Đã tìm được tỉ lệ thành phần (nepoxy/nMHHPA:
1,05/1; NMI: 2%(mDĐN-E + mMHHPA); glyxerin: 1,5%
(mDĐN-E + mMHHPA) và điều kiện tối ưu (165oC, 40
phút) cho đóng rắn dầu đậu nành epoxy hóa.
Đá nhân tạo được chế tạo từ dầu đậu nành epoxy
hóa có các tính chất đặc trưng đáp ứng được yêu cầu
đối với vật liệu đá nhân tạo theo tiêu chuẩn vật liệu
ốp lát Châu Âu EN - 15285:2008. Vậy nên kết quả
công trình nghiên cứu góp phần mở ra hướng thay thế
nhựa polyeste không no độc hại có nguồn gốc từ dầu
mỏ bằng dầu đậu nành epoxy hóa có nguồn gốc tái
tạo trong sản xuất đá nhân tạo thân thiện môi trường.
Lời cảm ơn: Công trình được hỗ trợ bởi PTN Trọng
điểm Polyme & Compozit, Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội, đề tài T2016-ĐT-04-PTNTĐ, Trung tâm nghiên cứu
và phát triển (R&D center) của công ty cổ phần Vicostone,
sinh viên Phan Ngọc Quý và Nguyễn Thị Hiên.
5 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 759 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu phản ứng đóng rắn dầu đậu nành epoxy hóa ứng dụng cho chế tạo đá nhân tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 095-099
95
Nghiên cứu phản ứng đóng rắn dầu đậu nành epoxy hóa
ứng dụng cho chế tạo đá nhân tạo
The Investigation of the Curing Reaction of Epoxidized Soybean Oil for Engineered Stone Application
Nguyễn Thị Thủy*, Vũ Minh Đức, Nguyễn Thanh Liêm
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội - Số 1, Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Đến Tòa soạn: 08-9-2016; chấp nhận đăng: 25-01-2018
Tóm tắt
Metyl hexahydro phtalic anhydrit (MHHPA) được sử dụng làm chất đóng rắn cho dầu đậu nành epoxy hóa
với sự có mặt của xác tác metyl imidazon (NMI) . Ảnh hưởng của hàm lượng MHHPA, NMI, glyxerin và cả
nhiệt độ tới quá trình đóng rắn dầu đậu nành epoxy hóa đã được nghiên cứu thông qua nhiệt tỏa ra của
phản ứng đóng rắn. Phân tích nhiệt vi sai DSC đã được sử dụng để tính toán mức độ đóng rắn theo thời
gian cho hệ dầu đậu nành epoxy hóa – MHHPA với sự có mặt của NMI và glyxerin. Điều kiện đóng rắn tối
ưu nepoxy/nMHHPA: 1,05/1; NMI: 2% (mDĐN-E + mMHHPA); glyxerin: 1,5% (mDĐN-E + mMHHPA); 165oC, 40 phút) được
sử dụng để chế tạo đá nhân tạo nhựa nền dầu đậu nành epoxy hóa. Kết quả về các tính chất của đá nhân
tạo mở ra hướng thay thế nhựa polyeste không no độc hại bằng dầu đậu nành epoxy hóa thân thiện môi
trường trong chế tạo đá nhân tạo.
Từ khóa: Dầu đậu nành epoxy hóa, MHHPA, imidazon, đá nhân tạo, mức độ đóng rắn
Abstract
Methylhexahydrophthalic anhydride (MHHPA) is used as the hot curing agent for epoxidized soybean oil
with the presence of methyl imidazone (NMI). Effect of MHHPA, NMI, glycerine content and temperature on
the hardening process were studied through the peak exothermic temperature of curing reaction. Moreover,
differential scanning calorimetry analysis (DSC) was used to calculate a curing degree over time for
epoxidized soybean oil-MHHPA system with the presence of NMI and glycerine. The obtained optimal
conditions (nepoxy /nMHHPA: 1.05/1; NMI: 2% (mDĐN-E + mMHHPA); glycerine: 1.5% (mDĐN-E + mMHHPA); 165oC, 40
minutes) was used for manufacturing the engineered stone. The results of characterizing of this stone
showed that this study could open up the new pathway of replacing a hazardous unsaturated polyester resin
with the environment-friendly epoxidized soybean oil in manufacturing the engineered stone.
