Hiệu quả có lợi của nước dừa đã được quan sát rõ ràng trên các thông số sinh trưởng
của cây như số chồi tạo thành, chiều dài chồi và số lượng lá ( bảng 3, 4 và 5) cũng như số rễ
và chiều dài rễ (bảng 5). Các chỉ số này đều được cải thiện hơn so với khi chỉ bổ sung BA,
NAA hay IBA một cách riêng rẻ. Tác dụng cải thiện khả năng tạo chồi của nước dừa trong
nuôi cấy in vitro đã được chứng minh khi kết hợp với BAP ở Olea europaea L. (Peixe và
nnk., 2007) và Dianthus caryophyllus L. (Khatun và nnk., 2018); hay khi kết hợp với BAP
và GA3 ở Corylus avellana L. (Prando và nnk., 2014). Nước dừa có chứa các chất có lợi cho
sự sinh trưởng phát triển của cây như các amino acid, các loại vitamin, đường và các chất
kích thích sinh trưởng nhóm cytokinin tự nhiên chẳng hạn như zeatin và N'-diphenyl urea
(Laurain và nnk., 1993; George, 2008), cũng như các chất khoáng vô cơ như photpho,
magiê, kali và natri (Raghavan, 1977). Điều này có nghĩa là việc bổ sung nước dừa vào môi
trường nuôi cấy có thể có lợi cho sự tăng trưởng và hình thành mô, không chỉ do nước dừa
là nguồn khoáng chất và chất dinh dưỡng hữu cơ mà còn là nguồn cung cấp các chất điều
hòa sinh trưởng tự nhiên cần thiết trong quá trình nuôi cấy mô của Sung Magic S.
Tuy nhiên, nghiên cứu nồng độ bổ sung nước dừa của chúng tôi còn cho thấy khi ở
nồng độ 15% và 20%, các mẫu cấy có số chồi, chiều cao và số lá giảm dần. Điều này cho
thấy, ở các nồng độ này, nước dừa làm giảm khả năng tạo chồi và sự tăng trưởng của chồi
Sung Magic. Sự hạn chế trên cũng xảy ra tương tự trên đối tượng Dianthus caryophyllus L,
khi kết hợp 1mg/l BAP với nước dừa ở nồng độ tương đương (Khatun và nnk., 2018).
Sau 8 tuần ở giai đoạn trồng và chăm sóc trong vườn ươm, trên giá thể khảo sát là
hỗn hợp đất cát: xơ dừa: phân chuồng hoai (1,5:1,5:1), cây con in vitro cho tỷ lệ sống là
100%. Cây con thích nghi và tăng trưởng nhanh chóng mà không có bất cứ triệu chứng về
bệnh virus hay bất thường về hình thái. Trong khi đó, chỉ có khoảng hơn 90% cây con Ficus
carica L. còn sống và phát triển sau 4 tuần trồng và chăm sóc trên giá thể đất thịt (Yakushiji
và nnk., 2003) hay trên giá thể than mùn (Bayoudh và nkk., 2015). Hỗn hợp giá thể mà
chúng tôi khảo sát cho thấy sự hiệu quả đối với cây con Sung Magic ở giai đoạn này.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu quy trình nhân giống vô tính in vitro cây sung magic (ficus carica L) tại trường Đại học Phú Yên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 24 (2020), 1-10 1
NGHIÊN CỨU QUY TRÌNH NHÂN GIỐNG VÔ TÍNH IN VITRO
CÂY SUNG MAGIC (Ficus carica L.) TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN
Nguyễn Thị Phi Loan, Nguyễn Khánh Hy*, Dương Thị Oanh
Trường Đại học Phú Yên
Ngày nhận bài: 27/04/2020; ngày nhận đăng: 08/06/2020
Tóm tắt
Trong nghiên cứu này, chúng tôi xây dựng một quy trình hiệu quả cho nhân giống in
vitro cây Sung Magic (Ficus carica L.) cũng như khả năng sinh trưởng và phát triển của cây ở
giai đoạn vườn ươm. Sự nhân chồi từ đỉnh chồi và đoạn thân mang chồi nách in vitro trên môi
trường ½ MS cơ bản có bổ sung 1,5 mg/L BA kết hợp với 10% nước dừa là thích hợp nhất. Môi
trường ½ MS cơ bản có bổ sung 1 mg/l IBA kết hợp với 10% nước dừa tỏ ra hiệu quả trong quá
trình tạo rễ. Cây con phát triển khỏe mạnh sau 2 tháng trong vườn ươm khi được trồng và chăm
sóc trên giá thể đất cát, xơ dừa và phân chuồng hoai phối trộn với tỉ lệ 1,5:1,5:1 (v:v:v), ở chế
độ tưới nước 2 lần/ngày.
