tường (1, 2), giang huỳnh Như (1, 2), Nguyễn Thị Ngọc Nhân (2), Lâm anh Tuấn (2), Lương Thiện Nghĩa (1), Vương Thị Ngọc Lan (1, 3)
(1) Trung tâm Nghiên cứu di truyền và Sức khỏe sinh sản, Khoa Y Đại học Quốc gia TP.HCM, (2) IVFAS, Bệnh viện An Sinh, (3) Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP.HCM
Tóm tắt
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả
của việc sử dụng atosiban trong khi chuyển chuyển
phôi đối với bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm
(TTTON) bình thường. Đây là một nghiên cứu ngẫu
nhiên, mù đôi. Tổng cộng 300 bệnh nhân TTTON tiên
lượng bình thường, được thực hiện ICSI và có chuyển
phôi tươi được chọn ngẫu nhiên vào 2 nhóm điều trị
atosiban và nhóm chứng. Với nhóm atosiban, 150
bệnh nhân được truyền atosiban, pha trong nước
muối sinh lý, từ 30 phút trước khi chuyển phôi cho đến
khoảng 2 giờ sau chuyển phôi. Tổng liều atosiban là
37,5mg. Trong nhóm chứng, 150 bệnh nhân được
truyền nước muối sinh lý theo cách dùng tương tự
như truyền atosiban. Tỉ lệ có thai lâm sàng có khuynh
hướng cao hơn ở nhóm atosiban, tuy nhiên sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (53,3% vs. 46,7%; p =
0,248). Tỉ lệ làm tổ không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa hai nhóm (22,9% vs. 23,7%; p = 0,79).
Kết quả của nghiên cứu cho thấy atosiban không cải
thiện có ý nghĩa thống kê tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ
làm tổ trên các bệnh nhân TTTON tiên lượng tốt và
trung bình.
Abstract
A RANDOMIZED DOUBLE BLIND STUDY ON
THE EFFICACY OF ATOSIBAN USE DURING EMBRYO
TRANSFER IN IN-VITRO FERILIZATION
This study aimed to verify the efficacy of atosiban
used during embryo transfer on pregnancy rate in
normal IVF patients. It was a randomized, double
blind study. A total 300 normal IVF patients women
undergoing intracytoplasmic sperm injection, who
had embryos transferred, were randomly allocated
into treatment and control groups. The atosiban
group, including 150 patients, received intravenous
administration of atosiban from 30 minutes before
embryo transfer until 2 hours after transfer. Total
administered dose of atosiban was 37.5 mg. In
the control group, the same number of cycles was
administered with nomal saline instead of atosiban
solution. The clinical pregnancy rate (PR) per cycle
seems to be higher in the atosiban group, yet the
difference was not significant (53.3% vs. 46.7%,
p = 0.248). The implantation rates (IR) were not
significantly different between two groups (22.9%
vs. 23.7%, p = 0.79). These results of the study have
indicated that atosiban does not have significant
effects on the pregnancy and implantation rates in
normal IVF patients.