Keywords: epoxidized soybean oil, MHHPA, imidazone, engineered stone, curing degree
1. Mở đầu
Cũng* giống như nhựa epoxy tổng hợp có nguồn
gốc từ dầu mỏ, nhựa epoxy có nguồn gốc từ nguồn tái
tạo - dầu thực vật epoxy hóa (EVO) cũng được khâu
mạch tạo cấu trúc không gian ba chiều. Quá trình
đóng rắn nhựa EVO là sự hình thành liên kết thông
qua phản ứng trùng hợp từng bậc. Do độ phân cực
của liên kết C-O nên nguyên tử C của vòng oxiran sẽ
thiếu hụt eletron và hình thành vị trí hoạt động đối
với phản ứng nucleophil trong khi nguyên tử O giàu
electron lại có khả năng vào vị trí phản ứng
electronphil. Tốc độ đóng rắn EVO phụ thuộc vào
nhiệt độ, tác nhân đóng rắn và cơ chế cũng như loại
và số lượng nhóm epoxy có mặt trong EVO.
Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về
hoạt tính của EVO với các hướng tiếp cận khác nhau
nhưng đều có kết luận giống nhau đó là do sự che
* Địa chỉ liên hệ: Tel: (+84) 904505335
Email: thuy.nguyenthi1@.hust.edu.vn
chắn không gian và nhóm thế ankyl đẩy electron nên
nhóm epoxy nội mạch trong EVO (nhóm epoxy trong
EVO nằm ở giữa mạch - gọi là nhóm epoxy nội
mạch) ít hoạt tính hơn nhóm epoxy trong nhựa epoxy
có nguồn gốc từ dầu mỏ (nhóm epoxy nằm ở đầu
mạch - gọi nhóm epoxy ngoại mạch). Vì vậy, tốc độ
phản ứng của EVO với chất đóng rắn nucleophin thấp
hơn nhưng với chất đóng rắn electrophil lại cao hơn
so với nhóm epoxy ngoại mạch. Do đó EVO phản
ứng đặc biệt chậm với chất đóng rắn polyamin.
Không những thế, hoạt tính của nhóm epoxy trong
một số loại EVO còn giảm hơn nữa nếu hàm lượng
nhóm oxiran thấp. Trong một số trường hợp ứng xử
đóng rắn của EVO tương tự như epoxy vòng no hơn
là epoxy dian. Chính vì vậy, polyaxit và dẫn xuất
anhydrit với sự có mặt của xúc tác cation thường
được sử dụng để đóng rắn EVO [1].
Anhydrit là tác nhân đóng rắn chính cho EVO
do khả năng phản ứng của chúng với nhóm epoxy nội
mạch. Phản ứng của anhydrit với nhóm epoxy bao
gồm một loạt các phản ứng phức tạp và cạch tranh
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 095-099
96
nhau diễn ra cùng một thời điểm [2]. Nếu không có
mặt xúc tác phản ứng diễn ra chậm và không triệt để.
Dưới điều kiện của xúc tác như amin bậc 3 hoặc
imidazon phản ứng diễn ra nhanh hơn [3]. Cơ chế
khởi đầu cùng với amin bậc 3 hoặc imidazon rất phức
tạp và chưa được thống nhất. Theo S. G. Tan và W.
