Kết quả ở bảng 3 cho thấy tỷ lệ nhiễm ký sinh
trùng đường tiêu hóa cao nhất ở nhóm voọc với tỷ
lệ cao 72,37%, tiếp sau đó là nhóm vượn với tỷ lệ
36,36% và nhiễm thấp nhất là nhóm culi với tỷ lệ là
33,33%. Thức ăn là một trong những nguyên nhân
chính có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ nhiễm ký sinh
trùng ở linh trưởng. Thức ăn của voọc chủ yếu là
các loại lá cây rừng mọc ở tầm thấp quanh trung
tâm EPRC, không qua chế biến nên khả năng chứa
các loại trứng và ấu trùng của các loài ký sinh trùng
đường tiêu hóa là rất cao. Ngoài ra, thức ăn của
vượn là các loại rau, củ, quả tươi được chế biến
và thức ăn của culi là các loại rau, củ, quả đã được
nấu chín. Thức ăn đã được chế biến có thể loại bỏ
những mầm bệnh ký sinh trùng như trứng và ấu
trùng. Điều này có thể là một trong những nguyên
nhân khiến cho vượn và culi có tỷ lệ nhiễm ký sinh
trùng đường tiêu hóa thấp hơn voọc.
Mafuyai HB và cs., (2013) cho rằng các loại ký
sinh trùng có khả năng truyền bệnh thông qua thực
phẩm, nước uống có chứa mầm bệnh và thông qua
tiếp xúc bằng tay. Ngoài ra, theo Graczyk TK và
cs., (2003) linh trưởng dễ bị nhiễm ký sinh trùng
đường tiêu hóa do ăn phải thức ăn hoặc nước uống
bị ô nhiễm do phân chứa mầm bệnh
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa trên linh trưởng tại trung tâm cứu hộ linh trưởng nguy cấp (eprc), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
60
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 6 - 2018
NGHIEÂN CÖÙU NHIEÃM KYÙ SINH TRUØNG ÑÖÔØNG TIEÂU HOÙA TREÂN
LINH TRÖÔÛNG TAÏI TRUNG TAÂM CÖÙU HOÄ LINH TRÖÔÛNG NGUY CAÁP (EPRC)
Bùi Khánh Linh1, Dương Đức Hiếu1, Nguyễn Việt Linh2,
Lê Thị Lan Anh1, Chẩu Thị Luyến1, Sonya Prosser3
TÓM TẮT
Kết quả bước đầu khảo sát sự lưu hành ký sinh trùng đường tiêu hóa trên những cá thể linh trưởng nuôi
tại Trung tâm cứu hộ linh trưởng nguy cấp (EPRC) cho thấy tỷ lệ linh trưởng bị nhiễm ký sinh trùng ở đường
tiêu hóa là khá cao, chiếm 62,63%, trong đó tỷ lệ linh trưởng bị nhiễm giun lươn Strongyloides spp. là cao
nhất, chiếm 48,48%, tiếp theo đó là Trichuris spp. (31,31%), Ancylostoma spp. (8,08%) và thấp nhất là
Capilaria spp. (5,05%). Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng của các nhóm loài linh trưởng là khác nhau, tỷ lệ vọoc bị
nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa là cao hơn so với vượn và culi.
Từ khóa: EPRC, linh trưởng, ký sinh trùng, tiêu hoá, tỷ lệ nhiễm
Study on gastrointestinal parasite infection in primate at
the Endangered primate rescue center (EPRC)
Bui Khanh Linh, Duong Duc Hieu, Nguyen Viet Linh,
Le Thi Lan Anh, Chau Thi Luyen, Sonya Prosser
SUMMARY
Preliminary survey on prevalence of gastrointestinal parasites in the primate species at Endangered
Primate Rescue Center (EPRC) was carried out. The studied results showed that the rate of primate
infected with parasites in the digestion tract was relatively high (accounted for 62.63%). Of which,
the infection rate with Strongyloides spp. was highest (48.48%) followed by Trichuris spp. (31.31%),
Ancylostoma spp. (8.08%) and Capilaria spp. (5.05%). The different primate species were infected
with parasites with different rate, The rate of langurs infected with parasites in the gastrointestinal
tract was higher than that of gibbon and loris.
