Chất béo trong nấm bào ngư vàng chiếm tỉ lệ thấp
(1,5%). Theo Bano, Z. & Rajarathnam. S.,1981, nhìn
chung chất béo trong nấm bào ngư thấp từ 1,04 - 9,8%,
song tổ hợp chất béo khá phong phú và có giá trị đặc
biệt, hàm lượng acid béo chưa no chiếm khoảng 87,08%
và 12.92% là các acid béo no. Acid oleic là acid béo chủ
yếu chiếm khoảng 79,4% tổng lượng acid béo của nấm
bào ngư, theo sau là acid palmitic chiếm 14,3%, acid
linoleic là 6.3% [10].
Hàm lượng khoáng tổng số trong nấm bào ngư
vàng chiếm tỉ lệ cao (7.42%). Hàm lượng K và P là
thành tố chính của tro ở hầu hết các loại nấm, hàm
lượng Cu dao động từ 12,2 - 21,9ppm. Ngoài ra, trong
nấm còn chứa các loại nguyên tố khoáng khác như: Mg,
P, Fe, Zn, Mn [10].
Vitamin là một trong những yếu tố rất quan trọng
đánh giá giá trị dinh dưỡng. Trong nấm bào ngư hiện
diện rất nhiều vitamin, riêng đối nấm bào ngư vàng
nghiên cứu phân tích được hàm lượng vitamin C là
77mg/100g chất khô, vitamin B1 3,4 mg/100g chất khô.
Năm 2006, Yu-Ling Lee và cộng sự đã tiến hành khảo
sát một số hợp chất chống oxi hóa từ nấm bào ngư vàng
trên cồn, trên nước lạnh và nước nóng. Kết quả cho
thấy, dịch chiết trên cồn từ quả thể nấm cũng như từ tơ
nấm chứa một số chất có hoạt tính sinh học cao như:
Ascorbic acid, β-Carotene, α-Tocopherol γ-Tocopherol,
ε-Tocopherol và phenol tổng [20]. Sự phong phú của
các vitamin trong nấm là một ưu thế đặc biệt có thể so
sánh với các loại rau quả, song hơn hẳn so với thịt cá,
nghĩa là nấm là thực phẩm đặc biệt phối hợp các đặc
tính quý của rau quả và thịt cá, rất thích hợp cho những
người ăn chay.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu nhân giống và trồng nấm bào ngư vàng (pleurotus citronopileatus) tại thành phố Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
UED Journal of Sciences, Humanities & Education – ISSN 1859 - 4603
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC
Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4B(2015), 9-15 | 9
a, b Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
* Liên hệ tác giả
Nguyễn Thị Bích Hằng
Email: bichhang2007@gmail.com
Nhận bài:
15 – 08 – 2015
Chấp nhận đăng:
30 – 11 – 2015
NGHIÊN CỨU NHÂN GIỐNG VÀ TRỒNG NẤM BÀO NGƯ VÀNG
(PLEUROTUS CITRONOPILEATUS) TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Nguyễn Thị Bích Hằnga*, Ngô Thị Hồng Vânb
Tóm tắt: Nấm bào ngư vàng (Pleurotus citronopileatus) là một loại nấm ăn có vị ngọt đậm đà, ngon và
đặc biệt nấm có mùi thơm và màu sắc hấp dẫn. Đây là loại nấm có hàm lượng dinh dưỡng và dược tính
cao, có lợi cho sức khỏe. Nó có chứa đầy đủ các acid amin cần thiết, các acid béo không no và các chất
chống oxi hóa: carotene, tocopherol, acid ascorbic ...Tuy nhiên, ở nước ta, nguồn giống để cung cấp cho
sản xuất còn hạn chế và chưa ổn định cả về số lượng và chất lượng. Trong nghiên cứu này, môi trường
PDA+ (PDA + pepton + cao nấm men) và PDAR (PDA + dịch chiết rơm rạ) được dùng làm môi trường
nhân giống cấp I. Môi trường thích hợp để nhân giống cấp II là MT2.1 (thóc 98,5%, CaCO3 1,5%) và
MT2.2 (que sắn 93,5%, CaCO3 1,5%, cám gạo 2%, bột ngô 3%). Giống nấm bào ngư vàng được trồng
thử nghiệm trên môi trường mùn cưa cao su cho năng suất sinh học đạt 28,9%. Sản phẩm nấm thu
hoạch có màu vàng đặc trưng, thơm ngon và có giá trị dinh dưỡng cao.