Từ khóa: Ficus carica L., giai đoạn vườn ươm, nhân giống in vitro, tái sinh chồi.
1. Đặt vấn đề
Sung Magic có tên khoa học là Ficus carica Linn. thuộc họ Moraceae. Sung (Ficus
carica L.) là cây bản địa Tây Nam Á và đã được nhân giống trồng quy mô trên khắp khu
vực Địa Trung Hải (Phạm S, 2016). Đây là loài cây rụng lá có kích thước nhỏ hoặc vừa
phải, cao từ 15-30 feet; lá hình trứng rộng hoặc gần như là hình thoi, phân thùy sâu từ 3-5
thùy, bề mặt lá thô ráp; quả mọc ở nách lá, có nhiều kích thước và màu sắc khác nhau
(Vikas & Vijay, 2011). Quả của chúng có hương vị thơm ngon với giá trị thương mại cao.
Quả được tiêu thụ ở dạng khô và tươi. Quả Sung rất giàu chất xơ, kali, canxi và sắt cao hơn
nhiều so với chuối, nho, dâu tây, táo và cam. Ngoài ra, toàn bộ cây Sung bao gồm cả quả,
lá, rễ, mủ và cành lá còn có giá trị dược lý khi được dùng để điều trị các bệnh liên quan đến
thị lực, tiêu hóa và chứa các đặc tính chống oxy hóa, chống giun sán, chống nấm và chống
ung thư (Wan và nnk., 2018).
Cây có thể chịu ngưỡng nhiệt độ từ -100C đến 400C, từ sương giá đến khí hậu nóng
nhiệt đới (Phạm S, 2016). Cây có thể trồng trên nhiều loại đất: cát nhẹ, mùn giàu, đất sét
nặng hoặc đá vôi (Vikas & Vijay, 2011). Đất cát vừa khô vừa chứa lượng vôi phù hợp là
môi trường ưa thích của cây. Cây có thể thích ứng với môi trường có độ mặn vừa phải, đây
là đặc điểm rất tốt cho việc tận dụng nguồn đất cát ven biển làm đất trồng cây (Phạm S,
2016). Sản xuất Sung đã được thương mại hóa tại các quốc gia ven biển biển Địa Trung Hải
hoặc ở các quốc gia có khí hậu tương tự như California, Úc hoặc Nam Mỹ (Vikas & Vijay,
2011). Các quốc gia sản xuất Sung lớn nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Iran, Hy Lạp và Algeria
(Pasqual & Ferreira, 2007).
Cây Sung được coi là loài cây hội nhập quốc tế với thị trường tiêu thụ khá lớn
nhưng chưa được nhiều quốc gia tại khu vực Đông Nam Á và Châu Á trồng ở quy mô sản
*
Email: nguyenkhanh237@gmail.com
2 Journal of Science – Phu Yen University, No.24 (2020), 1-10
xuất lớn. Cây Sung là loại cây trồng dễ canh tác, ít bị sâu bệnh, phù hợp cho sản xuất theo
tiêu chuẩn có chứng nhận với quy mô lớn chính vì vậy được nông dân và doanh nghiệp ưu
tiên lựa chọn. Cây trồng này phù hợp với du lịch canh nông, thúc đẩy du lịch phát triển khai
thác các vùng đất bỏ hoang ở ven biển, tạo cảnh quan du lịch nhân tạo hấp dẫn. Ficus
carica L. mang nhiều đặc điểm ưu việt mà các cây ăn quả khác hiếm có, cho nên Tiến sĩ
Phạm S đã du nhập và nhân giống chúng tại Việt Nam, lấy tên Sung Magic (Phạm S, 2016).
