Rối loạn trục phosphate/vitamin D được coi là
một trong những bước quan trọng trong sự tiến
triển của bệnh thận mạn, chịu trách nhiệm cho bệnh
lý tim mạch. Khi nồng độ phosphate cao trong huyết
thanh có thể dẫn đến tỷ lệ tử vong của bệnh nhân
BTM tăng đáng kể, FGF-23 có thể được coi là một
trong những chỉ số để chỉ ra khả năng có bệnh lý tim
mạch trong bệnh thận mạn. Các nghiên cứu trước
đây đã cho thấy có mối liên hệ của FGF-23 đối với
tăng huyết áp, suy tim và rối loạn nhịp tim. Người ta
đã nhận thấy rằng vai trò của FGF-23 trong việc thúc
đẩy bệnh tim mạch thực chất là thông qua việc kích
hoạt hệ thống renin-angiotensin-aldosterone, thúc
đẩy tái hấp thu natri ở ống lượn xa, dẫn đến huyết
áp tăng cao, gây ra chứng phì đại cơ tim và rối loạn
nhịp tim. FGF-23 có thể điều chỉnh sự cân bằng giữa
phosphate cơ thể và vitamin D ở một mức độ nhất
định. Tuy nhiên, nó có thể gián tiếp kích thích sự
xuất hiện của bệnh lý tim mạch ở bệnh nhân bệnh
thận mạn.
Qua nghiên cứu đường cong ROC, chúng tôi
nhận thấy FGF-23 có trị cao hơn hẳn PTH trong việc
dự báo các rối loạn khoáng xương, với diện tích dưới
đường cong 0,891 trong việc dự báo tăng nồng độ
canxi máu toàn phần, 0,819 trong việc dự báo tăng
nồng độ phospho máu và 0,849 trong việc tăng tích
số canxi x phospho.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu nồng độ FGF-23 huyết thanh ở bệnh nhân bệnh thận mạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
100
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Hữu Vũ Quang, email: huuquangtw2tn@gmail.com DOI: 10.34071/jmp.2020.2.15
Ngày nhận bài: 18/11/2019; Ngày đồng ý đăng: 27/4/2020
Nghiên cứu nồng độ FGF-23 huyết thanh ở bệnh nhân bệnh thận mạn
Nguyễn Hữu Vũ Quang1, Võ Tam2
(1) Nghiên cứu sinh Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Bộ môn Nội, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Mục tiêu: Xác định nồng độ FGF-23 huyết thanh ở bệnh nhân bị bệnh thận mạn (BTM) chưa lọc máu
và lọc máu chu kỳ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, mô tả nồng độ FGF-23
huyết thanh và một số các thông số sinh hóa khác của 149 bệnh nhân bị bệnh thận mạn tại Bệnh viện Trung
ương Huế, đối chiếu với nhóm chứng gồm 64 người không bị BTM. Kết quả: Nồng độ FGF-23 ở nhóm chứng,
nhóm BTM chưa lọc máu và nhóm LMCK lần lượt là 32,53 ± 9,803 pg/ml, 333,01 ± 243,02717 pg/ml, 717,66
± 357,360 pg/ml, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Các chỉ số nồng độ FGF-23, PTH, Canxi toàn
phần, phospho, tích số Canxi x phospho tăng khi giai đoạn suy thận tăng (p < 0,05). Các chỉ số Vitamin D và
canxi ion giảm khi giai đoạn suy thận tăng (p < 0,05). So với PTH, FGF-23 có giá trị dự báo tốt hơn việc tăng
nồng độ canxi máu toàn phần. Nồng độ FGF-23, PTH đều có giá trị dự báo tăng nồng độ Phospho máu, nhưng
FGF-23 có giá trị hơn với diện tích dưới đường cong cao hơn. Nồng độ FGF-23 và PTH đều có giá trị dự báo
tăng tích Ca x P máu nhưng FGF-23 có giá trị hơn với diện tích dưới đường cong cao hơn. Nồng độ FGF-23 có
giá trị dự báo tăng nồng độ PTH máu với diện tích dưới đường cong bằng 0,765 và có ý nghĩa thống kê với p
< 0,05. Kết luận: Nồng độ FGF-23 tăng cao có ý nghĩa ở bệnh nhân bị bệnh thận mạn, và có giá trị dự báo sự
thay đổi các yếu tố liên quan tới chuyển hóa muối khoáng như Canxi, Phospho, PTH
Từ khoá: nồng độ FGF-23, bệnh thận mạn