S. Chow: (1) xúc tác phản ứng với anhydrit tạo ra
anion cacboxyl, (2) ion cacboxylat này sau đó mới
đóng vài trò như nucleophil để mở vòng epoxy sinh
ra anion alkoxit, (3) anion alkoxit này lại quay trở lại
mở vòng nhóm anhydrit và tiếp tục sinh ra anion
cacboxylat và kết quả là hình thành nhựa epoxy đã
đóng rắn [4]. Nhưng theo Günter Wuzella cơ chế
đóng rắn dầu lanh epoxy hóa bằng nadic metyl
anhydrit và xúc tác imidazon qua ba giai đoạn: (1)
bước khởi đầu imidazon phản ứng với nhóm epoxy,
(2) bước este hóa và (3) bước ete hóa [5]. Còn với
Dean C. Webster có ba phản ứng khởi đầu có thể xảy
ra: (1) phản ứng của nhóm epoxy và amin bậc 3, (2)
phản ứng của nhóm HO-C- với nhóm anhydrit và (3)
phản ứng của amin bậc 3 với nhóm anhydrit [6].
Công trình này tập chung vào nghiên cứu ảnh
hưởng của chất đóng rắn, xúc tác, nhiệt độ, thời
gian đến quá trình đóng rắn dầu đậu nành epoxy
hóa (DĐN-E) để từ đó ứng dụng làm nhựa nền cho
sản xuất đá nhân tạo.
2. Thực nghiệm
2.1. Nguyên liệu
Dầu đậu nành epoxy hóa được tổng hợp tại
trung tâm Polyme đại học Bách khoa Hà Nội từ dầu
đậu nành Việt Nam có chỉ số iốt 131 cgI2/g. Muối
Na2WO4 của Merck (Đức). H3PO4 85% Việt Nam).
Thuốc thử Wijs của Merck (Đức). Axit bromic 33%
của Sigma-Aldrich (Mỹ). Hydro peroxit 30% của
Xilong (Trung Quốc). Metyl hexahydro phtalic
anhydrit (MHHPA) (Mỹ), 1- metyl imidazon (NMI),
glyxerin (Trung Quốc) và một số hóa chất khác.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phân tích dầu đậu nành epoxy hóa
Chỉ số oxy-oxiran và chỉ số iôt được xác định lần
lượt theo tiêu chuẩn ASTM D5768 và ASTM
D1652. Tỉ trọng được xác định bằng tỉ trọng kế 25ml
(Trung Quốc). Độ nhớt và chiết suất lần lượt được
đo trên nhớt kế Brookfield Model RVT (Mỹ) và máy
Atago 1T (Nhật Bản).
2.2.2. Các phương pháp nghiên cứu đóng rắn
Phương pháp tỏa nhiệt cực đại được thực hiện
theo tiêu chuẩn ASTM D2471. Phương pháp xác định
mức độ đóng rắn bằng phân tích nhiệt vi sai (DSC)
được xác định theo tiêu chuẩn ASTM E 2160.
2.2.3. Phương pháp chế tạo đá nhân tạo
Đá nhân tạo được chế tạo tại công ty cổ phần đá
ốp lát cao cấp Vicostone ở Việt Nam theo đúng quy
trình của công ty.
2.2.4. Phương pháp xác định tính chất đá nhân tạo
Độ hấp thụ nước, độ bền uốn, độ bền va đập, độ
chịu mài mòn sâu, độ cứng bề mặt Mohs được xác
định lần lượt theo tiêu chuẩn EN-14617-1, EN-
14617-2, EN-14617-4, EN-14617-9, TCVN 6414-18.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Tổng hợp, đặc trưng dầu đậu nành epoxy hóa
Tiến hành tổng hợp dầu đậu nành epoxy hóa với
tỉ lệ thành phần nguyên liệu và điều kiện phản ứng
theo tài liệu [7]. Sản phẩm sau khi rửa sạch, sấy khô
tiến hành phân tích các tính chất đặc trưng, kết quả
nhận được trình bày trên bảng 1.
