Using thermal infrared remote sensing for calculation of land surface temperature recently has been applied
increasingly in the environmental sciences. This paper presents a method of determination of land surface temperature
using Normalized Difference Vegetation Index (NDVI) for calculating emissivity. In this study, an attempt has been made
to replace the use of an in-situ emissivity as a standard coefficient for the whole study area in traditional methods. The
emissivity per pixel retrieved directly from satellite data has been estimated for retrieval of land surface temperature at
the better accuracy level. The results show that the satellite derived land surface temperature values are in acceptable
agreement with the values which were calculated from in-situ emissivity. It is also found that a strong correlation between
emissivity and normalized difference vegetation index (NDVI) over different landcover classes is taken.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 575 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu nhiệt độ bề mặt sử dụng phương pháp tính toán độ phát xạ từ chỉ số thực vật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
184
36(2), 184-192 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 6-2014
NGHIÊN CỨU NHIỆT ĐỘ BỀ MẶT
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÍNH TOÁN ĐỘ PHÁT XẠ
TỪ CHỈ SỐ THỰC VẬT
LÊ VÂN ANH1, TRẦN ANH TUẤN2
Email: levananh.lva@gmail.com
1Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 12 - 11 - 2013
1. Mở đầu
Nhiệt độ bề mặt đất là một nhân tố quan trọng
trong nghiên cứu môi trường đặc biệt là trong bối
cảnh hiện nay khi mà vấn đề biến đổi khí hậu toàn
cầu đang được chú trọng quan tâm. Phương pháp
truyền thống để tính toán nhiệt độ bề mặt là sử
dụng các máy đo đạc đặt ở các trạm quan trắc mặt
đất từ đó tính toán nội suy cho toàn khu vực dựa
trên kết quả thu nhận tại các điểm quan trắc. Tuy
nhiên, phương pháp này chỉ phản ánh được chính
xác nhiệt độ cục bộ xung quanh trạm đo chứ chưa
đảm bảo được cho toàn khu vực, hơn nữa rất khó
để có thể thiết lập được hệ thống trạm quan trắc
với mật độ dày đặc, liên tục theo thời gian. Với sự
ra đời của công nghệ viễn thám, phương pháp tính
toán nhiệt độ bề mặt đã phát triển một bước lớn
bằng việc sử dụng các bộ cảm hồng ngoại nhiệt với
kênh phổ trong khoảng từ 8 đến 14µm để thu nhận
tín hiệu. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về
các cách tính nhiệt độ bề mặt sử dụng kênh hồng
ngoại nhiệt của các loại tư liệu vệ tinh khác nhau
như GOES, AVHRR, MODIS với độ phân giải
trên 1km. Ngày nay, tư liệu vệ tinh ASTER (90m)
và LANDSAT (30m) với độ phân giải cao hơn đã
và đang được khai thác để ứng dụng cho các
nghiên cứu đòi hỏi độ chi tiết và chính xác cao như
nghiên cứu nhiệt độ bề mặt các vùng đô thị hóa nơi
có biến động sử dụng đất lớn làm ảnh hưởng đến
sự thay đổi nhiệt độ bề mặt.
Cho tới nay, có nhiều cách tiếp cận và phương
pháp tính toán nhiệt độ bề mặt đã được giới thiệu
và sử dụng. Một số phương pháp đơn giản đã được
áp dụng bằng cách tính chuyển giá trị số (DN) sang
giá trị bức xạ phổ (radiometric) trực tiếp từ các
kênh nhiệt, từ đó sử dụng các thuật toán khác nhau
để tính ra nhiệt độ bề mặt. Tuy nhiên, ngoài năng
lượng mặt trời chiếu tới, nhiệt độ bề mặt còn bị ảnh
hưởng bởi độ phát xạ bề mặt và các hiệu ứng của
khí quyển. Để nâng cao độ chính xác, các kênh
nhiệt này được hiệu chỉnh khí quyển để loại bỏ
nhiễu [4, 8]. Nhưng thông thường rất khó để thu
thập được đầy đủ thông số về khí quyển của thời
điểm quan trắc, vì thế nhiều nghiên cứu đã bỏ qua
bước này. Độ phát xạ bề mặt phụ thuộc vào các
loại hình bề mặt và lớp phủ mặt đất. Nhiều nghiên
cứu giả thiết độ phát xạ bề mặt là hằng số [10]
hoặc sử dụng hệ số độ phát xạ lấy từ cơ sở dữ liệu
đã được đo đạc, công nhận qua các thí nghiệm cho
các đối tượng lớp phủ chính [12].