Abstract
Study on serum FGF-23 concentration in patients with chronic kidney
disease
Nguyen Huu Vu Quang1, Vo Tam2
(1) PhD Student of Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Dept. of Internal Medicine,Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Objective: To determine the serum FGF-23 levels in patients with chronic kidney disease (CKD) receiving
conservative treatment and hemodialysis. Method: Cross-sectional study, describing serum FGF-23 concen-
tration and some other biochemical parameters of 149 patients with chronic kidney disease at Hue Central
Hospital, compared with a control group of 64 people who were not affected by CKD. Results: The concen-
tration of FGF-23 in the control group, conservative treatment and hemodialysis group were 32.53 ± 9.803
pg/ml, 333.01 ± 243.02717 pg/ml, 717.66 ± 357.360 pg/ml, respectively, there were statistically significant
differences (p < 0.05). The concentration of FGF-23, PTH, total Calcium, phosphorus, Calcium x phosphorus
accumulation increased with increasing renal failure (p < 0.05). The concentration of Vitamin D and calcium
ion decrease when renal failure level increases (p < 0.05). FGF-23 had a better predictive value of the in-
creasing total blood calcium level than PTH. FGF-23, PTH levels were all predictive of increasing blood phos-
phorus level, but FGF-23 was more valuable. Concentrations of FGF-23 and PTH had predictive values of the
increasing Calcium x phosphorus accumulation, but FGF-23 was more valuable. The concentration of FGF-23
had predictive value of the increasing PTH concentration with the area under the curve by 0.765 (p < 0.05).
Conclusion: The concentration of FGF-23 significantly increased in patients with chronic kidney disease, and
is worth predicting changes in factors related to mineral metabolism such as Calcium, Phosphorus, PTH.
Key words: Chronic kidney disease, Fibroblast growth factor 23, Parathyroid hormone, Renal osteodystro-
phy, Calcium phosphate product
101
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Yếu tố tăng sinh nguyên bào sợi 23 (Fibroblast
Growth Factor - FGF 23) đã được chứng minh là một
hormon có vai trò tác động lên việc khoáng hóa,
chuyển hóa vitamin D, chức năng tuyến cận giáp và
chức năng bài tiết phosphate của thận. Nhiều nghiên
cứu đã cho thấy mối liên quan giữa FGF-23 và sự
phát triển của các bệnh lý tim mạch, và tỷ lệ tử vong
với các kết quả mâu thuẫn nhau [5],[7]. Cùng với sự
tăng nồng độ FGF-23 với tiến triển của bệnh thận
mạn (BTM), những tác động của nó lên sự chuyển
hóa khoáng, và mối liên quan có thể của nó với sự
phát triển của các bệnh lý tim mạch, FGF-23 có thể
được xem là một yếu tố tiên lượng [2]. FGF-23 tăng
song song với sự gia tăng nồng độ phosphate từ giai
đoạn đầu của BTM, được biết là góp phần vào sự
tiến triển của cường tuyến cận giáp thứ phát bằng
cách ức chế 1,25-dihydroxyvitamin D và tăng bài tiết
phosphate [6]. FGF-23 đang nổi lên như một dấu ấn
sinh học mới có thể giúp xác định bệnh nhân BTM
nào có thể hưởng lợi nhiều nhất từ việc kiểm soát
tích cực quá trình chuyển hóa phospho bị rối loạn.
Cũng có thể là mức FGF23 tăng rõ rệt trong BTM có
thể đóng góp trực tiếp vào tổn thương mô ở tim,
mạch và thận, một câu hỏi thú vị chắc chắn sẽ là chủ
đề nghiên cứu mạnh mẽ trong tương lai gần [8] .