Keywords: EPRC, primate, parasite, intestinal tract, infection rate.
1. Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2. Viện NC Bảo tồn đa dạng sinh học và bệnh nhiệt đới
3. Trung tâm Cứu hộ Linh trưởng nguy cấp (EPRC)
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế
(IUCN) đã công nhận có khoảng 50% trong
tổng số 634 loài linh trưởng đang có nguy cơ
tuyệt chủng dựa theo các tiêu chí trong sách
đỏ của IUCN. Ở châu Á, hơn 70% số loài linh
trưởng được xếp vào sách đỏ là nguy cấp, đặc
biệt nguy cấp hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Từ
những năm 1970, cộng đồng khoa học đã nhận
ra rằng nhiều quần thể linh trưởng đang bị đe
dọa bởi các hoạt động của con người (Chapman
và Peres, 2001) như: đốt, phá rừng để định
cư và canh tác nông nghiệp; săn bắn các loài
linh trưởng để làm thực phẩm, thuốc y học cổ
truyền; buôn bán động vật hoang dã bất hợp
pháp (IUCN, 2010).
Trung tâm cứu hộ linh trưởng nguy cấp
(EPRC) là một dự án phi lợi nhuận dành cho
việc cứu hộ, phục hồi, sinh sản, nghiên cứu và
bảo tồn các loài linh trưởng nguy cấp ở Việt
Nam. Được thành lập vào năm 1993, đến nay
trung tâm đã có hơn 180 cá thể thuộc 15 loài
linh trưởng khác nhau, trong đó có 6 loài duy
nhất được chăm giữ mà không nơi nào trên thế
giới cứu hộ và nuôi nhốt, đó là: voọc mông
trắng (Trachypithecus delacouri), voọc Hà Tĩnh
(Trachypithecus laotum hatinhensis), voọc đen
61
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 6 - 2018
tuyền (Trachypithecus laotum ebenus), voọc
Lào (Trachypithecus laotum laotum), voọc Cát
Bà (Trachypithecus poliocephalus), voọc Chà
vá chân xám (Pygathrix cinerea).
Các loài linh trưởng thường rất dễ bị nhiễm
ký sinh trùng đường tiêu hóa mà đa số là
những loài ký sinh trùng có khả năng truyền
lây cho người và vật nuôi (Huffman M và cs.,
2014). Việc nhiễm ký sinh trùng đường tiêu
hóa với số lượng lớn có thể dẫn đến mất máu,
tổn thương mô, sảy thai, dị tật bẩm sinh và
chết (Verweij JJ và cs., 2003). Nhiều nghiên
cứu về ký sinh trùng đường tiêu hóa trên linh
trưởng cho thấy các loài linh trưởng có tỷ lệ
nhiễm cao và có khả năng gây tử vong rất cao
(Lee JI và cs., 2010).
Ký sinh trùng và bệnh truyền nhiễm là mối
đe dọa lớn đối với sức khoẻ của linh trưởng
(R.Y.W Kouassi và cs., 2015). Trên thế giới đã
có nhiều nghiên cứu khẳng định sự lưu hành của
các loài ký sinh trùng đường tiêu hóa ký sinh
trên linh trưởng như: Strongyloides fulleborni, S.
stercoralis, Oesophagostomum sp., Entamoeba
coli, (X. Pourrut và cs., 2011; Brandi T. Wren
và cs., 2016). Nhiễm ký sinh trùng đường tiêu
hóa được báo cáo là đã xuất hiện trên một số
vật chủ như: khỉ đột, tinh tinh, khỉ Chlorocebus
sabaeus và Erythrocebus patas (Adedokun và
cs., 2002); khỉ đầu chó Leucophaeus (Akpan
và cs., 2010); khỉ mona và khỉ đầu chó Anubis
(Dawet và cs., 2013).