Việt Nam những năm gần đây đã bước đầu
nghiên cứu sử dụng ảnh hồng ngoại nhiệt để tính
nhiệt độ bề mặt nhưng phần lớn mới chỉ sử dụng
các phương pháp ước tính nhiệt độ đơn giản để cho
kết quả nhanh. Một số nghiên cứu sử dụng công
thức Plank để ước tính nhiệt độ bề mặt chỉ từ duy
nhất kênh hồng ngoại nhiệt và không sử dụng độ
phát xạ bề mặt [9], hoặc sử dụng độ phát xạ là
hằng số chung cho các đối tượng lớp phủ điển hình
của toàn khu vực [13].
Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu tính
toán nhiệt độ bề mặt đất sử dụng phương pháp xác
định độ phát xạ bằng chỉ số thực vật NDVI,
phương pháp này thay thế việc sử dụng một hệ số
phát xạ chung cho toàn khu vực của các phương
185
pháp truyền thống và cho kết quả đánh giá nhiệt độ
bề mặt sát với thực tế hơn. Đồng thời, tư liệu ảnh
đầu vào được hiệu chỉnh khí quyển để loại bỏ các
hiệu ứng và nhiễu khí quyển ảnh hưởng tới giá trị
phản xạ của các kênh ảnh. Bên cạnh đó, kết quả
nghiên cứu được so sánh, kiểm chứng với kết quả
nhiệt độ bề mặt tính theo phương pháp sử dụng hệ
số phát xạ chung cho các đối tượng điển hình để
đánh giá độ chính xác.
2. Khu vực nghiên cứu và dữ liệu
2.1. Khu vực nghiên cứu
Hải Phòng là một thành phố ven biển, có toạ độ
địa lý từ 20°30' đến 21°01' vĩ độ Bắc, 106°25' đến
107°10' kinh độ Ðông, cách thủ đô Hà Nội 102 km
về phía đông bắc. Thời tiết Hải Phòng mang tính
chất cận nhiệt đới ẩm ấm đặc trưng của thời tiết
miền Bắc Việt Nam: mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều,
mùa đông khô và lạnh, có 4 mùa tương đối rõ rệt.
Nhiệt độ trung bình vào mùa hè là khoảng 32,5°C,
mùa đông là 20,3°C và nhiệt độ trung bình năm là
trên 23,9°C. Hải Phòng là một thành phố cảng lớn
nhất phía Bắc và là trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo
dục, khoa học và công nghệ vùng duyên hải Bắc
Bộ [3] do đó trong những năm gần đây nền nhiệt
độ chung cho toàn thành phố có xu hướng tăng lên
do ảnh hưởng của sự phát triển các khu công
nghiệp và đô thị.
2.2. Dữ liệu
Tư liệu ảnh viễn thám hồng ngoại nhiệt sử dụng
để tính nhiệt độ bề mặt là Landsat 7 ETM+ thu
chụp ngày 27/12/2010, mức xử lý 1T, path/row
126/46. Đây là tư liệu tải miễn phí, có độ phân giải
30m. Do ảnh Landsat ETM bị lỗi bộ cảm tạo ra các
dải sọc lỗi, một số phương pháp sửa lỗi đã được
thử nghiệm. Phương pháp thứ nhất là nội suy từ
các điểm ảnh lân cận, phương pháp thứ hai là sử
dụng thêm 3 tư liệu Landsat khác được chọn sát
với thời điểm của tư liệu chính để hỗ trợ sửa lỗi.
Sau khi thử nghiệm hai phương pháp, nghiên cứu
đã lựa chọn kết quả sửa từ phương pháp nội suy để
tiến hành các bước xử lý tiếp theo. Phương pháp
này có ưu điểm là bảo tồn được gần đúng giá trị
phổ tại các vị trí ảnh lân cận, đặc biệt khi sử dụng
kết quả sửa này để tính cho nhiệt độ bề mặt tại thời
điểm thu nhận ảnh. Bên cạnh đó, bài báo có sử
dụng thêm ảnh độ phân giải cao Google Earth khu
vực Hải Phòng để đánh giá độ chính xác của kết
quả sau khi phân loại ảnh.