Nghiên cứu này nhằm xác định nồng độ FGF-23
ở bệnh nhân bị BTM chưa lọc máu và lọc máu chu
kỳ trong tham chiếu với nồng độ FGF-23 ở các đối
tượng không có BTM
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành từ tháng
09/2016 đến tháng 12/2017 tại khoa Nội Thận - Cơ
Xương Khớp và khoa Thận nhân tạo Bệnh viện Trung
ương Huế. Chúng tôi tiến hành khảo sát 213 người
được chia làm 3 nhóm: nhóm bệnh nhân bệnh thận
mạn chưa lọc máu (88 bệnh nhân), nhóm bệnh nhân
bệnh thận mạn giai đoạn cuối đang lọc máu chu kì
(61 bệnh nhân) và nhóm chứng (64 người).
Trong đó nhóm chứng là người khỏe mạnh đi
khám sức khỏe định kỳ tại khoa khám bệnh Bệnh
viện Trường Đại học Y Dược Huế.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt
ngang, với các biến số nghiên cứu: Tuổi, Giới, BMI,
huyết áp tâm thu (HATT), huyết áp tâm trương (HAT-
Tr), canxi, phospho, FGF 23, PTH, vitamin D, MLCT.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Nhóm n Tuổi Giới
(nam/nữ)
BMI MLCT HATT
(mmHg)
HATTr
(mmHg)
Chứng1 64 50,33±16,58 59,4/40,6 20,33±1,963 104,14±12,234 118,67±12,606 70,08±7,792
ĐTBT2 88 54,8±14,62 47,7/52,3 20,56±2,827 17,17±11,613 145,97±25,99 84,83±13,63
LMCK3 61 49,23±14,31 55,7/44,3 20,57±1,961 10,48±4,505 140,38±7,371 80,16±4,99
p
p1&2;p1&3;
p2&3 > 0,05
p1&2; p1&3;
p2&3 > 0,05
p1&2, p1&3;
p2&3 > 0,05
p1&2; p1&3,
p2&3 < 0,05
p1&2;
p1&3 < 0,05
p2&3 >0,05
p1&2 ;
p1&3 < 0,05
p2&3 > 0,05
Mức lọc cầu thận có sự khác biêt có ý nghĩa thống kê giữa 3 nhóm đối tượng nghiên cứu, huyết áp tâm
thu và tâm trương của bệnh nhận có BTM cao hơn nhóm chứng.
Bảng 2. Nồng độ FGF-23
Nhóm nghiên cứu
Nhóm chứng1
(n = 64)
Chưa lọc máu2
(n = 88)
LMCK3
(n = 61)
FG
F-
23
(p
g/
m
l)
Trung vị 29,19 263,36 708,55
Nhỏ nhất 14,1 62,8 85,6
Lớn nhất 58,1 1063,9 1403,7
Trung bình ± ĐLC 32,53 ± 9,803 333,01±243,02 717,66 ± 357,360
p p1&2; p1&3; p2&3 < 0,05
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nồng độ FGF–23 ở 3 nhóm nghiên cứu. Nhóm BTM chưa lọc máu có
nồng độ FGF–23 cao hơn nhóm chứng gấp 10 lần, nhóm LMCK cao hơn nhóm chứng 22 lần và nhóm LMCK
cao hơn nhóm chưa lọc máu 2,15 lần.
102
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Bảng 3. Tổng quan nồng độ FGF-23, PTH, Vitamin D và các chỉ số sinh hóa của các đối tượng nghiên cứu
Nhóm N FGF-23
(pg/ml)
PTH
(pg/ml)
VitaminD
(ng/ml)
Ca2+
(mmol/l)
Canxi TP
(mmol/l)
Phospho
(mmol/l)
Ca_P
(mmol/l)
Chứng 64
32,53
± 9,803
37,74
±11,489
35,37
±5,462
1,22
±0,635
2,28
±0,962
1,28
±0,226
2,92
±0,570
GĐ 3 20
95,24
±20,679
97,65
±95,269
24,94
±11,248
1,11
±0,168
2.04
±0,281
1.8
±0,665
3,56
±1,049
GĐ 4 26
309,72
±224,157
84,55
±81,467
21,11
±12,089
1,16
±0,281
2,12
±0,429
1,74
±0,681
3,66
±1,502
GĐ 5 42
460,65
±223,227
155,51
±139,593
22,26
±10,739
1.01
±0,213
1.93
±0,341
2,02
±0,719
3,83
±1,321
LMCK 61 717,661
±357,359
171,73
±205,290
21,61
±5,873
1,18
±0,140
2,45
±0,244
2,03
±0,543
5,11
±1,999
p 213 < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05 < 0,05
Các chỉ số nồng độ FGF-23, PTH, Canxi toàn phần, phospho, tích số Canxi x phospho tăng khi giai đoạn suy
thận tăng có ý nghĩa thống kê.