Việc bảo vệ chăm sóc các loài linh trưởng rất
quan trọng đối với sức khoẻ của linh trưởng, của
khách du lịch khi đến tham quan trung tâm bảo
tồn cũng như sức khoẻ của các cán bộ và nhân
viên làm việc tại trung tâm. Hầu hết các bệnh
truyền lây đều bắt nguồn từ động vật hoang
dã, do vậy việc chẩn đoán bệnh, nắm được các
thông tin về mầm bệnh, sự lưu hành của bệnh tại
trung tâm là rất cần thiết. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi tiến hành đánh giá tình hình nhiễm ký
sinh trùng đường tiêu hoá trên các cá thể linh
trưởng tại trung tâm EPRC trong thời gian từ
tháng 1/2017-12/2017.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Tiến hành thu thập 99 mẫu phân linh trưởng
tại Trung tâm cứu hộ linh trưởng nguy cấp
(EPRC) – xã Cúc Phương, huyện Nho Quan,
tỉnh Ninh Bình. Tổng số mẫu được thu từ 3 loài
linh trưởng khác nhau: vượn, voọc, culi.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Lấy mẫu
Mẫu phân linh trưởng được thu thập bằng
phương pháp ngẫu nhiên có chủ đích. Mẫu được
thu vào túi zip, dán nhãn, đánh số và ghi thông
tin của mẫu như: địa điểm, giống, loài, tuổi, tính
biệt, Các mẫu được bảo quản lạnh và vận
chuyển về phòng thí nghiệm Bộ môn Ký sinh
trùng – Khoa Thú y – Học viện Nông nghiệp
Việt Nam.
Phương pháp phù nổi
Lấy 2g phân cần xét nghiệm cho vào cốc sạch,
bổ sung 28ml nước muối bão hòa, dùng đũa thủy
tinh khuấy tan, sau đó lọc qua lưới thép bỏ cặn.
Lấy dung dịch vừa lọc được cho vào ống nghiệm
nhỏ, để yên tĩnh 20-30 phút. Dùng pipet hút phần
trên bề mặt của ống nghiệm, cho lên buồng đếm
Mc. Master quan sát dưới kính hiển vi với độ
phóng đại 10x10 để tìm trứng của các loài giun
tròn, một số loài đơn bào ký sinh đường tiêu hóa
và xác định cường độ nhiễm của chúng.
Phương pháp gạn rửa sa lắng
Lấy 5g phân cho vào cốc thủy tinh có 50 ml
nước sạch, dùng đũa thủy tinh khuấy đều, sau
đó lọc qua lưới thép, bỏ cặn, để lắng trong 10
phút rồi đổ phần nước phía trên đi, sau lại cho
nước sạch vào cốc với lượng như ban đầu, cứ
thế vài lần cho đến khi nước trở nên trong, cặn
phía dưới sạch, bỏ phần nước phía trên, lấy cặn
cho vào đĩa lồng, rồi kiểm tra dưới kính hiển vi,
độ phóng đại 10x10.
Phương pháp xử lý số liệu
Toàn bộ số liệu thu được xử lý bằng phương
62
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 6 - 2018
pháp thống kê sinh học, qua phần mềm Excel để
so sánh tỷ lệ. Sự sai khác có ý nghĩa khi P<0,05.
2.3. Nội dung nghiên cứu
Xác định tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm một
số loại giun sán ký sinh đường tiêu hóa trên linh
trưởng nuôi tại Trung tâm cứu hộ linh trưởng
nguy cấp (EPRC).
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường tiêu
hóa
Kết quả xét nghiệm 99 mẫu phân cho thấy,
tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa trên
linh trưởng rất cao, chiếm 62,63%. Trong đó,
tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm theo thành phần
loài ký sinh trùng được thể hiện ở bảng 1 và
biểu đồ 1.
Bảng 1. Tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm thành phần loài ký sinh trùng trên linh trưởng
Số mẫu Tỷ lệ nhiễm (%)
Cường độ nhiễm
(trứng/gram phân)
Strongyloides spp.
99
48,48 50-3800
Trichuris spp. 31,31 50-2600
Ancylostoma spp. 8,08 50-100
Capilaria spp. 5,05 50-500
Trong nghiên cứu này, chúng tôi xác định
được sự lưu hành của 4 loài giun tròn (hình
1), không tìm thấy sự lưu hành của các loài
sán lá, sán dây và đơn bào đường tiêu hoá.