Phú Yên hiện có điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu ven biển nhiệt đới phù hợp với
việc canh tác cây Sung Magic. Việc đầu tư các nguồn lực vào nghiên cứu, thử nghiệm,
trồng và sản xuất các loại giống cây trồng mới là sản phẩm công nghệ cao đang được chính
quyền địa phương chú trọng, quan tâm, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.
Công nghệ nhân giống vô tính in vitro hiện nay có thể tạo hệ số nhân giống từ cây
mẹ là rất lớn, từ vài ngàn đến một triệu cây con. Để chủ động nguồn cây giống có chất
lượng cao, sạch bệnh phục vụ cho phát triển sản xuất, phục vụ nhu cầu nội tiêu cũng như
xuất khẩu thì nhiệm vụ nhân giống Sung bằng phương pháp nuôi cấy mô là hướng đi đúng
đắn. Với định hướng trên, chúng tôi đã nghiên cứu một quy trình nhân giống vô tính in
vitro hiệu quả cây Sung Magic tại Trường Đại học Phú Yên nhằm làm cơ sở cho việc
nhân giống quy mô lớn loài cây này ở địa phương.
2. Đối tượng và phương pháp
2.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là cây Sung Magic S (Ficus carica L.) in vitro từ
Tiến sĩ Phạm S chuyển giao cho Ban quản lý Khu Công Nghệ Cao tỉnh Phú Yên.
Mẫu vật sử dụng trong nghiên cứu là chồi đỉnh và đoạn thân mang chồi nách từ cây in
vitro 2 tháng tuổi khỏe mạnh.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Môi trường và điều kiện nuôi cấy
Môi trường dùng để nuôi cấy là môi trường MS cơ bản (Murashige & Skoog, 1962)
có bổ sung các chất điều hòa sinh trưởng khác nhau tùy theo mục đích của từng thí nghiệm.
Nguồn carbon là saccharose. Môi trường được làm đặc bằng agar. pH của môi trường được
điều chỉnh đến 5,7. Môi trường nuôi cấy được khử trùng ở 1210C (~ 1 atm) trong 20 phút.
Mẫu thí nghiệm được cấy trong các bình thủy tinh chứa môi trường và được đặt
trong phòng nuôi cấy có nhiệt độ 23 ± 20C, cường độ ánh sáng khoảng 2000 lux, thời gian
chiếu sáng 16 giờ/ngày.
2.2.2. Nghiên cứu khả năng nhân chồi từ đỉnh chồi và đoạn thân mang chồi nách in vitro
Đỉnh chồi và đoạn thân mang chồi nách khoảng 1 cm tách từ các cây in vitro được
cấy lên môi trường ½ MS cơ bản chứa 30 g/l saccharose, 8 g/l agar và bổ sung BA (0,25 - 2
mg/l) riêng rẻ hoặc kết hợp với nước dừa với nồng độ 5-20% ở các tổ hợp và nồng độ khác
nhau để thăm dò khả năng nhân chồi. Số chồi tái sinh, chiều cao và số lá của chồi được ghi
nhận sau 60 ngày nuôi cấy.
2.2.3. Nghiên cứu khả năng tạo rễ của chồi in vitro
Các chồi in vitro khoảng 1,5 cm được tách ra và cấy lên môi trường ½ MS cơ bản
chứa 2% saccharose, 0,8% agar và bổ sung 1mg/l NAA và 1mg/l IBA riêng rẻ hoặc kết hợp
với 10% nước dừa để thăm dò khả năng tạo rễ của chồi in vitro. Khả năng tạo rễ được đánh
giá sau 60 ngày nuôi cấy thông qua các chỉ tiêu số rễ, chiều dài rễ và chiều cao chồi.
Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 24 (2020), 1-10 3
2.2.4. Chuyển cây con in vitro ra trồng ngoài vườn ươm
Các cây con in vitro 2 tháng tuổi đã phát triển lá và rễ đầy đủ, có chiều cao khoảng 3
cm, gồm 4-5 rễ và 5-7 lá được lấy ra khỏi bình nuôi. Các cây con được rửa sạch agar bám
quanh rễ, đặt lên rổ chứa có lót giấy báo để cho ráo nước. Sau đó cây con được trồng vào
chậu (12 x 13,5 cm) có chứa giá thể gồm hỗn hợp đất cát, mụn dừa, phân chuồng hoai theo
tỷ lệ 1,5:1,5:1 (v:v:v).