Từ khóa: nấm bào ngư vàng; nhân giống; hệ sợi; trồng nấm; nấm ăn
1. Giới thiệu
Nấm ăn là nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng
cao. Hàm lượng protein chiếm 4-9% theo trọng lượng
tươi và có loài chiếm đến 45-50% theo trọng lượng khô.
Nấm chứa hầu hết các loại acid amin quan trọng, trong
đó có khoảng 25-35% là acid amin dạng tự do. Hàm
lượng muối khoáng trong nấm rất cao, cao hơn trong
thịt và cá. Đặc biệt, trong nấm chứa nhiều loại vitamin
hoàn toàn không có trong nhiều loại rau như B12, B2. Vì
tỷ lệ hydratcarbon thấp và hàm lượng acid forlic cao nên
có thể dùng nấm để chữa bệnh đái tháo đường và thiếu
máu. Nấm còn dùng để chữa bệnh béo phì, chống bệnh
tim mạch, bệnh phổi, bệnh tê thấp và chống ung thư [4].
Việt Nam là một nước nông nghiệp với nguồn phụ
phẩm, phế phẩm giàu chất xơ và chất gỗ hết sức phong
phú. Tỷ lệ nông dân chiếm phần lớn dân số, lại có nhiều
thời gian nông nhàn và rất muốn có thêm nghề phụ để
nâng cao thu nhập. Bên cạnh đó, nước ta lại có nhiều
vùng khí hậu không giống nhau, vì vậy có thể trồng nấm
quanh năm với hàng chục loại nấm ăn và nấm dược liệu
khác nhau. Tuy nhiên, chủng loại nấm ăn được nghiên
cứu và ứng dụng trồng rộng rãi chưa được phổ biến, chủ
yếu là nấm rơm, nấm mèo, nấm bào ngư trắng, bào ngư
xám, nấm linh chi. Trong khi đó, nấm bào ngư vàng
(Pleurotus citronopileatus) là loại thực phẩm ăn ngon,
có giá trị dinh dưỡng và dược tính cao lại chưa được
chú ý. Nấm bào ngư vàng có quả thể to trung bình; mũ
nấm có đường kính khoảng 2-10cm, trơn bóng, màu từ
vàng tươi đến vàng cỏ; thịt nấm có màu trắng; cuống
mọc thành nhánh, màu trắng đến vàng, dài khoảng 2-
10cm. Năm 2013, S.Rushita và cộng sự đã nghiên cứu
sự ảnh hưởng của sợi nấm bào ngư vàng đến hàm lượng
glucose trong máu, insulin và bệnh tiểu đường loại 2.
Kết quả thử nghiệm cho thấy chuột có bổ sung dịch
chiết từ nấm bào ngư vàng với liều lượng 500 và
1000mg/1kg thể trọng thì hàm lượng glucose trong máu
và catalase giảm đáng kể và hàm lượng insulin tăng cao
hơn so với nhóm không được điều trị. Nghiên cứu này
cho thấy nấm bào ngư vàng có hoạt động chống tiểu
đường tuyệt vời và do đó có tiềm năng lớn như một
thành phần trong các sản phẩm y tế về chữa tiểu đường
[15]. Theo Jang J và cộng sự (1994) xác định được 6
Nguyễn Thị Bích Hằng, Ngô Thị Hồng Vân
10
phân đoạn FIII-1, FIII-1-a, FIII-1-b, FIII-2, FIII-2-a và
FIII-2-b cho thấy kết quả khả quan về tỉ lệ ức chế khối u
và suy giảm hoàn toàn khối u khi so sánh với PS–K
[10]. Jicheng Liu và cộng sự đã phân lập được một
glucan hòa tan trong nước từ nấm bào ngư vàng bằng
sắc kí trên DEAE Sepharose Fast Flow, cột Sephadex G
- 200 và PCP-W1 (Mw=45kDa). Nghiên cứu này đã tìm
ra được công thức của β- glucan trong nấm bào ngư
vàng – đây là chất có hoạt tính sinh học chống lại khối u
và ung thư, chống phơi nhiễm bức xạ, chữa lành vết
thương, làm giảm các triệu chứng viêm mũi dị ứng,
viêm khớp [11]. Theo Ying (1987), bào ngư vàng có khả
năng điều trị khí thủng phổi, làm giảm lượng cholessterol
trong máu [19]. Zhang J và cộng sự cho thấy dịch chiết
polisaccharid tan và không tan trong nước chiết xuất từ
nấm bào ngư vàng có tác dụng chống sarcoma 180 trên
chuột [18].