3. Phương pháp
Ảnh sau khi sửa lỗi sọc đã được gộp kênh và
hiệu chỉnh hình học theo bản đồ nền hành chính
tỉnh Hải Phòng. Tiếp đó, ảnh được cắt theo ranh
giới hành chính khu vực nghiên cứu và tính chuyển
giá trị điểm ảnh pixel từ dạng số (DN) sang giá trị
phản xạ (Reflectance). Quá trình này được tính
toán dựa trên các giá trị điểm ảnh pixel ở dạng số
và giá trị bức xạ phổ chuẩn đã được ghi rõ trong
tệp thông tin metadata của mỗi cảnh ảnh. Để tính
nhiệt độ bề mặt chính xác, hiệu chỉnh khí quyển là
một trong những bước quan trọng loại bỏ nhiễu khí
quyển trong quá trình truyền và thu nhận năng
lượng sóng hồng ngoại. Tuy nhiên, bước này
thường bị bỏ qua bởi yếu tố phức tạp của việc thu
thập các thông số khí quyển liên quan tới thời điểm
quan trắc ảnh. Có nhiều mô hình được sử dụng để
hiệu chỉnh khí quyển như COST [1], DOS [2],
MODTRAN [5], ATCOR [11] hay FLAASH [7].
Để tăng cường độ chính xác, mô hình hiệu chỉnh
khí quyển FLAASH đã được sử dụng trong nghiên
cứu này để loại bỏ các ảnh hưởng bởi các hiệu ứng
khí quyển. Dữ liệu đầu vào của mô hình hiệu chỉnh
khí quyển này là ảnh đã được tính chuyển sang giá
trị bức xạ (Radiance). Các thông số đưa vào mô
hình được lựa chọn dựa trên loại tư liệu, tọa độ địa
lý vị trí khu vực nghiên cứu và thời gian thu nhận
tư liệu ảnh. Mô hình số độ cao DEM độ phân giải
10m thành lập từ bản đồ địa hình 1/10.000 được sử
dụng để tính độ cao trung bình của khu vực nghiên
cứu. Các đặc điểm điển hình của khu vực nghiên
cứu như khí hậu nhiệt đới, vị trí ven biển
(Maritime) lần lượt được đặt vào mô hình khí
quyển và mô hình sol khí (Aerosol) để dựa trên các
đặc điểm khí quyển này kết hợp với thời gian quan
trắc, mô hình hiệu chỉnh khí quyển FLAASH sẽ
tính toán ra các thông số khí quyển liên quan phục
vụ cho quá trình hiệu chỉnh.
Nhiệt độ bề mặt đất có thể được ước tính từ
nhiệt độ sáng và độ phát xạ bề mặt. Chỉ số thực vật
(NDVI) kết hợp với hợp phần thực vật (Pv) thường
được sử dụng như các thông số để đánh giá độ phát
xạ trong trường hợp thiếu số liệu thực tế độ phát xạ
mặt đất. Các bước để tính toán nhiệt độ bề mặt đất
từ dữ liệu vệ tinh được mô tả như sơ đồ
hình 1:
186
Ảnh sau khi hiệu chỉnh khí quyển, các kênh
nhiệt được sử dụng để tính chuyển sang nhiệt độ
sáng (Brightness Temperature). Một số thuật toán
có thể sử dụng để tính giá trị nhiệt độ sáng như
thuật toán kênh tham chiếu (Reference channel
method, REF), thuật toán phân loại độ phát xạ
(Classification-based emissivity method), thuật
toán chuẩn hóa độ phát xạ (Emissivity
Normalization Method, NOR), trong đó thuật
toán NOR dựa trên định luật Planck theo công
thức (1) được sử dụng phổ biến nhờ ưu điểm đơn
giản và cho kết quả chính xác.
Hình 1. Sơ đồ tính nhiệt độ bề mặt
TB ൌ
మ
୪୬ ሺ಼భ
ಽഊ
ାଵሻ
(1)
Trong đó: TB là nhiệt độ sáng (Kelvin); Lλ là giá
trị pixel ở dạng bức xạ phổ (đơn vị: W/(m2.sr.µm));
K1, K2 là các hằng số theo bảng 1.
Bảng 1. Các hệ số K1, K2của bộ cảm Landsat ETM+
K1 [watts/(meter squared * ster * μm)] K2 (Kelvin)
666.09 1282.71
Bề mặt tự nhiên ở quy mô điểm ảnh pixel (độ
phân giải 30m) là không đồng nhất về sự thay đổi
độ phát xạ. Ngoài ra, độ phát xạ phụ thuộc chủ yếu
vào độ nhám bề mặt và loại hình lớp phủ,... Độ
phát xạ bề mặt có thể được chiết xuất bằng cách
kết hợp hợp phần thực vật (Pv) với chỉ số thực vật
(NDVI) cho mỗi điểm ảnh [15] theo công thức sau:
ߝ ൌ ߝ௩ . ௩ܲ ߝ௦ሺ 1 െ ௩ܲሻ ݀ߝ (2)
Trong đó: ௩ܲ là hợp phần thực vật;
ߝ௩ là tán xạ bề mặt thực vật;
ߝ௦ là tán xạ bề mặt đất trống.