Key words: atosiban, clinical pregnancy rate,
implantation rate, IVF, embryo transfer
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Hồ Mạnh Tường, hmtuong@vnuhcm.edu.vn
Ngày nhận bài (received) 04/10/2013. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 24/10/2013. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 30/10/2013
Đặt vấn đề
Chuyển phôi là bước cuối cùng trong TTTON. Khả
năng thành công sau chuyển phôi phụ thuộc vào
chất lượng phôi, sự chấp nhận của nội mạc tử cung và
co thắt của tử cung. Sự co thắt của tử cung đóng một
vai trò quan trọng trong quá trình làm tổ của phôi. [1]
Tử cung co thắt nhiều có thể tống phôi ra khỏi buồng
tử cung và làm phôi không có cơ hội làm tổ. Cơn co
tử cung càng tăng thì tỉ lệ làm tổ của phôi và tỉ lệ có
thai giảm. [2]
Nồng độ estradiol cao trong khi kích thích buồng
trứng có thể làm nội mạc tử cung tăng tiết oxytocin,
tạo nhiều thụ thể oxytocin, gián tiếp tăng sản xuất và
phóng thích PGF2a.[3],[4] Số liệu một nghiên cứu trước
đây cho thấy cơn co tử cung ở những bệnh nhân làm
TTTON, đo trước chuyển phôi, tăng gấp 6 lần so với
thời điểm rụng trứng của chu kỳ tự nhiên. [5], [2] Ước
tính rằng khoảng 30% bệnh nhân chuyển phôi có
sự gia tăng đáng kể cơn co tử cung. Cơn co tử cung
cũng có thể tăng sau khi đụng chạm cổ tử cung nhiều
trong những trường hợp chuyển phôi khó. [2]
Sử dụng các thuốc ức chế cơn co tử cung vào thời
điểm chuyển phôi là một hướng can thiệp tiềm năng
đề giúp tăng tỉ lệ thành công của TTTON. Tuy nhiên,
các báo cáo sử dụng các thuốc như đồng vận bêta và
kháng viêm không steroid chưa cho thấy kết quả rõ
hồ MạNh TườNg, giaNg huỳNh Như, NguyễN Thị NgọC NhâN, LâM aNh TuấN, LươNg ThiệN Nghĩa, VươNg Thị NgọC LaNngHIÊn CỨu
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản
16
rệt. [6],[7],[8] Cơn co tử cung có liên quan đến oxytocin,
do đó, ức chế thụ thể oxytocin có thể cải thiện tỉ lệ
thành công của TTTON bằng cách giảm cơn co tử
cung, can thiệp vào hệ thống PGF2a/oxytocin và có
thể cải thiện tưới máu nội mạc tử cung.[9]
Atosiban là một chất đối vận kết hợp oxytocin/
vasopressin. Atosinban hiện được chỉ định cho
thai phụ dọa sinh non. Trong nhiều nghiên cứu
thuốc được chứng minh là có thể giảm tần suất
và cường độ cơn co tử cung trong chuyển phôi.
[10],[11],[12] Atosinban không có tác động gây hại trên
phôi ở nồng độ cao gấp 50 lần nồng độ điều trị.[13]
Thử nghiệm trên tinh trùng người bằng xét nghiệm
độ di động tinh trùng cho thấy thuốc không có tác
dụng phụ nào.
Trường hợp đầu tiên sử dụng atosiban trên lâm
sàng sau chuyển phôi được Pierzynski và cộng sự
báo cáo năm 2007.[14] Trong báo cáo này, atosiban
được sử dụng cho một phụ nữ 42 tuổi, thất bại
qua 8 lần chuyển phôi trước đó với tổng cộng phôi
chuyển là 12 phôi chất lượng tốt, và kết quả là bệnh
nhân có thai ở chu kỳ sử dụng Atosiban. Liang và
cộng sự báo cáo một trường hợp thành công khác
với Atosiban trên bệnh nhân trước đó thất bại làm
tổ nhiều lần mặc dù phôi tốt. [15] Moraloglu và cộng
sự báo cáo một thử nghiệm lâm sàng đối chứng
trên 180 bệnh nhân TTTON. Kết quả cho thấy phác
đồ truyền tĩnh mạch tổng liều 37,5 mg atosiban
trước chuyển phôi và kéo dài đến 2 giờ sau chuyển
phôi cải thiện có ý nghĩa thống kê cả tỉ lệ làm tổ và
tỉ lệ thai lâm sàng.[16]
Hiện nay các trung tâm lớn TTTON ở Hà Nội và
TPHCM. cũng đang sử dụng nhiều loại thuốc giảm
co khác nhau sau chuyển phôi theo kinh nghiệm.
Gần đây chúng tôi thực hiện một nghiên cứu đoàn
hệ tiến cứu đánh giá hiệu quả của atosiban trên các
trường hợp thất bại làm tổ nhiều lần tại Việt Nam
cho thấy atosiban làm giảm cơn co tử cung và cải
thiện tỉ lệ có thai sau chuyển phôi trên bệnh nhân
thất bại nhiều lần.[17]
Tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam nói riêng và
khu vực châu Á nói chung, chưa có nghiên cứu ngẫu
nhiên có đối chứng nào về hiệu quả của Atosiban
sau chuyển phôi TTTON trên bệnh nhân TTTON
bình thường. Do đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu
này nhằm đánh giá hiệu quả của atosiban trên tỉ lệ
thành công của TTTON. Mục tiêu nghiên cứu là so
sánh tỉ lệ thai lâm sàng sau TTTON giữa các bệnh
nhân có truyền atosiban và bệnh nhân truyền dịch
đơn thuần trước và sau chuyển phôi.