Các chỉ số Vitamin D và canxi ion giảm khi giai đoan suy thận tăng có ý nghĩa thống kê.
Biểu đồ 1. Đường cong ROC nồng độ FGF-23, PTH dự báo tăng nồng độ canxi máu toàn phần
Bảng 5. Nồng độ FGF-23 theo giai đoạn bệnh thận mạn
Diện tích dưới đường cong p Khoảng tin cậy 95%
FGF-23 0,891 < 0,05 0,828 - 0,954
PTH 0,577 > 0,05 0,426 - 0,727
103
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
So với PTH, FGF-23 có giá trị dự báo tốt hơn việc tăng nồng độ canxi máu toàn phần.
Biểu đồ 2. Đường cong ROC nồng độ FGF-23, PTH dự báo bệnh nhân tăng nồng độ Phospho máu
Bảng 7. Nồng độ FGF-23 huyết thanh theo nồng độ Phospho máu
Diện tích dưới đường cong p Khoảng tin cậy 95%
FGF-23 0,819 < 0,05 0,761 - 0,877
PTH 0,758 < 0,05 0,691 - 0,825
Nồng độ FGF-23, PTH đều có giá trị dự báo tăng nồng độ Phospho máu có ý nghĩa thống kê, nhưng FGF-23
có giá trị hơn với diện tích dưới đường cong cao hơn.
Biểu đồ 3. Đường cong ROC nồng độ FGF-23, PTH dự báo bệnh nhân tăng tích Ca xP máu
Diện tích dưới đường cong p Khoảng tin cậy 95%
FGF-23 0,849 < 0,05 0,799 - 0,899
PTH 0,720 < 0,05 0,648 - 0,793
104
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Nồng độ FGF-23 và PTH đều có giá trị dự báo tăng tích Ca xP máu nhưng FGF-23 có giá trị hơn với diện tích
dưới đường cong cao hơn
Biểu đồ 3.4. Đường cong ROC nồng độ FGF-23 dự báo tăng PTH
Bảng 10. Nồng độ FGF-23 huyết thanh theo nồng độ Vitamin D trong bệnh thận mạn
Diện tích dưới đường cong p Khoảng tin cậy 95%
0,765 <0,05 0,699 - 0,831
Nồng độ FGF-23 có giá trị dự báo tăng nồng độ PTH máu với diện tích dưới đường cong bằng 0,765 và có
ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
4. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu, nồng độ FGF-23 trung bình
và trung vị ở nhóm chứng là 32,53 ± 9,803 và 29,19
(14,1-58,1) pg/ml,ở nhóm BTM chưa lọc máu là
333,01 ± 243,02 và 263,36 (62,8-1063,9) pg/ml,
ở nhóm bệnh thận mạn lọc máu chu kỳ là 717,66
±357,36 và 708,55 (85,6-1403,7) pg/ml. Sực khác
biệt này có ý nghĩa thống kê giữa 3 nhóm với p <
0,05.
Hiện qua tham khảo, ở Việt Nam chưa có nghiên
cứu nào về FGF- 23 trên bệnh nhân bệnh thận mạn.
Trong một vài nghiên cứu nước ngoài chỉ ra nồng
độ FGF-23 tăng ở bệnh nhân bệnh thận mạn so với
nhóm chứng là người khỏe mạnh. Tuy nhiên mức
độ tăng FGF-23 rất khác nhau giữa các nghiên cứu,
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức lọc cầu thận,
phospho, vitamin D .
Theo nghiên cứu của Lukaszyk năm 2015 trên 84
bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn sớm (2-3) cho
thấy nồng độ FGF-23 có trung vị là 46 (32-60) pg/
ml cao hơn nhóm chứng có trung vị là 13,5 ( 11-17)
pg/ml có ý nghĩa thống kê với p < 0,001 [4]. Trong
nghiên cứu về mức độ đề kháng insulin ở bệnh nhân
bệnh thận mạn giai đoạn 3-5 của Fayed năm 2018
trên 100 bệnh nhân, cho thấy nồng độ trung bình
của FGF-23 là 234,1 ± 23 pg/ml, trung vị là 235pg/ml
cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê, p < 0,01
kết quả này tương tự nhóm bệnh thận mạn chưa lọc
máu của chúng tôi (bệnh thạn mạn giai đoạn 3-5) có
trung vị là 263,36 pg/ml [1].