Ở nghiên cứu này, giá trị phát xạ của những
điểm ảnh thuần nhất (pure pixels) về thực vật ߝ௩
và đất ߝ௦ lần lượt được sử dụng là 0,978 và 0,914.
݀ߝ ൌ 4ሺ݀ߝሻ ௩ܲሺ1 െ ௩ܲሻ
Trong đó: ሺ݀ߝሻ ൌ 0.04; ݀ߝ là giá trị trọng số
trung bình có tính đến giá trị phát xạ trung bình của
các loại bề mặt khác nhau [6].
Hợp phần thực vật cho mỗi điểm ảnh trên toàn
bộ tư liệu ảnh vệ tinh được tính theo công thức:
௩ܲ ൌ
ଵି ൗ
൬ଵି ൗ
൰ିቀଵି ೡൗ
ቁ
(3)
Trong đó, ݅ = giá trị NDVI của những điểm
ảnh không đồng nhất (mixed pixels).
݅= giá trị NDVI của những điểm ảnh thuần
nhất về đất.
Kênh nhìn thấy
và hồng ngoại gần
(VNIR)
Tính NDVI
NDVI đất (ig) NDVI thực vật
(iv)
Hợp phần thực vật
(Pv)
Độ phát xạ (ε)
Kênh
hồng ngoại nhiệt
(TIR)
Bức xạ phổ Lλ
Nhiệt độ
bề mặt (LST)
Nhiệt độ sáng
TB
187
݅௩= giá trị NDVI của những điểm ảnh thuần
nhất về thực vật.
݇ ൌ ሺߩଶ௩ െ ߩଵ௩ሻ ൫ߩଶ െ ߩଵ൯⁄ (4)
Trong đó: ߩଶ௩, ߩଵ௩ là giá trị phản xạ
(reflectance) trên kênh hồng ngoại gần (NIR) và đỏ
(Red) của những điểm ảnh thuần nhất về thực vật
ߩଶ, ߩଵ là giá trị phản xạ (reflectance) trên kênh
hồng ngoại gần (NIR) và đỏ (Red) của những điểm
ảnh thuần nhất về đất.
Những điểm ảnh thuần nhất thực vật và đất
được xác định dựa trên kết quả giải đoán bằng mắt
từ những hiểu biết về khu vực nghiên cứu kết hợp
với đặc điểm giá trị phản xạ phổ của đối tượng trên
các kênh ảnh. Cụ thể ở đây 2 điểm ảnh thuần nhất
về thực vật và đất đã chọn ở vị trí sau (hình 2, 3):
(a) (b) (c) (d)
Hình 2. Vị trí điểm lấy mẫu thuần nhất về thực vật: (a) Kênh đỏ; (b) Kênh hồng ngoại gần;
(c) Ảnh NDVI; (d) Giá trị điểm lấy mẫu
Tọa độ điểm lấy mẫu thuần nhất về thực vật là
20°48’25.90’’N và 107°1’34.14”E, giá trị phản xạ
v1ρ trên kênh đỏ Red (Disp #1) là 0,037662; giá trị
phản xạ v2ρ trên kênh hồng ngoại gần NIR
(Disp #2) là 0,976830; giá trị iv NDVI (Disp #3) là
0,892351.
(a) (b) (c) (d)
Hình 3. Vị trí điểm lấy mẫu thuần nhất về đất
(a) Kênh đỏ; (b) Kênh hồng ngoại gần; (c) Ảnh NDVI; (d) Giá trị điểm lấy mẫu
Tương tự điểm lấy mẫu thuần nhất về đất có tọa
độ 20°37’34.30’’N và 106°31’33.83”E, giá trị phản
xạ g1ρ trên kênh đỏ Red (Disp #1) là 0,259667;
giá trị phản xạ g2ρ trên kênh hồng ngoại gần NIR
(Disp #2) là 0,500113; giá trị iv NDVI (Disp #3) là
0,132450.
Cuối cùng, nhiệt đồ bề mặt được tính dựa trên
nhiệt độ sáng và độ phát xạ [14] theo công thức (5).