Bảng 1: Thông số đặc trưng dầu đậu nành epoxy hóa
Thông số Dầu đậu nành epoxy hóa
Chỉ số oxy-oxiran (%) 6,68
Chỉ số iôt (gI2/100g) 7,5
Tỷ trọng 20°C 1,02
Chiết suất 1,471
Độ nhớt (cP) 20°C 375
Từ bảng 1 nhận thấy, sản phẩm dầu đậu nành
epoxy hóa nhận được có chỉ số oxy-oxiran đạt 6,68
%. Nếu tiến hành quy đổi chỉ số oxy-oxiran sang hàm
lượng nhóm epoxy thì sản phẩm nhận được có hàm
lượng nhóm epoxy đạt 17,95%.
3.2. Nghiên cứu đóng rắn dầu đậu nành epoxy hóa
3.2.1. Nghiên cứu phản ứng đóng rắn
a. Ảnh hưởng của nhiệt độ thực hiện đóng rắn
Tiến hành đóng rắn DĐN-E sử dụng hệ đóng
rắn MHHPA, NMI, glyxerol theo tỷ lệ mol:
nepoxy/nMHHPA là 1,05/1; khối lượng NMI là 2% tổng
khối lượng của DĐN-E và MHHPA (mDĐN-E +
mMHHPA); khối lượng glyxerol là 1,5% (mDĐN-E +
mMHHPA). Quá trình đóng rắn được thực hiện ở các
nhiệt độ từ 140°C đến 170°C. Nhiệt độ tỏa ra do phản
ứng đóng rắn đo trong lòng khối mẫu được trình bày
trên hình 1.
Từ hình 1 nhận thấy, khi thực hiện đóng rắn dầu
đậu nành epoxy hóa ở 140oC, nhiệt độ trong lòng
khối mẫu tăng chậm và đạt nhiệt độ cực đại 156,6oC
sau 11,25 phút thực hiện đóng rắn, tức là tăng 16,6oC
so với nhiệt độ thực hiện phản ứng đóng rắn. Tăng
nhiệt độ thực hiện đóng rắn tới 150oC, nhiệt độ trong
lòng khối mẫu tăng nhanh hơn một chút và đạt nhiệt
độ cực đại 171,3oC sau 9,25 phút thực hiện đóng rắn.
Trong trường hợp này, nhiệt độ trong lòng khối mẫu
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 095-099
97
tăng 21,3oC so với nhiệt độ thực hiện đóng rắn, chứng
tỏ phản ứng đóng rắn dầu đậu nành epoxy hóa diễn ra
mạnh hơn khi thực hiện đóng rắn ở 140oC.
Hình 1. Ảnh hưởng của nhiệt độ thực hiện đóng rắn
Tiếp tục tăng nhiệt độ thực hiện đóng rắn tới
160oC và 170oC, nhiệt độ trong lòng khối mẫu đều
tăng nhanh và đạt nhiệt độ cực đại lần lượt tại
186,7oC và 189,5oC chỉ sau 7 phút thực hiện đóng
rắn. Chứng tỏ với khoảng nhiệt độ thực hiện đóng rắn
này phản ứng đóng rắn diễn ra rất mãnh liệt. Nhiệt độ
thực hiện đóng rắn tăng từ 160oC tới 170oC, thời gian
đạt nhiệt độ cực đại đều sau 7 phút thực hiện đóng
rắn nhưng lại làm tăng không nhiều nhiệt độ cực đại
(từ 186,7oC tới 189,5oC). Chênh lệch giữa nhiệt độ
cực đại và nhiệt độ thực hiện đóng rắn lần lượt là
26,7oC (với nhiệt độ thực hiện đóng rắn 160oC) và
19,5oC (với nhiệt độ thực hiện đóng rắn 170oC)
chứng tỏ 160oC cho phản ứng diễn ra mãnh liệt hơn.
Vì vậy chọn 160oC làm nhiệt độ đóng rắn dầu đậu
nành epoxy hóa cho nghiên cứu tiếp theo.
b. Ảnh hưởng của hàm lượng MHHPA
Tiến hành đóng rắn DĐN-E sử dụng hệ đóng
rắn MHHPA, NMI, glyxerol theo tỷ lệ: nepoxy/nMHHPA
là 1/1; 1,05/1; 1,1/1 khối lượng NMI là 2% (mDĐN-E +
mMHHPA); khối lượng glyxerol là 1,5% (mDĐN-E +
mMHHPA). Quá trình đóng rắn được thực hiện ở nhiệt
độ 160°C. Nhiệt độ tỏa ra do phản ứng đóng rắn đo
trong lòng khối mẫu được trình bày trên hình 2.