Mục tiêu của nghiên cứu này là xây dựng quy trình
nhân giống để triển khai trồng rộng rãi nấm bào ngư
vàng, vừa đa dạng hóa các sản phẩm nấm trên địa bàn
miền Trung, vừa tạo ra sản phẩm nấm ăn, giàu dinh
dưỡng và có giá trị dược liệu cao.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Giống gốc nấm bào ngư vàng (Pleurotus
citrinopileatus) được thu nhận từ Trung tâm Ứng dụng
Khoa học và Công nghệ, tỉnh Lâm Đồng.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp khảo sát ảnh hưởng của
môi trường nuôi cấy đến sự sinh trưởng của
giống cấp I [1],[2]
Dùng que cấy vô trùng chuyển 1 mẫu giống từ ống
giống gốc sang môi trường cấp I. Mỗi ống giống gốc
nhân được 10 - 15 ống giống cấp I. Giống cấp I được
nhân trên 5 loại môi trường khác nhau:
- Môi trường thạch - khoai tây (PDA): khoai tây
200g, glucose 20g, agar 20g, nước cất 1l.
- Môi trường thạch - khoai tây cải tiến (PDA+):
khoai tây 200g, glucose 20g, pepton 2g, cao nấm men
2g, agar 20g, nước cất 1 lít.
- Môi trường Hansen (HS): glucose 50g, pepton
10g, K2HPO4 3g, MgSO4. 7H2O 2,5g, cao nấm men 1g,
agar 20g, nước cất 1 lít.
- Môi trường Agricus (AR): Khoai tây: 200g,
pepton: 2g, NaHPO4: 2g, MgSO4.7H2O: 0,5g, Glucose
(đường kính hoặc maltose): 20g, agar: 20g, Nước: 1 lít.
- Môi trường thạch - khoai tây, rơm (PDAR): khoai
tây 200g, glucose 20g, rơm khô (dịch chiết rơm) 100g,
agar 20g, nước cất 1 lít.
2.2.2. Khảo sát ảnh hưởng của môi trường dinh
dưỡng đến quá trình nhân giống cấp II [1],[2]
Dùng que cấy vô trùng chấn 1/4 - 1/3 phần giống
trong ống giống cấp I và chuyển phần đó sang môi
trường cấp II. Hơ miệng chai và hơ nhanh nút bông của
chai trên ngọn lửa đèn cồn và đậy nút bông lại. Trong
nghiên cứu này, giống cấp II được nhân trên 3 môi
trường nghiên cứu như sau:
- Môi trường II.1: thóc 98,5%, CaCO3 1,5%
- Môi trường II.2: que sắn 93,5%, CaCO3 1,5%,
cám gạo 2%, bột ngô 3% ;
- Môi trường II.3: lõi ngô 93,5%, CaCO3 1,5%, cám
gạo 2%, bột ngô 3%
2.2.3. Phương pháp nuôi trồng thử nghiệm [2], [3]
Giống cấp II thu được tiến hành trồng trên môi
trường gồm: 94,34% mùn cưa cao su đã ủ vôi, 2,36%
bột ngô, 2,36% cám gạo và 0,94% bột nhẹ. Đóng bịch
với khối lượng 1,4 kg hỗn hợp trên và bịch được hấp ở
nồi hấp cách thủy trong 12 giờ.
2.2.4. Phương pháp đánh giá năng suất sinh
học của nấm [17]
Năng suất sinh học = Khối lượng nấm tươi x
100/khối lượng nguyên liệu
2.2.5. Phương pháp hóa sinh [6] [9]
Sử dụng các phương pháp hóa sinh để đánh giá
thành phần dinh dưỡng của nấm bào ngư vàng.
+ Xác định độ ẩm của nấm bằng phương pháp sấy
khô đến khối lượng không đổi.
+ Xác định hàm lượng protein bằng phương pháp
Kjeldahl.
+ Xác định hàm lượng cellulose.
+ Xác định hàm lượng lipid bằng phương pháp
Soxhlet.
+ Xác định hàm lượng tro bằng phương pháp nung
đến khối lượng không đổi.
+ Xác định hàm lượng vitamin C bằng phương
pháp chuẩn độ Iot.
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4B(2015), 9-15
11
+ Định lượng vitamin B1 bằng phương pháp huỳnh
quang.