T = ்ಳ
ఌ
భ
రൗ
(5)
Các phương pháp thông thường nếu có tính tới
yếu tố độ phát xạ thì thường sử dụng một giá trị
trung bình cho toàn khu vực. Vì thế, nhiệt độ bề
mặt sau tính toán cũng chỉ cho độ chính xác tương
đối. Tuy nhiên, sử dụng phương pháp xác định độ
phát xạ bằng chỉ số thực vật NDVI của từng điểm
ảnh sẽ cho giá trị độ phát xạ chính xác trên từng
điểm ảnh. Dựa vào mối tương quan giữa chỉ số
thực vật NDVI và độ phát xạ ߝ, nhiệt độ bề mặt có
thể được ước tính nhanh chóng thông qua chỉ số
thực vật NDVI mà không cần tới các bước tính
toán phức tạp như thông lệ. Tuy nhiên, mối tương
quan cụ thể này sẽ được thử nghiệm và nghiên cứu
sâu hơn ở một đề tài khác. Ở bài báo này, các tác giả
mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu và thử nghiệm
phương pháp tính toán nhiệt độ bề mặt bằng cách
xác định độ phát xạ bề mặt từ chỉ số thực vật NDVI.
Kết quả tính toán sẽ được so sánh, đối chiếu với số
liệu nhiệt độ bề mặt tính bằng phương pháp dùng hệ
188
số phát xạ chung cho các đối tượng lớp phủ điển
hình trên toàn khu vực. Để phân tích và đánh giá độ
chính xác chi tiết hơn, phương pháp phân loại có
kiểm định Maximum Likelihood đã được sử dụng
tạo ra bản đồ lớp phủ (Landcover) trong đó bao gồm
6 lớp đối tượng: rừng, cây bụi, đất nông nghiệp, đất
trống, dâncư, nước.
4. Kết quả và thảo luận
Chỉ số thực vật NDVI tính từ ảnh vệ tinh
Landsat ETM có giá trị trong ngưỡng từ -1 đến 1,
trong đó giá trị trung bình là 0,322 và độ lệch
chuẩn là 0,313 (hình 4a). Phân tích ảnh NDVI cho
thấy, NDVI giá trị thấp (vùng tối) trong khoảng -1
đến -0,1 tập trung chủ yếu ở các đối tượng thủy hệ.
Trên ảnh NDVI có thể thấy rõ những khu vực có
giá trị NDVI thấp ngoài các con sông lớn như sông
Bạch Đằng, sông Thái Bình, sông Văn Úc, sông
Cửa Cấm, sông Giá thì còn xuất hiện ở những khu
vực ruộng ngập nước. Những khu vực dân cư hoặc
đất trống, đất ruộng khô thì giá trị NDVI ở vào
mức trung bình trong khoảng từ -0,1 đến 0,4. Khu
vực vườn quốc gia Cát Bà có giá trị NDVI cao nhất
(vùng sáng) trong khoảng từ 0,4 đến 1. Ngoài ra,
một số khu vực cây bụi hoặc cây hoa màu cũng là
nơi có giá trị NDVI cao.
Tương tự như vậy, hợp phần thực vật (Pv) cũng
có sự phân bố không gian giống ảnh NDVI (hình
4b). Hợp phần thực vật có giá trị phân bố từ 0 tới
1, trong đó giá trị trung bình là 0,4 và độ lệch
chuẩn là 0,31. Sự phân bố giá trị hợp phần thực vật
theo các lớp phủ tương tự như giá trị NDVI, trong
đó, các lớp thực vật như rừng và cây bụi có giá trị
Pv cao nhất. Nước là đối tượng có giá trị Pv nhỏ
nhất nằm trong khoảng từ 0 tới 0,01 trong đó giá trị
trung bình là 0,004 và độ lệch chuẩn là 0,052.
(a) (b)
Hình 4. Phân bố không gian (a) chỉ số thực vật (NDVI) và (b) Hợp phần thực vật (Pv)
Tùy thuộc vào đặc điểm cấu trúc của đối tượng
mặt đất mà độ phát xạ có giá trị khác nhau, nhưng
giá trị luôn nằm trong khoảng từ 0 đến 1, cụ thể ở
khu vực thành phố Hải Phòng, giá trị độ phát xạ
nằm trong khoảng từ 0,914 tới 0,9924 (hình 5).