Trong đó, nhiễm Strongyloides spp. chiếm tỷ
lệ cao nhất (48,48%), sau đó là Trichuris spp.
(31,31%), Ancylostoma spp. (8,08%) và cuối
cùng là Capilaria spp. nhiễm thấp nhất với
tỷ lệ là 5,05%. Đặc biệt, cường độ nhiễm của
Strongyloides spp. và Trichuris spp. rất cao, lần
lượt dao động từ 50-3800 và 50-2600 trứng/
gram phân.
Biểu đồ 1. Tỷ lệ nhiễm thành phần loài ký sinh trùng trên linh trưởng
60,00%
50,00%
40,00%
30,00%
20,00%
10,00%
0,00%
Strongyloides spp. Ancylostoma spp. Trichuris spp. Capilaria spp.
63
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 6 - 2018
Trong tổng số 62 mẫu linh trưởng dương
tính với ký sinh trùng đường tiêu hóa thì số mẫu
nhiễm đơn các loài ký sinh trùng chiếm 61,29%
(đơn nhiễm với giun lươn Strongyloides spp.
chiếm tỷ lệ cao) và số mẫu đồng nhiễm ký sinh
trùng đường tiêu hóa là 38,71% (bảng 2, biểu đồ
2). Strongyloides spp. nhiễm với tỷ lệ cao nhất,
điều này cho thấy tình hình nhiễm ký sinh trùng,
đặc biệt là nhiễm Strongyloides spp. trên các cá
thể linh trưởng là rất phổ biến.
Strongyloides spp. Ancylostoma spp.
Trichuris spp. Capilaria spp.
Hình 1. Hình ảnh trứng của những loài giun tròn ký sinh trên linh trưởng
Bảng 2. Tỷ lệ nhiễm đơn và nhiễm ghép các loài ký sinh trùng
Tổng mẫu nhiễm ký sinh trùng Tỷ lệ nhiễm (%)
Nhiễm đơn (n=38)
62
61,29
Nhiễm ghép (n=24) 38,71
Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã khẳng
định được sự lưu hành của các loài ký sinh trùng
đường tiêu hóa trên các loài linh trưởng khác
nhau: Trichuris trichiura (47,2%), Strongyle
spp. (13.9%), Entamoeba spp. (13,9%) và
Stronglyloides spp. (5,6%) (VE Adetunji,
2014); Trichuris spp. (92%), hookworm (71%),
Oesophagostomum spp. (84%), Strongyloides
64
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 6 - 2018
spp. (24%), và Entamoeba coli (92%) (Brandi T.
Wren và cs., 2016). Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu ở
vườn động vật học Ibadan, Nigeria (VE Adetunji,
2014). Theo Mutani và cs., (2003) tỷ lệ nhiễm
ký sinh trùng đường tiêu hóa trên linh trưởng rất
cao như: 75% tại Sở thú Negede, Owerri, Nigeria
(Opara và cs., 2010), 88,7% ở Trung tâm nghiên
cứu linh trưởng và dự trữ động vật hoang dã
Barbados (BPRCWR)
Điều đáng bàn luận ở đây là hầu hết các loài ký
sinh trùng tìm thấy trong nghiên cứu này đều nằm
trong nhóm ký sinh trùng truyền lây qua đất, nhóm
ký sinh trùng này có vòng đời phát triển trực tiếp
thông qua việc ăn phải mầm bệnh ở giai đoạn gây
nhiễm. Đặc biệt giun lươn là nhóm giun có vòng
đời phát triển đặc biệt, vừa có thể tự nhiễm trong
cơ thể, đồng thời lại có thể phát triển tự do ngoài
môi trường và có thể xuyên qua da người và động
vật để xâm nhập vào vật chủ. Đây chính là một
trong những lý do làm cho tỷ lệ nhiễm bệnh ở linh
trưởng rất cao.