Đối tương và phương pháp nghiên cứu
Đề tài do Trung tâm nghiên cứu Di truyền
và Sức khỏe sinh sản, Khoa Y Đại học Quốc gia
TPHCM (CGRH) quản lý, phối hợp với các nghiên
cứu viên tại Đơn vị Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện An
Sinh TPHCM (IVFAS) để thực hiện. Đây là một nhánh
của nghiên cứu đa trung tâm kết hợp giữa Đại học
Hong Kong (Hong Kong), Khoa Y Đại học Quốc gia
TPHCM. (Việt Nam) và Southern Medical University
(Trung Quốc).
Thiết kế nghiên cứu là ngẫu nhiên, mù đôi. Bệnh
nhân được giải thích và tự nguyện tham gia nghiên
cứu. Tất cả bệnh nhân được truyền dịch và thuốc
miễn phí.
Cách nhận bệnh
Các bệnh nhân đến điều trị thụ tinh trong ống
nghiệm (TTTON) tại Đơn vị IVFAS (Bệnh viện An Sinh),
chuẩn bị chuyển phôi, trong thời gian nghiên cứu sẽ
được mời vào nghiên cứu nếu thỏa tiêu chuẩn nhận
và không có các tiêu chuẩn loại trừ.
Tiêu chuẩn nhận bệnh
• Bệnh nhân chuẩn bị điều trị TTTON
• Tuổi <43
• Buồng tử cung bình thường trên khảo sát siêu âm
• Có ít nhất 1 phôi chất lượng tốt được cấy vào
tử cung
Tiêu chuẩn loại
• Đã thất bại từ 3 lần IVF trở lên
• Xin trứng
• IVM
• Ngưng chuyển phôi do nội mạc tử cung không
thuận lợi hoặc nguy cơ hội chứng quá kích buồng trứng
• Chuyển phôi sau ngày 2 (ngày 3 đến phôi nang)
• Chu kỳ trước đã tham gia nghiên cứu
Cỡ mẫu
Tỉ lệ thai lâm sàng sau TTTON ước tính của chúng
tôi với dân số nghiên cứu là 35% trên số chuyển phôi
tươi. Giả thuyết atosiban có thể giúp tăng 18% tỉ lệ
sinh sống tính trên chuyển phôi (Moraloglu et al.,
2010). Như vậy cần tối thiểu 130 bệnh nhân ở mỗi
nhóm, với độ mạnh 80% và ý nghĩa 5% (Sigmastat,
Jandel Scientific, San Rafael, CA, USA).
Cách chọn ngẫu nhiên
Vào ngày chuyển phôi bệnh nhân sẽ được tư vấn
Đặc tính Nhóm atosiban (n=150) Nhóm chứng (n=150) p
Tuổi vợ (năm) 30,9 +/- 4,1 30,8 +/- 5,6 0,87
Thời gian hiếm muộn (năm) 4,6 +/- 3,4 4,7 +/- 3,1 0,93
Loại hiếm muộn (nguyên phát) 72% 68,6% 0,28
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân ở hai nhóm
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản
17
Tạp Chí phụ sảN - 11(4), 15 - 19, 2013
và cam kết tham gia nghiên cứu. Sau đó, bệnh nhân
được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm atosiban
và nhóm chứng. Bệnh nhân sau khi hoàn tất thủ tục
nhận vào nghiên cứu sẽ nhận số thứ tự tuần tự của
nghiên cứu. Việc phân ngẫu nhiên 2 nhóm sẽ dựa
trên phương pháp ngẫu nhiên (ngẫu nhiên theo
block 4) của nghiên cứu. Việc tiêm truyền thuốc
hoặc dịch truyền sẽ được thực hiện bởi hai nữ hộ
sinh/điều dưỡng. Cả bệnh nhân và bác sĩ sẽ không
biết bệnh nhân thuộc nhóm nào. Việc mở mù chỉ
được thực hiện sau khi kết thúc thu thập số liệu của
nghiên cứu.