Phân tích độ phát xạ của các đối tượng lớp phủ bề
mặt cho thấy các đối tượng thực vật như rừng hoặc
lớp cây bụi có độ phát xạ cao nhất, trung bình là
0,98. Nước có độ phát xạ thấp nhất, giá trị trung
bình vào khoảng 0,91. Tuy nhiên, tùy thuộc vào
chất lượng nước như nước trong, nước đục, các
khu vực sông suối, hồ ao sẽ có các giá trị độ phát
xạ khác nhau. Thông thường nước trong có độ phát
xạ cao hơn nước đục. Khu vực dân cư cũng là đối
tượng có độ phát xạ tương đối cao, giá trị trung
bình ở vào khoảng 0,95, thường phản ánh cấu trúc
bê tông, đường nhựa hoặc gạch. Giá trị độ phát xạ
trung bình của đất nông nghiệp là 0,94 phản ánh bề
mặt hỗn hợp của thực vật, đất và nước. Đất trống
có độ phát xạ trung bình thấp, ở vào khoảng 0,91.
Tuy nhiên, đây chỉ là giá trị trung bình của các lớp
đối tượng lớp phủ bề mặt. Tùy thuộc vào đặc điểm
cấu trúc của từng điểm ảnh pixel tương ứng với
thực trạng lớp phủ bề mặt mà mỗi điểm ảnh đó sẽ
có giá trị độ phát xạ riêng. Đây chính là ưu điểm
nổi trội của phương pháp xác định độ phát xạ bằng
chỉ số thực vật, giải quyết được vấn đề lẫn đối
tượng trong một điểm ảnh pixel.
So sánh nhiệt độ bề mặt (hình 7a) với lớp phủ
(hình 6), có thể thấy các khu dân cư và đô thị mật
độ cao là những nơi có nền nhiệt độ cao nhất
(>21°C), đặc biệt là trung tâm hành chính thành
phố Hải Phòng. Ngoài ra chúng ta cũng quan sát
thấy có một số khu đất nông nghiệp ở phía nam
189
thành phố cũng có nhiệt độ bề mặt tương đối cao,
đó là do những vùng này là khu ruộng cạn khô.
Các khu làng mạc nhà cửa xen kẽ vườn cây có
nhiệt độ thấp hơn. Ngoài các con sông chính có
nhiệt độ trong khoảng từ 19°C đến 21°C thì các khu
ruộng lúa nước cũng là nơi có nền nhiệt độ nằm
trong khoảng này. Khu vực rừng tự nhiên vườn quốc
gia Cát Bà và các khu rừng trồng hoặc các trảng cây
bụi là những đối tượng lớp phủ có nhiệt độ bề mặt
thấp nhất (<17°C). Trảng cây bụi có nền nhiệt độ
cao hơn một chút 17°C-19°C. Kết quả phân bố này
cho thấy thông tin giữa lớp phủ và nhiệt độ bề mặt
có mối liên quan với nhau thông qua đặc điểm cấu
trúc của các đối tượng lớp phủ.
Hình 5. Bản đồ phân bố không gian độ phát xạ (Emissivity)
Hình 6. Bản đồ lớp phủ thành phố Hải Phòng
Kết quả tính toán nhiệt độ bề mặt bằng phương
pháp tính hệ số phát xạ áp dụng chỉ số thực vật
(hình 7a) đã được so sánh với số liệu nhiệt độ tính
từ hệ số phát xạ chung cho các đối tượng lớp phủ
190
(hình 7b) để đánh giá độ chính xác. So sánh cho
thấy nền nhiệt độ trên toàn thành phố của phương
pháp áp dụng hệ số phát xạ chung cao hơn một
chút, trong đó khác biệt chủ yếu nằm ở một số con
sông lớn và các khu đất nông nghiệp. Một số khu
vực ao hồ nuôi trồng thủy sản ở phía nam đảo Cát
Bà cũng cho giá trị nhiệt độ cao hơn so với kết quả
tính sử dụng chỉ số thực vật.
(a) (b)
Hình 7. Kết quả nhiệt độ bề mặt bằng phương pháp (a) tính hệ số phát xạ sử dụng chỉ số thực vật và (b) hệ số phát xạ chung
Mỗi đối tượng lớp phủ chọn ngẫu nhiên 3 điểm
để so sánh giá trị nhiệt độ, kết quả đối chiếu cho
thấy sai số chênh lệch giữa hai kết quả nằm trong
khoảng 1°C (bảng 2). Nhìn chung, có thể khẳng
định tính nhiệt độ bề mặt bằng tư liệu ảnh vệ tinh
trong đó có tính tới độ phát xạ cho từng điểm ảnh
pixel cho kết quả có độ chính xác tương đương
hoặc cao hơn so với phương pháp xác định nhiệt
độ bằng các hệ số phát xạ chung.