2.2.6. Phương pháp đánh giá sự phát triển của
hệ sợi
- Phương pháp quan sát màu sắc, trạng thái và độ
dày của hệ sợi[1]
+ Hệ sợi đạt yêu cầu: hệ sợi màu trắng, đồng nhất,
mọc khỏe, thẳng và chia nhánh đều, thuần chủng.
+ Hệ sợi không đạt yêu cầu: hệ sợi đổi màu (vết
đậm, vết nhạt), có dịch màu vàng.
+ Hệ sợi không phát triển: không có hiện tượng bung
sợi, mẫu chết, nhiễm vi sinh vật.
- Phương pháp đo sự phát triển của chiều dài hệ
sợi và tính tốc độ lan sợi theo thời gian [10]: Cứ 2 - 3
ngày đo hệ sợi 1 lần bằng thước có độ chia 1mm.
2.2.7. Phương pháp xử lí số liệu
Các kết quả phân tích được tính toán và xử lí bằng
toán thống kê sinh học trên chương trình MS-Excel.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy đến
sự phát triển hệ sợi giống cấp I
Hình 1. Sự sinh trưởng của hệ sợi trên các môi trường
nhân giống cấp I
Để nghiên cứu sự ảnh hưởng của môi trường đến nhân
giống cấp I, giống gốc được nuôi cấy trên 5 môi trường
khác nhau (PDA, PDA+, HS, AR, PDAR) trong ống
nghiệm. Kết quả được đánh giá bằng phương pháp đo
chiều dài hệ sợi, sau khi cấy cứ 2 ngày tiến hành đo chiều
dài hệ sợi một lần, kết quả được trình bày ở Hình 1.
Kết quả ở Hình 1 cho ta thấy trong các môi trường
dinh dưỡng khác nhau thì sự phát triển của hệ sợi nấm
cấp I cũng khác nhau. Sau khi cấy giống 2 ngày, hệ sợi
bắt đầu “ăn” vào môi trường. Trên môi trường PDA+ hệ
sợi phát triển nhanh nhất, hệ sợi ăn trắng thạch sau 9
ngày cấy giống, sợi tơ bung đều, ít bị nhiễm vi sinh vật,
tơ ăn dày, màu trắng. Tiếp đến là môi trường PDAR, hệ
sợi ăn trắng thạch sau 11 ngày nuôi cấy. Trên môi
trường AR và HS, hệ sợi phát triển chậm, tơ thưa, ít
đồng nhất và rất dễ bị nhiễm vi sinh vật. Điều này cho
thấy, hệ sợi nấm cấp I phát triển tốt trên các môi trường
có khoai tây, đặc biệt khi bổ sung thêm các chất dinh
dưỡng chứa hàm lượng nitơ cao cũng như các vi chất
(vitamin và khoáng chất) từ dịch chiết rơm sẽ làm hệ sợi
phát triển tốt hơn, trên môi trường PDA hệ sợi ăn trắng
thạch sau 13 ngày lâu hơn so với PDA+ (có bổ sung
pepton và cao nấm men) và PDAR (bổ sung dịch chiết
rơm). Theo Nguyễn Lân Dũng, môi trường gồm rơm rạ:
200g (rửa sạch, cắt nhỏ); đường kính: 20g; (NH4)2SO4:
3g; agar: 20g; nước: 1 lít cũng là một trong những môi
trường thích hợp để phân lập, nhân giống và giữ giống
các loại nấm nuôi trồng [2]. Rơm rạ chứa khoảng 0,6%
N, 0,1% P cũng như S, 1,5% K, 5% Si và 40%C
(Ponnamperuma FN.1984) [14], vì vậy bổ sung dịch
chiết rơm rạ vào môi trường nhân giống nấm nhằm bổ
sung một số chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển
của hệ sợi. Theo Bùi Bá Hân và cộng sự, môi trường
thích hợp để nhân giống nấm bào ngư trắng là: cao nấm
men 2g, KH2PO4 2g, K2HPO4 0,46g, MgSO4.7H2O
0,5g, glucose 20g, agar 20g, pH 6,5 [5]. Có thể thấy,
mỗi chủng nấm khác nhau thì thích hợp với môi trường
nhân giống cấp I khác nhau.