Mặt khác, một số ký sinh trùng có vòng đời
gián tiếp, vật chủ trung gian ít có cơ hội tiếp xúc
với các loài linh trưởng được nuôi nhốt trong các
khu bảo tồn và vì thế, tỷ lệ nhiễm sán lá và sán dây
được tìm thấy là rất thấp hoặc không có (Bichi và
cs., 2016).
Theo Hoan-Vu Do (2009), khi tiến hành điều
tra khảo sát trên những cá thể voọc mông trắng
tại EPRC và Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập
nước Vân Long, tỉnh Ninh Bình, đã đưa ra kết quả
những cá thể voọc mông trắng này nhiễm 6 loài
giun tròn (Trichuris spp., Trichostrongylus spp.,
Oesophagostomum spp., Strongyloides stercoralis,
Ancylostoma spp., và Physaloptera spp.) và loài
thường thấy nhất trong công trình nghiên cứu này
là Trichuris spp. và Oesophagostomum spp.
Tỷ lệ nhiễm các loài giun tròn ký sinh đường
tiêu hóa trên linh trưởng được tìm thấy trong
nghiên cứu này có thể là do việc thiếu sử dụng
định kỳ thuốc tẩy giun sán và các biện pháp vệ
sinh không đảm bảo trong quản lý. Nếu không
được chăm sóc cẩn thận, những nhân viên chăm
sóc linh trưởng ở đây cũng có thể bị nhiễm các
loài ký sinh trùng này thông qua tiếp xúc với nước
hoặc thực phẩm bị ô nhiễm. Ngoài ra, một số loài
ký sinh trùng đường tiêu hóa trên linh trưởng còn
có khả năng truyền lây sang người thông qua tiếp
xúc. Theo VE Adetunji (2014), tiến hành nghiên
cứu trên 36 loài linh trưởng và 19 người trông giữ
vườn thú của 2 Trường đại học Ibadan Zoological
Garden và Agodi Zoological, đưa ra kết quả, chỉ
một trong số 19 người canh giữ vườn thú bị nhiễm
Ascaris lumbricoides và 2 trong số 13 nhân viên
làm vườn dương tính với Ancylostoma duodenale.
Cả 2 loài Ascaris lumbricoides và Ancylostoma
duodenale đều được tìm thấy trên linh trưởng, đây
là những loài ký sinh trùng có khả năng truyền
lây sang người, do vậy đối với những cán bộ làm
việc tại các trung tâm này đều có nguy cơ nhiễm
bệnh nếu không được cảnh báo hoặc có biện pháp
phòng bệnh.
Biểu đồ 2. Tỷ lệ nhiễm đơn và nhiễm ghép các loài ký sinh trùng
Nhiễm đơn Nhiễm ghép
65
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 6 - 2018
Mặc dù trong nghiên cứu này, chúng tôi chưa
khẳng định chính xác các loài ký sinh trùng có khả
năng truyền lây sang người, tuy nhiên tỷ lệ nhiễm
cao của các loài ký sinh trùng tương tự như các
báo cáo trước đây. Trichuris spp. là loài được phát
hiện thường xuyên truyền lây từ khỉ sang người
(Horii và Usui, 1985). S. fulleborni và giun móc
(Ancylostoma duodenale, Necator americanus)
được truyền qua da bởi ấu trùng gây nhiễm có
trong dạ dày – ruột của những con khỉ được lấy ở
đây. Strongyloides fulleborni và Ancylostoma spp.
có thể truyền lây sang cho người, thông qua thịt
và nội tạng bị nhiễm bệnh. Các trường hợp nhiễm
bệnh do Strongyloides fulleborni đã được chẩn
đoán ở người dân ở miền Nam Cameroon (Garin
và cs., 1978).
3.2. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa
trên các nhóm cá thể linh trưởng
Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa có sự
sai khác giữa 3 nhóm cá thể linh trưởng chính có
tại EPRC (bảng 3).
Loài
linh trưởng Số lượng
Strongyloi-
des spp.
Ancylostoma
spp.
Trichuris
spp.