Theo nghiên của của Li J.-X năm 2018 trên 128
bệnh nhân BTM giai đoạn 1 đến 5 có nồng độ FGF-
23 trung bình là 337,4 ± 67,3 pg/ml trong đó nhóm
BTM giai đoạn 4 có nồng độ FGF-23 trung bình là
203,4 ± 21,3 pg/ml và giai đoạn 5 là 317,5 ± 21,7 pg/
ml [3]. Theo nghiên cứu của Westerberg năm 2007
trên 72 bệnh nhân bệnh thận mạn giai đoạn 1-5 có
nồng độ FGF-23 trung bình là 235 ± 367 pg/ml trong
đó, nhóm bệnh thận mạn giai đoạn 3 thì nồng độ
FGF-23 trung bình là 56 ± 31 pg/ml, bệnh thận mạn
giai đoạn 4 là 266 ± 315 pg/ml và bệnh thận mạn giai
đoạn 5 là 702 ± 489 pg/ml [9], trong nghiên cứu của
chúng tôi có kết quản khá tương đồng.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở trên cho thấy
độ FGF-23 tăng rất cao, có ý nghĩa thống kê ở nhóm
bệnh nhân có tăng nồng độ phospho, tích số Ca x P,
PTH và Vitamin D giảm, đều này cũng tương tự các
nghiên cứu của Westerberg và của Li J.-X.
Nồng độ FGF-23 tăng cao tương ứng với nồng
độ canxi toàn phần, phospho và canxi ion, vitamin
105
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
D giảm, mức lọc cầu thận ước tính thấp. Trong các
nghiên cứu đã công bố trên thế giới hiện nay, chúng
tôi nhận thấy nồng độ FGF-23 trong huyết thanh liên
quan đến các thông số sinh hóa khác nhau ở các giai
đoạn bệnh thận mạn với các mức độ khác nhau của
chức năng thận. Tương đồng với các báo cáo trước
đây, nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy rằng
FGF-23 được tăng lên ở các giai đoạn sau của bệnh
thận mạn và FGF-23 gia tăng đáng kể ở bệnh nhân
bệnh thận mạn giai đoan 4 trở lên.
Yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi 23 (FGF-23)
là một protein có trọng lượng phân tử 32kDa. Vai
trò chính của FGF23 là điều chỉnh phốt phát và ức
chế chuyển đổi 25-hydroxyvitamin D thành dạng
hoạt động 1,25-dihydroxyvitamin D bằng cách
tăng bài tiết phospho qua nước tiểu. Việc giảm
1,25-dihydroxyvitamin D có thể dẫn đến tăng hấp
thu phospho trong đường tiêu hóa, từ đó gây ra
hội chứng cường cận giáp thứ phát. Vì thế, nồng độ
bình thường của FGF-23 có vai trò quan trọng trong
việc duy trì chức năng bình thường của trục nội tiết
trong cơ thể người. Hơn nữa, nó cũng hữu ích trong
việc duy trì sự khoáng hóa xương khỏe mạnh và
chuyển hóa canxi-phospho. Tuy nhiên, sự cân bằng
trên bị rối loạn ở bệnh nhân bệnh thận mạn. Khi độ
lọc cầu thận giảm đáng kể ở bệnh nhân bệnh thận
mạn, nồng độ FGF-23 trong huyết thanh sẽ tăng lên,
dẫn đến tăng bài tiết phosphate, từ đó gây ra các rối
loạn khoáng xương ở bệnh nhân BTM. Các nghiên
cứu trước đây cũng cho thấy nồng độ FGF-23 huyết
thanh cao có mối tương quan nhất định với sự xuất
hiện của các biến cố tim mạch bao gồm: phì đại thất
trái, bệnh tim thiếu máu cục bộ, đột quỵ, suy tim,
rung nhĩ
Rối loạn trục phosphate/vitamin D được coi là
một trong những bước quan trọng trong sự tiến
triển của bệnh thận mạn, chịu trách nhiệm cho bệnh
lý tim mạch. Khi nồng độ phosphate cao trong huyết
thanh có thể dẫn đến tỷ lệ tử vong của bệnh nhân
BTM tăng đáng kể, FGF-23 có thể được coi là một