Từ hình 2 nhận thấy, với tỉ lệ mol epoxy của dầu
đậu nành epoxy hóa và MHHPA tương đương (1/1)
thì sau 9 phút nhiệt thực hiện đóng rắn nhiệt độ cực
đại đạt 181,3oC, tăng 21,3oC so với nhiệt độ thực hiện
đóng rắn. Tăng tỉ lệ nepoxy/nMHHPA tới 1,05/1, thời gian
nhiệt độ đạt cực đại 186,7oC giảm xuống còn 7 phút
nhưng chênh lệch so với nhiệt độ thực hiện đóng rắn
tăng tới 26,7oC chứng tỏ tỉ lệ nepoxy/nMHHPA là 1,05/1
cho khả năng đóng rắn cao hơn tỉ lệ 1/1.
Tiếp tục tăng tỉ lệ nepoxy/nMHHPA tới 1,1/1, thời
gian nhiệt độ đạt cực đại 185,3oC lại tăng tới 9 phút
trong khi chênh lệch nhiệt độ so với nhiệt độ thực
hiện đóng rắn lại giảm còn 25,3oC. Điều này cho thấy
tỉ lệ nepoxy/nMHHPA là 1,1/1 cho khả năng đóng rắn kém
hơn so với tỉ lệ 1,05/1 vì vậy tỉ lệ nepoxy/nMHHPA
=1,05/1 được chọn để thực hiện các nghiên cứu tiếp
theo.
Hình 2. Ảnh hưởng của hàm lượng MHHPA
c. Ảnh hưởng của hàm lượng NMI
Tiến hành đóng rắn dầu đậu nành epoxy hóa sử
dụng hệ đóng rắn MHHPA, NMI, glyxerol theo tỷ lệ:
nepoxy/nMHHPA là 1,05/1 khối lượng NMI là 1,5; 2; 2,5;
3; 3,5% (mDĐN-E + mMHHPA); khối lượng glyxerol là
1,5% (mDĐN-E + mMHHPA). Quá trình đóng rắn được
thực hiện ở nhiệt độ 160°C.
Hình 3. Ảnh hưởng của hàm lượng NMI
Từ hình 3 nhận thấy, với hàm lượng xúc tác thấp
(1,5%), sau 9 phút thực hiện đóng rắn nhiệt độ đạt
cực đại 184,1oC tăng 24,1oC so với nhiệt độ thực hiện
đóng rắn. Tăng hàm lượng xúc tác NMI tới 2%, thời
gian đóng rắn để đạt nhiệt độ cực đại 186,7oC rút
xuống còn 7 phút và chêch lệch nhiệt độ khi đó là
26,7oC, cao hơn 2,6oC so với trường hợp 1,5% NMI.
Điều này cho thấy 2% xúc tác NMI cho khả năng
đóng rắn cao hơn. Tiếp tục tăng hàm lượng xúc tác
tới 2,5%, cũng sau 7 phút thực hiện đóng rắn, nhiệt
độ đạt cực đại 187,5oC, cao không nhiều so với khi
thực hiện với 2% NMI chứng tỏ 2% và 2,5% NMI
cho khả năng xúc tác như nhau cho quá trình đóng
rắn dầu đậu nành epoxy hóa. Chọn hàm lượng xúc tác
2% NMI cho nghiên cứu tiếp theo.