Cách cho thuốc trước và sau chuyển phôi
Bệnh nhân thuộc nhóm atosiban sẽ được truyền
atosiban 30 phút trước với liều khởi đầu là 6,75mg.
Sau đó, thuốc được pha loãng trong dung dịch muối
sinh lý để truyền tĩnh mạch tiếp tục với liều 18 mg/
giờ trong khoảng 30 phút, đến khi chuyển phôi (bơm
tiêm điện). Sau khi chuyển phôi, liều atosiban được
giảm xuống còn 6 mg/giờ, trong khoảng 2 giờ. Tổng
liều atosiban sử dụng trước và sau chuyển phôi là
37,5mg. Tổng lượng dung dịch sinh lý tiêm truyền
tĩnh mạch là 50ml. Nhóm đối chứng sẽ được tiêm/
truyền dung dịch muối sinh lý với thể tích và cách sử
dụng tương đương.
Chuyển phôi
Chuyển phôi được thực hiện tương tự cho tất
cả các bệnh nhân, theo phác đồ chuẩn của IVFAS.
Tối đa 4 phôi, trong đó có ít nhất 1 phôi tốt được
chuyển vào buồng tử cung của bệnh nhân vào ngày
thứ hai sau thụ tinh. Phác đồ hỗ trợ hoàng thể bao
gồm progesterone đặt âm đạo và estradiol uống.
Bệnh nhân có thai được khám và theo dõi thai theo
phác đồ thường qui. Thai lâm sàng được xác định khi
siêu âm nhìn thấy túi thai vào tuần thứ 6-7 của thai
kỳ sau TTTON.
Thu thập và phân tích số liệu
Yếu tố đánh giá kết quả nghiên cứu chính là tỉ lệ
thai lâm sàng sau TTTON. Yếu tố đánh giá kết quả
phụ là tỉ lệ làm tổ. Các đặc điểm sau đây sẽ được ghi
nhận trong nghiên cứu: tuổi vợ, thời gian vô sinh,
tổng liều FSH sử dụng, độ dày nội mạc tử cung, số
lượng noãn, số lượng phôi, số lượng phôi chuyển
Thông số Nhóm atosiban (n=150) Nhóm chứng (n=150) p
Tổng liều Fsh (iu) 2409,7 +/- 1028,2 2242,6 +/- 769,8 0,11
Độ dày NMTC (mm) 11,9 +/- 1,9 11,8 +/- 2,3 0,76
số noãn chọc hút 12,9 +/- 5,3 12,2 +/- 5,1 0,21
số phôi 8,1 +/- 3,9 7,6 +/- 3,5 0,21
Bảng 2. Các thông số điều trị TTToN chính
Nhóm atosiban (n=150) Nhóm chứng (n=150) p
số phôi chuyển 3,3 +/- 0,5 3,2 +/- 0,5 0,11
số phôi tốt chuyển 2,4 +/- 0,7 2,3 +/- 0,8 0,76
Tỉ lệ thai lâm sàng (%) 53,3 46,7 0,25
Tỉ lệ làm tổ (%) 22,9 23,7 0,79
Bảng 3. Chuyển phôi và kết quả có thai
vào buồng tử cung, số lượng phôi có chất lượng tốt
chuyển vào tử cung.
Các biến liên tục sẽ được mô tả bằng giá trị
trung bình +/- độ lệch chuẩn (đối với parametric
data). Các test thông kê sử dụng: Student’s T test,
Mann-Whitney-U test và Chi-square test, tùy từng
trường hợp. Giá trị p <0,05, được xem là có ý nghĩa
thống kê.
Kết quả
Từ tháng 5/2012 đến tháng 4/2013, có 300 trường
hợp đã được nhận vào nghiên cứu, 150 bệnh nhân
cho mỗi nhóm. Đặc điểm của 2 nhóm nghiên cứu khá
đồng nhất, theo tuổi vợ, thời gian hiếm muộn, loại
hiếm muộn (bảng 1).