Capilaria
spp. Tỷ lệ nhiễm
Voọc 76 45
(59,21%)
6
(7,89%)
26
(34,21%)
5
(6,58%)
55
(72,37%)
Vượn 12 2
(18,18%)
2
(18,18%)
1
(9,09%)
0 4
(36,36%)
Culi 11 1
(8,33%)
0 4
(33,33%)
0 4
(33,33%)
Bảng 3. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa trên các nhóm linh trưởng
Kết quả ở bảng 3 cho thấy tỷ lệ nhiễm ký sinh
trùng đường tiêu hóa cao nhất ở nhóm voọc với tỷ
lệ cao 72,37%, tiếp sau đó là nhóm vượn với tỷ lệ
36,36% và nhiễm thấp nhất là nhóm culi với tỷ lệ là
33,33%. Thức ăn là một trong những nguyên nhân
chính có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ nhiễm ký sinh
trùng ở linh trưởng. Thức ăn của voọc chủ yếu là
các loại lá cây rừng mọc ở tầm thấp quanh trung
tâm EPRC, không qua chế biến nên khả năng chứa
các loại trứng và ấu trùng của các loài ký sinh trùng
đường tiêu hóa là rất cao. Ngoài ra, thức ăn của
vượn là các loại rau, củ, quả tươi được chế biến
và thức ăn của culi là các loại rau, củ, quả đã được
nấu chín. Thức ăn đã được chế biến có thể loại bỏ
những mầm bệnh ký sinh trùng như trứng và ấu
trùng. Điều này có thể là một trong những nguyên
nhân khiến cho vượn và culi có tỷ lệ nhiễm ký sinh
trùng đường tiêu hóa thấp hơn voọc.
Mafuyai HB và cs., (2013) cho rằng các loại ký
sinh trùng có khả năng truyền bệnh thông qua thực
phẩm, nước uống có chứa mầm bệnh và thông qua
tiếp xúc bằng tay. Ngoài ra, theo Graczyk TK và
cs., (2003) linh trưởng dễ bị nhiễm ký sinh trùng
đường tiêu hóa do ăn phải thức ăn hoặc nước uống
bị ô nhiễm do phân chứa mầm bệnh
IV. KẾT LUẬN
Bệnh ký sinh trùng đường tiêu hóa của linh
trưởng cho đến nay vẫn chưa được nhiều người biết
tới và ít nhận được sự quan tâm. Nghiên cứu này
đã khẳng định được có 4 loài ký sinh trùng đường
tiêu hóa nhiễm trên linh trưởng được nuôi tại Trung
tâm cứu hộ linh trưởng nguy cấp (EPRC) bao gồm
Strongyloides spp. (48,48%), Ancylostoma spp.
(8,08%), Trichuris spp. (31,31%) và Capilaria spp.
(5,05%). Cần xác định nguy cơ truyền lây nhóm
bệnh này cho người để có những khuyến cáo thích
hợp cho cán bộ cũng như khách du lịch đến tham
quan trung tâm.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được hỗ trợ bởi
Trung tâm cứu hộ linh trưởng nguy cấp (EPRC) – xã
Cúc Phương – huyện Nho Quan – tỉnh Ninh Bình và
chương trình hỗ trợ sinh viên nghiên cứu khoa học
của Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
66
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 6 - 2018
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adedokun OA, Adedokun RAM, Emikpe BO,
Ohore, OG, Oluwayelu, DO & Ajayi OL (2002).
Concurrent fatal helminthosis and balantidosis
in red monkey (Erythrocebus patas) in Ibadan,
Nigeria. Nigerian Veterinary Journal, 23(2): 56-59.
2. Akpan PA, Abraham JT & Ekwetiong PO
(2010). Survey of gastrointestinal parasites of
chimpanzees and drill monkeys in Drill Ranch,
Calabar, Cross River State, Nigeria. African
Research Review, 4(3a): 334-340
3. Bichi, H. M.1, 2, Suleiman, I. D.3 and Jayeola,
O. A (2016). Incidence of Parasitic Infections of
Non-human Primates in Kano State Zoological
Garden, Nigeria. IOSR Journal of Agriculture
and Veterinary Science (IOSR-JAVS), Volume 9,
Issue 4 Ver. II (Apr. 2016), PP 39-43.