d. Ảnh hưởng của hàm lượng glyxerin
156,6
171,3
186,7
189,5
0
50
100
150
200
0 5 10 15 20 25
N
h
iệ
t
đ
ộ
,
o
C
Thời gian, phút
140oC 150oC
160oC 170oC
186,7
185,3 181,3
0
50
100
150
200
0 5 10 15 20 25
N
h
iệ
t
đ
ộ
,
o
C
Thời gian, phút
1,0/1
1,05/1
1,1/1
184,1186,7
187,5
0
50
100
150
200
0 5 10 15 20 25
N
h
iệ
t
đ
ộ
,
o
C
Thời gian, phút
1,5% 2% 2,5%
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 095-099
98
Tiến hành đóng rắn ở 160°C dầu đậu nành
epoxy hóa sử dụng hệ đóng rắn MHHPA, NMI,
glyxerol theo tỷ lệ: nepoxy/nMHHPA là 1,05/1, khối lượng
NMI là 2% (mDĐN-E + mMHHPA); khối lượng glyxerol
là 1; 1,5; 2% (mDĐN-E + mMHHPA).
Hình 4. Ảnh hưởng của hàm lượng glyxerin
Hình 4 cho thấy, với mọi hàm lượng glyxerin
thời gian thực hiện đóng rắn đạt nhiệt độ cực đại đều
vào khoảng 7 phút nhưng với hàm lượng glyxerin 1%
nhiệt độ cực đại đạt 179oC, thấp hơn so với khi đóng
rắn với hàm lượng glyxerin 1,5% (186,7oC) và 2%
(186,3oC). Với hàm lượng glyxerin 1,5% và 2% cho
cả thời gian thực hiện đóng rắn đạt nhiệt độ cực đại
và cả nhiệt độ cực đại rất gần nhau nên chọn hàm
lượng glyxerin 1,5% cho quá trình đóng rắn dầu đậu
nành epoxy hóa.
Kết quả nghiên cứu mục b, c, d. cho phép rút ra
tỉ lệ thành phần nguyên liệu tối ưu cho quá trình đóng
rắn dầu đậu nành epoxy hóa:
- nepoxy/nMHHPA: 1,05/1
- NMI: 2% (mDĐN-E + mMHHPA)
- Glyxerin: 1,5% (mDĐN-E + mMHHPA)
3.2.2. Nghiên cứu mức độ đóng rắn
Mức độ đóng rắn của dầu đậu nành epoxy hóa
với chất đóng rắn MHHPA, xúc tác NMI với sự có
mặt của glyxerin theo thời gian được nghiên cứu bằng
phương pháp phân tích nhiệt vi sai quét.
Mức độ đóng rắn được tính theo công thức:
α =
∆HT − ∆HR
∆HT
× 100%
Trong đó: ΔHT là tổng entanpy của phản ứng với mẫu chưa
đóng rắn, ΔHR là nhiệt còn lại của phản ứng với mẫu đã
đóng rắn một phần trong một thời gian nhất định.
Phối trộn dầu đậu nành epoxy hóa, MHHPA,
NMI và glyxerin theo tỉ lệ tối ưu ở mục 3.2.1. (gọi tắt
là hệ nhựa nền) và tiến hành phân tích DSC trên máy
NETZSCH STA 409 PC của Đức từ nhiệt độ phòng
tới 300oC với tốc độ tăng nhiệt 10oC/phút. Kết quả
phân tích trình bày trên hình 5.
Kết quả về tỏa nhiệt cực đại ở mục 3.2.1.a. đã
cho thấy khi thực hiện đóng rắn tại nhiệt độ 160oC
hay 170oC thì nhiệt độ cực đại đều đạt được sau 7
phút thực hiện đóng rắn. Nhưng khi xét về mức độ
chênh lệch nhiệt độ cực đại so với nhiệt độ thực hiện
đóng rắn thì 160oC cho khả năng đóng rắn cao hơn.
Tuy nhiên, để xác định chính xác hơn nữa nhiệt độ
đóng rắn thích hợp cho dầu đậu nành epoxy hóa bằng
MHHPA và xúc tác NMI với sự có mặt của glyxerin
phải dựa vào kết quả phân tích DSC.