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
hai nhóm về tổng liều FSH sử dụng trong kích thích
buồng trứng, độ dày nội mạc tử cung vào ngày
tiêm hCG, số noãn chọc hút và số phôi có được từ
chu kỳ điều trị. (bảng 2)
Số phôi chuyển vào buồng tử cung và số phôi
chất lượng tốt trong số các phôi chuyển là tương
đương giữa hai nhóm. Tỉ lệ phôi làm tổ cũng tương
đương giữa hai nhóm. Tỉ lệ thai lâm sàng có khuynh
hướng cao hơn ở nhóm atosiban, tuy nhiên sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê. (bảng 3)
Bàn luận
Đây là nghiên cứu ngẫu nhiên mù đôi đầu tiên
trên thế giới cho đến hiện nay về hiệu quả của
atosiban trên bệnh nhân TTTON tiên lượng trung
bình. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê giữa nhóm nghiên cứu và nhóm
chứng. Kết quả này khác với một nghiên cứu tương
tự của Moraloglu và CS. Các tác giả cho thấy tỉ lệ
thai lâm sàng tăng có ý nghĩa thống kê ở nhóm
nghiên cứu (46,7% so với 28,9%, p<0,05).[16] Tuy
nhiên, nghiên cứu này có chỉ có 90 bệnh nhân mỗi
nhóm, chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản theo ngày
chẵn lẻ và là nghiên cứu mở. Vì thế, thiết kế và cỡ
mẫu của nghiên cứu này đều yếu hơn nghiên cứu
của chúng tôi. Tuy nhiên, số liệu của chúng tôi
cũng cho thấy khuynh hướng tăng tỉ lệ có thai lâm
hồ MạNh TườNg, giaNg huỳNh Như, NguyễN Thị NgọC NhâN, LâM aNh TuấN, LươNg ThiệN Nghĩa, VươNg Thị NgọC LaNngHIÊn CỨu
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản
18
sàng ở nhóm atosiban. Nghiên cứu của chúng tôi là
một nhánh của một nghiên cứu đa trung tâm của 3
trung tâm khu vực châu Á với tổng cộng 800 bệnh
nhân ở 2 nhóm và kết quả theo dõi tới thai sinh
sống. Kết quả của nghiên cứu đa trung tâm, này sẽ
được chúng tôi công bố vào đầu năm 2014. Khi đó,
hiệu quả của atosiban trên TTTON sẽ được phân
tích và hiểu rõ hơn.
Vào năm 2011, chúng tôi tiến hành một nghiên
đoàn hệ, tiến cứu đánh giá cơn co tử cung trước
và sau khi truyền atosiban, đồng thời tính tỉ lệ thai
lâm sàng trên 71 trường hợp chuyển phôi trữ lạnh,
đã thất bại trung bình 4,8 chu kỳ điều trị trước (tử
3-12 chu kỳ). Kết quả nghiên cứu cho thấy atosiban
làm giảm cơn co tử cung có ý nghĩa thống kê trên
71 trường hợp đã thất bại nhiều lần trước đó và tỉ lệ
thai lâm sàng sau chuyển phôi trữ tăng đến 43,7%
(31/71).[17]
Từ kết quả của 2 nghiên cứu này trên bệnh nhân ở
Việt Nam, chúng tôi cho rằng atosiban không có hiệu
quả trên tất cả bệnh nhân TTTON nhưng có thể có tác
dụng thật sự trên một số đối tượng bệnh nhân TTTON,
đặc biệt trên nhóm bệnh nhân thất bại nhiều lần.
Cơ chế tác dụng của atosiban có thể là do giảm
cơn co tử cung [10], [11], [12] và giúp tăng tưới máu, cải
thiện chất lượng nội mạc tử cung,[9] từ đó tăng tỉ lệ
làm tổ và tỉ lệ thai lâm sàng. [16] ,[17]
Atosiban không có tác dụng hại trên phôi.[13]
Atosiban đã được công nhận sử dụng chính thức
tại Việt Nam với tác dụng là giảm cơn co tử cung
để điều trị dọa sinh non trong nhiều năm qua, với
tỉ lệ tác dụng phụ rất thấp. Các tác dụng phụ được
ghi nhận trong y văn trên phụ nữ đang mang thai,
bao gồm tăng nhịp tim (5,5%), nôn (11,9%), nhức
đầu (9,7%), chóng mặt, lo lắng (1,1%) và lạnh rung
(1,4%).[18],[19],[20] Tuy nhiên, các tần suất này xuất
hiện tương đương ở cả 2 nhóm sử dụng atosiban
và giả dược (đối chứng), trong một nghiên cứu
ngẫu nhiên, mù đôi để điều trị dọa sinh non.[21] Do
đó, có thể xem atosiban là an toàn và có tác dụng
phụ không đáng kể trên phụ nữ mang thai. Trong
nghiên cứu này, chúng ta áp dụng điều trị cho phụ
nữ khỏe mạnh và chưa có thai, do đó, độ an toàn
có thể cao hơn.