Bảng 2. Kiểm chứng độ chính xác giữa nhiệt độ sử dụng
chỉ số thực vật và nhiệt độ tính bằng hệ số phát xạ chung
STT Lớp phủ (Landcover)
Nhiệt độ (°C)
Dùng chỉ số
thực vật
Dùng hệ số phát xạ
chung
1 Rừng 16,8 16,9
16,5 16,7
17 17,3
2 Cây bụi 18,3 19,2
17,8 18,6
18,6 19,5
3 Đất nông nghiệp 21,4 22,4
20,7 21,5
17,9 18,0
4 Nước 20,2 20,6
19,9 20,2
20,6 21,0
5 Dân cư 19,5 20,5
21,3 21,9
20,7 21,1
6 Đất trống 20,5 20,6
19,8 20,5
21,1 21,6
5. Kết luận
Hiệu chỉnh khí quyển là một trong những bước
xử lý quan trọng không chỉ trong nghiên cứu nhiệt
độ bề mặt mà còn đang gặp nhiều hạn chế và khó
khăn trong các nghiên cứu khoa học Trái đất thông
thường. Ở nghiên cứu này, các tác giả đã giải quyết
được vấn đề nhiễu khí quyển bằng cách hiệu chỉnh
khí quyển sử dụng mô hình FLAASH với các
thông số đặc trưng cụ thể của chính khu vực
nghiên cứu. Các tác giả đã kết hợp ưu điểm của
phương pháp xác định độ phát xạ nhiệt độ bằng chỉ
số thực vật NDVI với việc hiệu chỉnh khí quyển để
nâng cao độ chính xác.
Các phương pháp khác thường sử dụng duy
nhất kênh hồng ngoại nhiệt để tính do đó các kết
quả tính nhiệt độ bề mặt sẽ có cùng độ phân giải
với kênh hồng ngoại nhiệt trong khi kênh này
thường có độ phân giải thô hơn so với kênh phổ ở
dải sóng nhìn thấy và các kênh hồng ngoại khác.
Sử dụng phương pháp xác định nhiệt độ bề mặt
bằng tính hệ số phát xạ áp dụng chỉ số thực vật
NDVI có ưu điểm là khắc phục được vấn đề về độ
phân giải không gian bằng cách đưa kết quả tính
nhiệt độ bề mặt về cùng độ phân giải với các kênh
phổ ở dải sóng nhìn thấy và các kênh hồng ngoại
khác. Bên cạnh đó, phương pháp này tính ra giá trị
hệ số phát xạ chính xác trên từng điểm ảnh do đó
mức độ chi tiết và chính xác được nâng cao. Thậm
chí nếu sử dụng những tư liệu viễn thám quang học
có độ phân giải không gian và thời gian cao, chúng
ta có thể giám sát và đánh giá biến động nhiệt độ
191
một cách chi tiết và liên tục dựa trên một chuỗi tư
liệu viễn thám đa thời gian.
Nghiên cứu này có thể mở rộng thử nghiệm để
tính toán nhiệt độ sử dụng tư liệu Landsat-8 OLI
thế hệ mới để khắc phục vấn đề lỗi bộ cảm của tư
liệu Landsat ETM. Do các phần mềm xử lý ảnh
hiện nay chưa cập nhật được hết các chức năng để
xử lý cho loại tư liệu mới này đặc biệt là chức năng
hiệu chỉnh khí quyển FLAASH trong phần mềm
ENVI nên các tác giả chưa thể thử nghiệm tư liệu
Landsat-8 trong nghiên cứu này.
Ngoài ra, có thể tính nhiệt độ bề mặt cho toàn
quốc bằng những tư liệu viễn thám có độ phân giải
thấp hơn nhưng độ trùm phủ lớn như AVHRR
hoặc MODIS. Đặc biệt ở những tư liệu này, độ
phân giải của một điểm ảnh rất thô (trên 1km) do
đó việc tính toán xác định độ phát xạ của từng
điểm ảnh trong trường hợp này cần được nghiên
cứu và phân tích sâu.
Mối liên hệ giữa chỉ số thực vật NDVI và nhiệt
độ bề mặt LST cũng là một hướng nghiên cứu quan
trọng cần hướng tới để từ đó, chỉ cần dựa trên việc
tính toán nhanh chỉ số thực vật là chúng ta có thể
ước tính ra sự phân bố nhiệt độ bề mặt trên cùng
khu vực mà không cần đòi hỏi những tính toán
phức tạp.
TÀI LIỆU DẪN
[1] ARSC, 2002:Arizona Remote Sensing
Center: Landsat 5 Atmospheric and Radiometric
Correction. Information on website adapted
from Skirvin, S (2000). Cited at:
ing/landsat/ls5-atmo.html. Last accessed: July, 2011.