Hình 5. Giản đồ phân tích DSC
Hình 6. Mức độ đóng rắn
Hình 5 cho thấy, trên giản đồ phân tích DSC
xuất hiện đỉnh pic tại nhiệt độ 165oC chứng tỏ phản
ứng đóng rắn dầu đậu nành epoxy hóa bởi MHHPA
và xúc tác NMI với sự có mặt của glyxerin diễn ra
mãnh liệt nhất tại nhiệt độ 165oC.
Tiến hành đóng rắn một phần hệ nhựa nền tại
165oC trong thời gian 5, 10, 20, 40, 60 và 90 phút.
Mẫu sau khi đã đóng rắn một phần được đem phân
tích DSC và xác định nhiệt còn lại của phản ứng đóng
rắn ∆HRi. Kết hợp các giá trị ∆HRi với tổng entanpy
của phản ứng đóng rắn ∆HT để tính toán mức độ đóng
rắn. Kết quả tính toán trình bày trên hình 6.
Từ hình 6 nhận thấy, sau 40 phút thực hiện đóng
rắn hệ nhựa nền đã khâu mạch tạo mạng không gian
được 89%, tăng thời gian đóng rắn, mức độ tạo mạng
165
-0,7
-0,5
-0,3
-0,1
0,1
0 100 200 300 400
D
S
C
/(
μ
V
/m
g
)
Temperature/oC
67,57
89,21 91,46 92,47
0
25
50
75
100
0 20 40 60 80 100
M
ứ
c
đ
ộ
đ
ó
n
g
r
ắ
n
,
%
Thời gian, giờ
0
50
100
150
200
0 5 10 15 20 25
N
h
iệ
t
đ
ộ
,
o
C
Thời gian, phút
1,0% 1,5% 2,0%
179
186,7 186,3
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 124 (2018) 095-099
99
không gian tiếp tục tăng nhẹ tới 91% sau 60 phút và
92% sau 90 phút.
3.3. Nghiên cứu đá nhân tạo
Tiến hành chế tạo đá nhân tạo tại công ty cổ
phần đá ốp lát cao cấp Vicostone ở Việt Nam với
thành phần nhựa nền theo tỉ lệ tối ưu ở mục 3.2.1. tại
nhiệt độ 165oC trong thời gian 40 phút. Ngoài ra còn
sử dụng thành phần cốt (hạt thạch anh) và một số phụ
gia khác của công ty Vicostone với tỉ lệ thành phần
theo đơn phối liệu sản xuất của công ty. Đá nhân tạo
nhận được được đem chuẩn bị mẫu để xác định các
tính chất đặc trưng của đá. Kết quả phân tích trình
bày trên bảng 2.
Bảng 2. Các tính chất đặc trưng của đá nhân tạo
Chỉ tiêu
Đá nhân tạo
A B C D
Độ hấp thụ nước,
%
< 0,06 < 0,027
≤ 0,04
(W4)
0,025
Độ bền va đập, J ≥ 4 ≥ 5 - 5,74
Độ bền uốn, MPa > 40 ≥ 57
≥ 40
(F4)
48,5
Độ mài mòn sâu,
mm3
< 175 < 175
≤ 205
(A4)
147
Độ cứng bề mặt,
Mohs
- ≥ 6 - 7
A: Đá nhân tạo nhựa nền PEKN - Essastone Cộng Hoà Séc
B: Đá nhân tạo nhựa nền PEKN - Vicostone Việt Nam
C: Tiêu chuẩn vật liệu ốp lát Châu Âu EN15285:2008
D: Đá nhân tạo nhựa nền dầu đậu nành epoxy hóa
Từ bảng 2 nhận thấy, ngoại trừ độ bền uốn, các
tính chất đặc trưng khác của đá nhân tạo sử dụng
nhựa nền dầu đậu nành epoxy hóa tự tổng hợp đều
đạt và vượt so với yêu cầu đối với đá nhân tạo nhựa
nền polyeste không no (PEKN) của công ty
Vicostone Việt Nam. Nhưng tất cả các tính chất đặc
trưng đều vượt so với yêu cầu đối với đá nhân tạo
nhựa nền PEKN của công ty Essastone Cộng Hòa
Séc. Đặc biệt, cả độ hấp thụ nước, độ bền uốn và độ
bền mài mòn sâu của đá nhân tạo nhựa nền dầu đậu
nành epoxy hóa tự tổng hợp không những đáp ứng
mà còn vượt xa so với yêu cầu về độ hấp thụ nước
loại W4, độ bền uốn loại F4 và độ mài mòn sâu loại
A4 – đây là các cấp độ yêu cầu ngặt ngèo nhất đối với
vật liệu đá nhân tạo theo tiêu chuẩn vật liệu ốp lát
Châu Âu EN - 15285:2008.