trong những chỉ số để chỉ ra khả năng có bệnh lý tim
mạch trong bệnh thận mạn. Các nghiên cứu trước
đây đã cho thấy có mối liên hệ của FGF-23 đối với
tăng huyết áp, suy tim và rối loạn nhịp tim. Người ta
đã nhận thấy rằng vai trò của FGF-23 trong việc thúc
đẩy bệnh tim mạch thực chất là thông qua việc kích
hoạt hệ thống renin-angiotensin-aldosterone, thúc
đẩy tái hấp thu natri ở ống lượn xa, dẫn đến huyết
áp tăng cao, gây ra chứng phì đại cơ tim và rối loạn
nhịp tim. FGF-23 có thể điều chỉnh sự cân bằng giữa
phosphate cơ thể và vitamin D ở một mức độ nhất
định. Tuy nhiên, nó có thể gián tiếp kích thích sự
xuất hiện của bệnh lý tim mạch ở bệnh nhân bệnh
thận mạn.
Qua nghiên cứu đường cong ROC, chúng tôi
nhận thấy FGF-23 có trị cao hơn hẳn PTH trong việc
dự báo các rối loạn khoáng xương, với diện tích dưới
đường cong 0,891 trong việc dự báo tăng nồng độ
canxi máu toàn phần, 0,819 trong việc dự báo tăng
nồng độ phospho máu và 0,849 trong việc tăng tích
số canxi x phospho.
5. KẾT LUẬN
Nồng độ FGF-23 tăng cao có ý nghĩa ở bệnh nhân
bị bệnh thận mạn, và có giá trị dự báo sự thay đổi
các yếu tố liên quan tới chuyển hóa muối khoáng
như Canxi, Phospho, PTH.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Fayeda A. et al (2018), “Fibroblast growth factor-23
is a strong predictor of insulin resistance amongchronic
kidney disease patients”, Renal Failure; 40(1): 226–230
2.FliserD. ,Kollerits B. ,Neyer U. et al. (2007),
“Fibroblast growth factor23 (FGF23) predicts progression
of chronic kidney disease: theMild to Moderate Kidney
Disease (MMKD) Study,” Journal oftheAmerican Society
ofNephrology; 18(9): 2600–2608.
3. Li J. X.,Yu G. Q., Zhuang Y. Z. (2018), “Impact of
serum FGF23 levels on blood pressureof patients with
chronic kidney disease”, European Review for Medical and
Pharmacological Sciences; 22: 721-725
4. Lukaszyk E., et al (2017), “Fibroblast growth factor
23, iron and inflammation– are they related in early stages
of chronic kidneydisease?”, Arch Med Sci; 13(4): 845–850.
5. MirzaM. A. I., LarssonA., MelhusH., LindL. ,LarssonT.
E. (2009), “Serum intact FGF23 associate with left
ventricularmass, hypertrophy and geometry in an elderly
population,”Atherosclerosis; 207(2): 546–551.
6. NakaiK., KomabaH., FukagawaM. (2010), “New
insights into therole of fibroblast growth factor 23 in chronic
kidney disease,”Journal of Nephrology; 23(6): 619-625.
7. ParkerB. D., SchurgersL. J., BrandenburgV. M. et al.
(2010), “Theassociations of fibroblast growth factor 23
and uncarboxylatedmatrix Gla protein with mortality in
coronary artery disease:the heart and soul study,” Annals
of Internal Medicine; 152(10): 640–648.
8. Wahl P, Wolf M (2012), “FGF23 in chronic kidney dis-
ease”, Adv Exp Med Biol;728:107-25.
9. Westerberg PA, Linde T, Wikstrom B, et al(2007),
“Regulation of fibroblastgrowth factor-23 in chronic
kidney disease”,Nephrol Dial Transplant;22:3202–7.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_nong_do_fgf_23_huyet_thanh_o_benh_nhan_benh_than.pdf