Nhằm chọn ra môi trường tối ưu cho việc nhân
giống cấp I, sợi nấm được nuôi cấy trong đĩa petri trên 2
môi trường PDA+ và PDAR để xác định đường kính
khuẩn lạc, kết quả cho thấy tốc độ phát triển của hệ sợi
ở trên 2 môi trường này là như nhau, sau 7 ngày sợi tơ
nấm ăn kín bề mặt thạch, có màu trắng sữa và đồng
nhất, tơ chia nhánh đều. Vì vậy, môi trường PDA+ và
PDAR được lựa chọn để giữ giống và tiến hành nhân
giống cấp II. Hiện nay, Trung tâm Ứng dụng Khoa học
và Công nghệ tỉnh Lâm Đồng chỉ ứng dụng nhân giống
cấp I nấm bào ngư vàng trên môi trường PDA+. Từ kết
quả nghiên cứu có thể sử dụng PDA+ và PDAR để nhân
giống cấp I. Nguyên liệu của môi trường PDAR hoàn
toàn dễ tìm, giá thành rẻ, phù hợp với việc nhân giống
đại trà tại địa phương.
Nguyễn Thị Bích Hằng, Ngô Thị Hồng Vân
12
Hình 3. Khuẩn lạc nấm (a) sau 3 ngày cấy giống, sợi
nấm trên PDAR (b) và PDAR (c) sau 7 ngày cấy giống
3.2. Ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng
đến sự sinh trưởng của giống cấp II
Nguồn dinh dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
nhân giống và nó là một trong những thành phần quan
trọng trong sự phát triển của sợi nấm. Môi trường nhân
giống cấp II dùng để nhân giống nấm với số lượng tăng
dần. Môi trường giống cấp II có thể pha chế bằng nhiều
công thức khác nhau, tất cả đều là môi trường rắn, xốp
thường sử dụng với các loại nguyên liệu chính như: ngũ
cốc, cám, mùn cưa, hạt thóc, trấu... Trong nghiên cứu
này, nguồn cơ chất chính là thóc (MT2.1), thân cây sắn
(MT2.2) và lõi ngô (MT2.3) được dùng nghiên cứu
nhân giống cấp II. Kết quả được thể hiện ở Hình 4.
Hình 4. Chiều dài hệ sợi trên các môi trường nhân
giống cấp II
Qua kết quả Hình 4 có thể thấy hệ sợi phát triển
mạnh trên cả 3 môi trường, hệ sợi có màu trắng sữa và
có độ đồng nhất cao. Sau 15 ngày, hệ sợi trên môi
trường thóc và que sắn đã ăn trắng bịch, trên môi trường
lõi ngô chậm hơn, sau 17 ngày thì trắng bịch. Que sắn
và lõi ngô dù chứa hàm lượng dinh dưỡng ít hơn lúa
nhưng trong môi trường do có bổ sung thêm cám bắp,
cám gạo nên hệ sợi nấm vẫn phát triển tốt. Vì vậy có thể
tận dụng những phế phẩm nông nghiệp để nhân giống
cấp II cũng như cấp III nấm bào ngư vàng. Tuy nhiên, ở
MT2.3, do lõi ngô dễ hút ẩm vì vậy môi trường sẽ có độ
ẩm cao hơn 2 môi trường còn lại nên làm cho nấm dễ bị
nhiễm vi sinh vật hơn, tỉ lệ nhiễm là 15%, sợi nấm bị
nhày và hóa vàng. Giống nấm thường bị nhiễm mốc
xanh, mốc trắng do nguyên liệu chưa được xử lí kĩ hoặc
do thao tác cấy và các dụng cụ cấy. Cần loại bỏ ngay
những mẫu phát hiện nhiễm để tránh lây lan rộng. Vậy,
việc sử dụng môi trường hạt hay que đều thích hợp cho
việc nhân giống cấp II nấm bào ngư vàng. Đây là các
môi trường dễ kiếm, dễ thực hiện và cũng là môi trường
có thể cung cấp số lượng giống nhiều mà tiết kiệm được
chi phí. Trung tâm Ứng dụng khoa học và công nghệ
tỉnh Lâm Đồng chỉ cung cấp giống cấp II trên môi
trường hạt lúa. Ở khu vực miền Trung, sau khi thu
hoạch củ sắn, người dân thường phơi khô thân sắn làm
nguồn cung cấp nhiên liệu hoặc bỏ đi, việc tận dụng phế
phẩm nông nghiệp để sản xuất giống nấm giúp giảm chi
phí sản xuất giống nấm, giảm ô nhiễm môi trường và
tận dụng được lao động nông nhàn. Giống cấp II từ
MT2.1 và MT2.2 được dùng để trồng thử nghiệm trên
mùn cưa cao su.