4. Kết luận
Đã tìm được tỉ lệ thành phần (nepoxy/nMHHPA:
1,05/1; NMI: 2%(mDĐN-E + mMHHPA); glyxerin: 1,5%
(mDĐN-E + mMHHPA) và điều kiện tối ưu (165oC, 40
phút) cho đóng rắn dầu đậu nành epoxy hóa.
Đá nhân tạo được chế tạo từ dầu đậu nành epoxy
hóa có các tính chất đặc trưng đáp ứng được yêu cầu
đối với vật liệu đá nhân tạo theo tiêu chuẩn vật liệu
ốp lát Châu Âu EN - 15285:2008. Vậy nên kết quả
công trình nghiên cứu góp phần mở ra hướng thay thế
nhựa polyeste không no độc hại có nguồn gốc từ dầu
mỏ bằng dầu đậu nành epoxy hóa có nguồn gốc tái
tạo trong sản xuất đá nhân tạo thân thiện môi trường.
Lời cảm ơn: Công trình được hỗ trợ bởi PTN Trọng
điểm Polyme & Compozit, Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội, đề tài T2016-ĐT-04-PTNTĐ, Trung tâm nghiên cứu
và phát triển (R&D center) của công ty cổ phần Vicostone,
sinh viên Phan Ngọc Quý và Nguyễn Thị Hiên.
Tài liệu tham khảo
1. J. D. Earls, J. E. White, L. C. López, Z. Lysenko, M.
L. Dettloff and M. J. Null, Analysing the Temperature
Effect on the Competitiveness of the Amine Addition
versus the Amidation Reaction in the Epoxidized
Oil/Amine System by MCR-ALS of FTIR Data,
Polymer, 48 (2007), 712-719
2. X. Fernàndez- Francos, X. Ramis and À. Serra,
Journal of Polymer Science Part A: Polymer
Chemistry, 52 (2014), 61-75
3. N. Supanchaiyamat, P. S. Shuttleworth, A. J. Hunt, J.
H. Clark and A.S. Matharu, Thermosetting Resin
based on Epoxidized Linseed Oil and Bio-derived
Crosslinker Green Chemistry, 14, (2012), 1759-1765
4. S. G. Tan and W. S. Chow, eXPRESS Polymer
Letters, Thermal Properties, Curing Characteristics
and Water Absorption of Soybean Oil- based
Thermoset 5(6) (2011), 480-492
5. Arunjunai Raj Mahendran, Günter Wuzella, Andreas
Kandelbauer, Nicolai Aust, Thermal Cure Kinetics of
Epoxidized Linseed Oil with Anhydrite Hardener,
Journal of Thermal Analysis and Calorimetry, 107
(2012) 989-998
6. Xiao Pan, Partha Sengupta, and Dean C. Webster,
High Biobased Sucrose Esters of Fatty Acids,
Biomacromolecules, 12 (2011), 2416-2428
7. Nguyễn Thị Thủy, Vũ Minh Đức, Nguyễn Thanh
Liêm, Nghiên cứu nhiệt động học của phản ứng epoxy
hóa dầu đậu nành sử dụng hệ xúc tác muối wonfram,
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: KHTN&CN, 32(1)
(2016), 86-93
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 017_16_142_7087_2095469.pdf