4. Chapman, C.A. and Peres, C.A. (2001). Primate
conservation in the new millenium: the role of
scientists. Evolutionary Anthropology 10, 16-33.
5. Dawet A, Yakubu DP & Butu HM (2013). Survey
of gastrointestinal parasites of non-human
primates in Jos zoological Garden. Journal of
Primatology, 2(1): 1-3.
6. Garin, Y., Languillat, G., Beauvais, B., Tursz,
A., Lariviere, M. (1978). Intestinal parasitism in
eastern Gabon. Bull. Soc. Pathol. Exot. Filiales
71,157–164.
7. Graczyk TK, Grimes BH, Knight R, Da Silva
AJ, Pieniazek NJ, Veal DA (2003). Detection of
Cryptosporidium parvum and Giardia lamblia
carried by synanthropic flies by combined
fluorescent in situ hybridization and a monoclonal
antibody. American Journal of Tropical Medicine
and Hygiene, 68, 228–232.
8. Gillespie TR, Greiner EC, Chapman CA (2005).
Gastrointestinal parasites of the colobus monkeys
of Uganda. J. Parasitol; 91:569–73.
9. Horii, Y., Usui, M. (1985). Experimental
transmission of Trichuris ova from monkeys to
man. Trans. R. Soc. Trop. Med. Hyg. 79, 423.
10. Huffman M, Nahallage C, Hasegawa H,
Ekanayake S, De Silva L, Athauda I (2013).
Preliminary survey of the distribution of
four potentially zoonotic parasite species
among primates in Sri Lanka. J. Natl Sci
Found;41:319–26.
11. Lee JI, Kim NA, Ahn KH, Park CG (2010).
Investigation of helminths and protozoans
infecting old world monkeys: captive vervet,
cynomolgus, and rhesus monkeys. Korean J. Vet
Res; 50:273–7.
12. Mutani A, Rhynd, K & Brown G (2003). A
Preliminary Investigation on the gastrointestinal
helminths of the Barbados Green Monkey
(Cercopithecus aethiops sabaeus). Revista do
Instituto de Medicina Tropical de Sao Paulo,
45(4): 193-195.
13. Mafuyai HB, Barshep Y, Audu BS, Kumbak
D, Ojobe TO. (2013). Baboons as potential
reservoirs of zoonotic gastrointestinal parasite
infections at Yankari National Park, Nigeria.
African Health Sciences; 13(2):252 – 254.
14. Opara MN, Osuji CT & Opara JA (2010).
Gastrointestinal parasitism in captive animals at
the zoological garden, Negede, Owerri, Southeast
Nigeria. Report and Opinion, 2(5): 21-28
15. Pourrut X, Diffo J, Somo R, Bilong Bilong C,
Delaporte E, LeBreton M, Gonzalez JP (2011).
Prevalence of gastrointestinal parasites in primate
bushmeat and pets in Cameroon. Vet Parasitol;
175:187–91.
16. Roland Yao Wa Kouassi, Scott William McGraw,
Patrick Kouassi Yao, Ahmed Abou-Bacar, Julie
Brunet, Bernard Pesson, Bassirou Bonfoh,
Eliezer Kouakou N’goran, and Ermanno
Candolfi (2015). Diversity and prevalence of
gastrointestinal parasites in seven non-human
primates of the Taï National Park, Côte d’Ivoire.
Parasite, 22, 1.
17. Verweij JJ, Vermeer J, Brienen EA, Blotkamp
C, Laeijendecker D, van Lieshout L, Polderman
AM (2003). Entamoeba histolytica infections in
captive primates. Parasitol Res; 90:100–3.
18. VE Adetunji (2014). Prevalence of gastro-intestinal
parasites in primates and their keepers from two
zoological gardens in Ibadan, Nigeria. Sokoto
Journal of Veterinary Sciences; 12(2): 25-30.
Ngày nhận 11-7-2018
Ngày phản biện 1-8-2018
Ngày đăng 1-9-2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_nhiem_ky_sinh_trung_duong_tieu_hoa_tren_linh_truo.pdf