Hình 5. Giống nấm cấp II trên các môi trường sau 9 ngày
3.3. Đánh giá năng suất và chất lượng nấm bào
ngư vàng trồng thử nghiệm
Sau khi cấy giống từ 25 - 27 ngày thì sợi nấm ăn
trắng bịch, tiến hành rạch bịch và sau 30 đến 35 ngày
nấm bắt đầu ra quả thể; quả thể nấm có tai nhỏ hơn nấm
bào ngư trắng và bào ngư xám, đường kính trung bình
3,5cm, nấm có màu vàng tươi đẹp, thơm ngon và có giá
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4B(2015), 9-15
13
trị dinh dưỡng cao; sau 2 tháng thu hoạch năng suất nấm
đạt 28,9%. Theo khảo sát từ các cơ sở trồng nấm tại
Lâm Đồng thì hiệu suất nấm bào ngư vàng từ 30-32%
trên cơ chất mùn cưa; sự chênh lệch về năng suất là do
điều kiện thời tiết cũng như mùa vụ nuôi trồng. Zeng-
Chin Liang và cộng sự thì cho rằng sự kết hợp mùn cưa
xoài với 50% chất thải mùn cưa sau khi trồng nấm đông
cô là cơ chất tốt nhất để trồng nấm bào ngư vàng với
hiệu suất sinh học đạt 38,6% [16]. Trong một nghiên
cứu khác, Zeng-Chin Liang và cộng sự đã tiến hành
nghiên cứu trồng nấm bào ngư vàng trên cỏ. Kết quả
cho thấy hiệu quả sinh học của nấm bào ngư vàng trồng
trên cỏ cao hơn 40,75% so với công thức đối chứng
trong vòng 3 tháng [17]. Mohan P. Singh và Vinay
Kumar Singh đã đánh giá được năng suất và phân tích
chất lượng của nấm bào ngư vàng khi được trồng trên
các môi trường khác nhau. Kết quả cho thấy sự kết hợp
của 70% rơm rạ kết hợp với các chất thải khác cho kết
quả tốt nhất. Sự khác nhau về hiệu suất sinh học này là
do chủng nấm, môi trường dinh dưỡng cũng như điều
kiện sinh thái. Trong nghiên cứu này, giống nấm bào
ngư vàng được trồng trên môi trường gồm 94,34% mùn
cưa cao su đã ủ vôi, 2,36% bột ngô, 2,36% cám gạo và
0,94% bột nhẹ, môi trường này rất thích hợp trồng nấm
bào ngư trắng và xám nhưng hiệu quả trên nấm bào ngư
vàng chưa cao. Việc giảm hàm lượng mùn cưa cao su
xuống và tăng hàm lượng các nguyên liệu có khả năng
tạo độ xốp (rơm rạ, cỏ, mùn cưa đã qua sử dụng) cho
cơ chất có thể làm tăng sản lượng nấm bào ngư vàng.
Sau khi thu hoạch quả thể, quả thể nấm bào ngư
vàng được thu hái và phân tích một số thành phần dinh
dưỡng, kết quả được thể hiện ở Bảng 1.
Kết quả phân tích cho thấy nấm bào ngư vàng có
đầy đủ các chất dinh dưỡng thiết yếu và cân đối, hàm
lượng nước khá lớn (90,08%), đặc biệt hàm lượng
protein, chất xơ và các chất khoáng chiếm tỉ lệ cao trong
chất khô. Kết quả này phù hợp với đặc tính chung của
các loại nấm bào ngư. Theo Lê Xuân Thám, hàm lượng
protein của nấm bào ngư không cao bằng thịt cá, tuy
nhiên trong nấm bào ngư có chứa đầy đủ các acid amin
không thay thế: cysteine, methionine, lysin, tryptophan,
leucine, isoleucine Mohan P. Singh và Vinay Kumar
Singh đã nghiên cứu trồng nấm bào ngư vàng trên rơm rạ
kết hợp với các phế thải khác, kết quả cho thấy nấm này
có chứa 6 loại amino acid thiết yếu: leucine, isoleucine,
valine, threonine, methionine phenylalanine [13].
Bảng 1. Thành phần hóa sinh cơ bản của nấm bào ngư vàng
TT Thành phần Hàm lượng
1 Độ ẩm 90,08%
2 Protein 19,7% chất khô
3 Lipit 1,5 % chất khô
4 Khoáng tổng số 7,42 % chất khô
5 Xenlulose 20,5 % chất khô
6 Vitamin C 77mg/100g chất khô
7 Vitamin B1 3,4mg/100g chất khô
Chất béo trong nấm bào ngư vàng chiếm tỉ lệ thấp
(1,5%). Theo Bano, Z. & Rajarathnam. S.,1981, nhìn
chung chất béo trong nấm bào ngư thấp từ 1,04 - 9,8%,
song tổ hợp chất béo khá phong phú và có giá trị đặc
biệt, hàm lượng acid béo chưa no chiếm khoảng 87,08%
và 12.92% là các acid béo no. Acid oleic là acid béo chủ
yếu chiếm khoảng 79,4% tổng lượng acid béo của nấm
bào ngư, theo sau là acid palmitic chiếm 14,3%, acid
linoleic là 6.3% [10].