[2] Chavez, P. S., Jr, 1996: Image-based
atmospheric corrections - Revisited and Improved.
Photogrammetric Engineering and Remote Sensing
62 (9), pp. 1025-1036.
[3] Cổng thông tin điện tử thành phố Hải
Phòng Last accessed: July,
2013.
[4] France, G.B. & Cracknell, A.P., 1994:
Retrieval of land and sea surface temperature using
NOAA-11 AVHRR data in North-Eastern Brazil,
International Journal of Remote Sensing, 15,
1695-1712.
[5] French, A.N., Norman, J.M., Anderson.
M.C., 2003: A simple and fast atmospheric
correction for spaceborne remote sensing of
surface temperature. Remote Sensing of
Environment 87 (2003), 326-333.
[6] Javed Mallick, Yogesh Kant & B.D.
Bharath, 2008: Estimation of land surface
temperature over Delhi using Landsat-7 ETM+.
J. Ind. Geophys. Union. Vol. 12, No.3, pp.131-140.
[7] Matthew, M. W. et al., 2003: Atmospheric
correction of spectral imagery: evaluation of the
FLAASH algorithm with AVIRIS data, Algorithms
and Technologies for Multispectral, Hyperspectral
and Ultraspectral Imagery. IX, SPIE, Orlando, FL,
USA, 474-482.
[8] Ou, S. C., Chen, Y., Liou, K. N., Cosh, M.
& Brutsaert, W., 2002: Satellite remote sensing of
land surface temperatures: Application of the
atmospheric correction method and split-window
technique to data of ARM-SGP site. International
Journal of Remote Sensing, Vol. 23 (24), pp. 5177-
5192.
[9] Pham Van Cu, Hiroshi Watanabe, 2004:
Use of Thermal Infrared Channels of ASTER to
Evaluate the Land Surface Temperature Changes
of an Urban Area in Hanoi, Vietnam. Proceedings
of the International Symposium GIS-IDEAS 2004,
85-90, Hanoi, Vietnam, 16-18 September.
[10] Pu, R., Gong, P., Michishita, R.,
Sasagawa, T., 2006: Assessment of multi-
resolution and multi-sensor data for urban surface
temperature retrieval. Remote Sensing of
Environment, 104 (2006), pp. 211-225.
[11] Richter, R., 2003: Status of Model
ATCOR4 on Atmospheric/Topographic Correction
for Airborne Hyperspectral Imagery. 3rd EARSeL
Workshop on Imaging Spectroscopy, Herrsching,
13-16 May 2003.
[12] Salisbury, J.W. & D'Aria, D.M., 1994:
Emissivity of Terrestrial Materials in the 2 to
5micro meter Atmospheric Window, Remote
Sensing Environment, 47 (3), 345-361.
[13] Tran Thi Van, 2005: Investigating Feature
of Urban Surface Temperature with Distribution of
Land Cover Types in HoChiMinh ity using
Thermal Infrared Remote Sensing. Proceedings of
the 26th Asian Conference on Remote Sensing
(ACRS 2005), Hanoi, Vietnam, 7-11 November.
192
[14] Trần Thị Vân, Hoàng Thái Lan, Lê Văn
Trung, 2009: Phương pháp viễn thám nhiệt trong
nghiên cứu phân bố nhiệt độ bề mặt đô thị. Tc. Các
KH về TĐ, T.31, 2, 168-177.
[15] Valor, E. & Caselles, V., 1996: Mapping
land surface emissivity from NDVI. Application to
European, African and South American areas.
Remote Sensing of Environment, 57, 167-184.
SUMMARY
Estimation of land surface temperature using emissivity calculated from Normalized Difference Vegetation Index
Using thermal infrared remote sensing for calculation of land surface temperature recently has been applied
increasingly in the environmental sciences. This paper presents a method of determination of land surface temperature
using Normalized Difference Vegetation Index (NDVI) for calculating emissivity. In this study, an attempt has been made
to replace the use of an in-situ emissivity as a standard coefficient for the whole study area in traditional methods. The
emissivity per pixel retrieved directly from satellite data has been estimated for retrieval of land surface temperature at
the better accuracy level. The results show that the satellite derived land surface temperature values are in acceptable
agreement with the values which were calculated from in-situ emissivity. It is also found that a strong correlation between
emissivity and normalized difference vegetation index (NDVI) over different landcover classes is taken.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4500_16068_1_pb_736_2100720.pdf