Cả hai nhóm nghiên cứu và nhóm chứng đều có tỉ
lệ có thai lâm sàng và tỉ lệ làm tổ khá cao so với tỉ lệ có
thai chung của TTTON tại trung tâm IVFAS vào cùng
thời điểm. Việc truyền dịch trước, trong và sau chuyển
phôi có thể tạo cho bệnh nhân cảm giác an tâm, giúp
hạn chế đi lại trước và sau chuyển phôi nhằm tạo môi
trường ổn định cho phôi trong buồng tử cung, điều
này cũng có thể góp phần làm tăng khả năng làm tổ
của phôi.. Đây có thể là một tác dụng có lợi, không
phải do thuốc (placebo effect) làm tăng khả năng có
thai ở cả hai nhóm.
Chi phí của truyền atosiban trong chuyển phôi là
không cao so với chi phí TTTON và chuyển phôi. Với
cơ chế tác dụng của atosiban là giảm cơn co và cải
thiện nội mạc tử cung, atosiban nên được chỉ định ở
những trường hợp chuyển phôi tươi và chuyển phôi
đông lạnh sau đây: thất bại nhiều lần (>2 lần), cơn co
tử cung tăng, nội mạc tử cung không thuận lợi. Đối
với một số bệnh nhân, việc truyền dịch, nghỉ ngơi sau
chuyển phôi có thể có tác động tâm lý, tích cực đến
hiệu quả điều trị.
Kết luận
Atosiban sử dụng trước, trong và sau khi chuyển
phôi tươi trên bệnh nhân TTTON có tiên lượng
bình thường có khuynh hướng giúp tăng tỉ lệ thai
lâm sàng, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê.
Cần thêm các nghiên cứu sử dụng atosiban ở
những phân nhóm bệnh nhân khác nhau trong
TTTON để xác nhận nhóm bệnh nhân có thể có lợi
nhất khi sử dụng atosiban khi chuyển phôi.
Tài liệu tham khảo
1. Fanchin R. Uterine dynamics: impact on the human
reproduction process. Reprod. Biomed. Online. 2009; 18
(Suppl. 2), 57–62.
2. Fanchin R, Righini C, Olivennes F, Taylor S, De Ziegler
D, Frydman R. Uterine contractions at the time of embryo
transfer alter pregnancy rates after in-vitro fertilization. Hum.
Reprod. 1998; 13, 1968–1974.
3. Richter ON, Kubler K, Schmolling J, Kupka M, Reinsberg
J, Ulrich U, van der Ven H, Wardelmann E, van der Ven K.
Oxytocin receptor gene expression of estrogen-stimulated
human myometrium in extracorporeally perfused non-
pregnant uteri. Mol. Hum. Reprod. 2004; 10, 339–346.
4. Liedman R, Hansson SR, Howe D, Igidbashian S, McLeod
A, Russell RJ, Akerlund M. Reproductive hormones in plasma
over the menstrual cycle in primary dysmenorrhea compared
with healthy subjects. Gynecol. Endocrinol. 2008; 24, 508–513.
5. Ayoubi JM, Epiney M, Brioschi PA, Fanchin R,
Chardonnens D, De Ziegler D. Comparison of changes in
uterine contraction frequency after ovulation in the menstrual
cycle and in in vitro fertilization cycles. Fertil. Steril. 2003; 79,
1101–1105.
6. Bernabeu R, Roca M, Torres A, Ten J. Indomethacin effect
on implantation rates in oocyte recipients. Hum. Reprod. 2006;
21, 364–369.
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản
19
Tạp Chí phụ sảN - 11(4), 15 - 19, 2013
7. Moon HS, Park SH, Lee JO, Kim KS, Joo BS. Treatment
with piroxicam before embryo transfer increases the
pregnancy rate after in vitro fertilization and embryo transfer.