Hàm lượng khoáng tổng số trong nấm bào ngư
vàng chiếm tỉ lệ cao (7.42%). Hàm lượng K và P là
thành tố chính của tro ở hầu hết các loại nấm, hàm
lượng Cu dao động từ 12,2 - 21,9ppm. Ngoài ra, trong
nấm còn chứa các loại nguyên tố khoáng khác như: Mg,
P, Fe, Zn, Mn [10].
Vitamin là một trong những yếu tố rất quan trọng
đánh giá giá trị dinh dưỡng. Trong nấm bào ngư hiện
diện rất nhiều vitamin, riêng đối nấm bào ngư vàng
nghiên cứu phân tích được hàm lượng vitamin C là
77mg/100g chất khô, vitamin B1 3,4 mg/100g chất khô.
Năm 2006, Yu-Ling Lee và cộng sự đã tiến hành khảo
sát một số hợp chất chống oxi hóa từ nấm bào ngư vàng
trên cồn, trên nước lạnh và nước nóng. Kết quả cho
thấy, dịch chiết trên cồn từ quả thể nấm cũng như từ tơ
nấm chứa một số chất có hoạt tính sinh học cao như:
Ascorbic acid, β-Carotene, α-Tocopherol γ-Tocopherol,
ε-Tocopherol và phenol tổng [20]. Sự phong phú của
các vitamin trong nấm là một ưu thế đặc biệt có thể so
sánh với các loại rau quả, song hơn hẳn so với thịt cá,
nghĩa là nấm là thực phẩm đặc biệt phối hợp các đặc
tính quý của rau quả và thịt cá, rất thích hợp cho những
người ăn chay.
Nguyễn Thị Bích Hằng, Ngô Thị Hồng Vân
14
4. Kết luận
Có thể mở rộng quy mô nhân giống và trồng nấm
bào ngư vàng để đa dạng hóa các sản phẩm nấm ăn tại
miền Trung.
Môi trường PDA+ và PDAR là môi trường thích
hợp để nhân giống cấp I, nấm có sợi tơ màu trắng sữa,
độ đồng nhất cao và đường kính khuẩn lạc lớn.
Giống nấm cấp II phát triển tốt trên môi trường
thóc và thân cây sắn - nguyên liệu dễ tìm và dễ sản xuất
giống với số lượng lớn.
Nấm sò vàng trồng thử nghiệm cho năng suất sinh
học đạt 28,9%, nấm có màu sắc hấp dẫn, mùi thơm đặc
trưng và có giá trị dinh dưỡng cũng như hoạt tính sinh
học cao.
Hình 6. Nấm bào ngư vàng thu hoạch
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2009),
Khái quát về nhân giống và sản xuất nấm.
[2] Nguyễn Lân Dũng (2008), Công nghệ nuôi trồng
nấm, tập 1,2, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
[3] Nguyễn Hữu Đống (2003), Nuôi trồng chế biến
nấm ăn và nấm làm thuốc chữa bệnh, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
[4] Nguyễn Hữu Đống và Đinh Xuân Linh (2000),
Nấm ăn nấm dược liệu - công dụng và công nghệ
nuôi trồng, NXB Hà Nội.
[5] Bùi Bá Hân, Võ Thị Chi Diễm, Hà Cẩm Thu
(2013), Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường
nhân giống đến chủng nấm sò phân lập tại thành
phố Đà Nẵng, tạp chí KHCN Đại học Đà Nẵng, số
5(66), Trang 125-131.
[6] Trần Hùng (2004), Phương pháp nghiên cứu dược
liệu, Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh.
[7] Nguyễn Duy Lâm, Vũ Thị Nhị (2013), Nghiên
cứu sản xuất giống nấm sò Pleurotus florida dạng
lỏng nhằm thay thế dạng hạt truyền thống, tạp chí
Khoa học và công nghệ, trang 25–31.
[8] Ngô Xuân Nghiễn và cộng sự, Kết quả nghiên
cứu chọn tạo các chủng nấm sò mới có triển vọng
trong sản cuất tại Việt Nam, Hội thảo quốc gia về
cây trồng lần thứ nhất, trang 516-524.
[9] Nguyễn Văn Mùi (2001), Thực hành hóa sinh
học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[10] Lê Xuân Thám (2010), Nấm bào ngư, NXB
Khoa học và kĩ thuật.
[11] Jicheng Liu, Yongxu Sun, Haitao Yu, Chunjing
Zhang, Liling Yue, Xiuzhen Yang, Liping Wang,
Jianhua Liu. Purification and identification of one
glucan from golden oyster mushroom (Pleurotus
citrinopileatus (Fr.) Singer), Carbohydrate Polymers
87 (2012) 348 – 352
[12] Fredrick Musieba, Sheila Okoth and Richard K.
Mibey (2011), First record of the occurrence of
Pleurotus citrinopileatus Singer on new hosts in
Kenya, Agric. Biol. J. N. Am., 2(9): 1304
[13] Mohan P. Singh và Vinay Kumar Singh (2011),
Yield performance and nutritional analysis of
Pleurotus citrinopileatus on different agrowastes
and vegetable wastes, Proceedings of the 7th
International Conference on Mushroom Biology
and Mushroom Products (ICMBMP7) , 385 – 392
[14] Ponnamperuma FN (1984). Straw as a source of
nutrients for wetland rice. In Organic matter and
rice. pp 117-137. IRRI. Philippines
[15] S. Rushit, M. Vijayakumar, A. Noorlidah, M.
Ameen Abdulla and S. Vikineswary (2013),
Effect of Pleurotus citrinopileatus on bold
glucose, insulin and catalase of streptozotocin-
induced type2 diabetes mellitus rats. Pla The
Journal of Animal & Plant Sciences, 23(6), Page:
1566-1571
[16] Zeng-Chin Liang, Chiu-Yeh Wu, and Jinn-Chyi
Wan (2005), The evaluation of using mushroom
sawdust wastes for cultivation of Pleurotus
citrinopileatus, Fung. Sci. 20(1, 2): 27-34
[17] Zeng-Chin Liang, Chiu-Yeh Wu, Zheng-Liang
Shieh, Shou-Liang Cheng (2009), Utilization of
grass plants for cultivation of Pleurotus
citrinopileatus, International Biodeterioration &
Biodegradation 63, 509–514
[18] Zhang, J.; Wang, G.; Li, H.; Zhuang, C.;
Mizuno, T.; Ito, H.; Suzuki, C.; Okamoto, H.; Li,
J(1994), Antitumor polysaccharides from a
Chinese mushroom “yuhuangmo”, the fruiting
body of Pleutorus citrinopileatus, Biosci,
Biotechnol, Biochem, 58, 1195-1201.
[19] Ying, Jianzhe (1987), Icons of medicinalfungi.
Science Press, Beijing
[20] Yu-Ling Lee, Gi-Wei Huang, Zeng-Chin Liang,
Jeng-Leun Mau (2007), Antioxidant properties of
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4B(2015), 9-15
15
three extracts fromPleurotus citrinopileatus, LWT 40, 823–833.
BREEDING AND RAISING PLEUROTUS CITRONOPILEATUS IN DA NANG CITY
Abstract: Pleurotus citronopileatus is type of mushroom with a sweet, tasty flavour; noticeably, it is characterized with some
pleasant fragrance and attractive colours. This mushroom strain has high nutritional and pharmaceutical values, which is very good
for health. It consists of all kinds of essential amino acids, unsaturated lipids and antioxidants like carotene, tocopherol, acid ascorbic,
etc. However, in our country, the seed supply for production still remains limited and unstable in quantity and quality. In this research,
we have selected the media PDA+ ( PDA+ pepton+ yeast) and PDAR (PDA+ straw extract) to form the culture of level I. To facilitate
the the culture of level 2, the relevant medium are MT2.1 (paddy 98,5%, CaCO3 1,5%) and MT2.2 (cassava sticks 93,5%, CaCO3
1,5%, bran 2%, corn flour 3%). The cultivation of Pleurotus citrinopileatus on a sawdust substrate has yielded 28,9% in biological
efficiency. The products have their own distinctive yellow colour with a good flavour and high nutritious values.
Key words: Pleurotus citronopileatus; culture; fiber system; mushroom cultivation; mushroom
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_nhan_giong_va_trong_nam_bao_ngu_vang_pleurotus_ci.pdf