Fertil. Steril. 2004; 82, 816–820.
8. Tsirigotis M, Pelekanos M, Gilhespie S, Gregorakis S,
Pistofidis G. Ritodrine use during the peri-implantation period
reduces uterine contractility and improves implantation and
pregnancy rates post-ivf. Hum. Reprod. 2000; 15, (Abs. Bk 1),
O-024, 10.
9. Vedernikov Y, Betancourt A, Shi S, Shi L, Reinheimer T,
Garfield R. Oxytocin antagonistic effect of barusiban and
atosiban in isolated uterine artery from late pregnant rats.
In: Annual scientific meeting of the Society for Gynecologic
Investigation. Toronto, Canada. 2006.
10. Blockeel C, Pierson R, Popovic-Todorovic B, Visnova
HA, Garcı´a-Velasco HA, Mra´zek M, Barri PN, Pierzynski
P, Kuczynski W, Devroey P, Breinholt V, Erichsen L, Klein
BM, Arce JC. (2009) Effects of barusiban and atosiban on
frequency of uterine contractions in the luteal phase after
stimulation: a randomized placebo controlled trial. Hum.
Reprod. 2009; 24 (Suppl. 1), i26.
11. Pierson R, Deptuch JJ, Invik J, Klein BM, Breinholt V,
Arce JC. Reproducibility of uterine contractility assessments
based on transvaginal ultrasound cine-loop recordings. Hum.
Reprod. 2009; 24 (Suppl. 1), i103.
12. Visnova H, Coroleu B, Piro M, Blockeel C, Mrazek M,
Arce JC. Barusiban and atosiban for reduction of uterine
contractions on day of embryo transfer do not alter the
endocrine profile at time of implantation. Hum. Reprod. 2009;
24 (Suppl. 1), i178.
13. Pierzynski P, Gajda B, Smorag Z, Rasmussen AD,
Kuczynski W. Effect of atosiban on rabbit embryo development
and human sperm motility. Fertil. Steril. 2007; 87, 1147–1152.
14. Pierzynski P, Reinheimer TM, Kuczynski W. Oxytocin
antagonists may improve infertility treatment. Fertil. Steril.
2007; 88, e19–e22.
15. Liang YL, Kuo TC, Hung KH, Chen TH, Wu MH. Oxytocin
antagonist for repeated implantation failure and delay of
delivery. 2009; Taiwan J. Obstet. Gynecol. 48, 314–316.
16. Moraloglu O, Tonguc E, Var T, Zeyrek T, Batıoglu S.
Treatment with oxytocin antagonists before embryo transfer
may increase implantation rates after IVF. Reproductive
BioMedicine Online. 2010; 21(4): 338– 343.
17. Vuong TNL, Vu NK, Giang HN, Ho MT. Atosiban
improves implantation and pregnancy rates in patients with
repeated implantation failure. Reproductive BioMedicine
Online. 2012; 25 (3): 254– 260.
18. Moutquin JM, The worldwide atosiban versus beta-
agonists survey group (2001) Effectiveness and safety of
the oxytocin antagonist atosiban versus beta-adrenergic
agonists in the treatment of preterm labour. Br. J. Obstet.
Gynaecol. 2001; 108:133-142.
19. Tsatsaris V, Carbonne B, Cabrol D (2004). Atosiban for
preterm labour. Drugs. 2004; 64: 375-382.
20. Husslein P, Roura LC, Dudenhausen WJ, Helmer H,
Frydman R, Rizzo N, Schneider R. Atosiban versus usual care
for the management of preterm labor. J. Perinat. Med. 2007;
35:305-313.
21. Romero R, Sibai BM, Sanchez-Ramos L, Valenzuela
GJ, Veille JC, Tabor B, Perry KG, Varner M, Goodwin TM, Lane
R, Smith J, Shangold G, Creasy GW. An oxytocin receptor
antagonist (atosiban) in the treatment of preterm labor:
a randomized, double-blind, placebo-controlled trial with
tocolytic rescue. Am J Obstet Gynecol. 2000; 182, 1173-1183.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_ngau_nhien_mu_doi_ve_hieu_qua_su_dung_atosiban_kh.pdf