Các cây con sau khi trồng vào chậu, được tưới đẫm nước và đặt ở nơi tránh ánh nắng
trực tiếp trong vườn ươm. Vườn ươm được thiết kế thoáng mát, được phủ trần với lưới đen.
Độ che nắng của lưới là 70%. Tiến hành tưới phun sương đều đặn 2 lần/ngày. Theo dõi và
đánh giá khả năng sinh trưởng của cây con sau khi trồng 2, 4, 8 tuần. Số lượng cây con
khảo sát là 30 cây cho 1 lần nhắc lại.
2.2.5. Xử lý thống kê
Các thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên. Mỗi thí nghiệm được lặp lại 3 lần.
Kết quả thí nghiệm được tính trung bình và phân tích ANOVA với Duncan’s test (p < 0,05)
bằng phần mềm SPSS 20.0 (IBM).
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Khả năng nhân chồi từ đỉnh chồi và đoạn thân mang chồi nách in vitro
3.1.1. Ảnh hưởng của BA lên khả năng tạo chồi in vitro từ đỉnh chồi và đoạn thân mang
chồi nách của cây in vitro
Các chồi in vitro có kích thước khoảng 1 cm được cấy trên môi trường ½ MS cơ bản
chứa 30 g/l saccharose, 8 g/l agar và bổ sung BA ở nồng độ khác nhau từ 0,25 đến 2 mg/l để
thăm dò khả năng tạo chồi của đỉnh chồi và đoạn thân mang chồi nách. Kết quả thí nghiệm
sau 60 ngày nuôi cấy được trình bày ở bảng 1 và bảng 2.
Bảng 1. Ảnh hưởng của BA lên khả năng tạo chồi in vitro từ đỉnh chồi in vitro
sau 60 ngày nuôi cấy
Công
thức
Nồng độ BA
(mg/l)
Tỷ lệ mẫu tạo
chồi (%)
Số chồi
TB/mẫu
Chiều cao TB
chồi (cm)
Số lá TB
chồi
B0 0 100 1,00
e
2,26
a
4,37
a
B1 0,25 100 1,89
d
1,31
b
4,00
b
B2 0,5 100 2,48
c
1.29
b
3,93
b
B3 1 100 3,33
b
0,81
c
3,69
c
B4 1,5 100 3,74
a
0,63
d
3,38
d
B5 2 100 3,22
b
0,47
e
3,23
d
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trên cùng một cột chỉ ra sự sai khác có mức ý nghĩa
thống kê của trung bình mẫu với p < 0,05 (Duncan’s test).
Với đối tượng là đỉnh chồi in vitro, sau 60 ngày nuôi cấy, trên các môi trường có bổ
sung 0 - 2 mg/l BA, tỷ lệ tạo chồi đều đạt 100%. Trong đó, môi trường ½ MS cơ bản có bổ
sung 1,5 mg/l BA là môi trường tốt nhất để tạo chồi in vitro từ đỉnh chồi của cây sung
Magic in vitro. Chồi mới phát triển tốt với số chồi trung bình là 3,74 chồi, chiều cao trung
bình của chồi là 0,63 cm và số lá trung bình là 3,38 lá.
Thí nghiệm còn cho thấy số chồi tạo thành tăng khi nồng độ BA bổ sung vào môi
trường tăng từ 0 đến 1,5 mg/l, nhưng lại giảm khi nồng độ BA bổ sung tăng lên 2 mg/l
4 Journal of Science – Phu Yen University, No.24 (2020), 1-10
(Hình 1a). Chiều cao chồi và số lá của chồi tạo thành cũng giảm dần theo chiều tăng của
nồng độ BA bổ sung vào môi trường.
Tuy nhiên, khi bổ sung ở nồng độ cao là 2 mg/l BA, số chồi tạo thành giảm và mẫu
cấy còn xuất hiện nhiều callus màu vàng nhạt ở bề mặt vết cắt tiếp xúc với môi trường.
Bảng 2. Ảnh hưởng của BA lên khả năng tạo chồi in vitro từ đoạn thân mang chồi nách in
vitro sau 60 ngày nuôi cấy
Công
thức
Nồng độ
BA (mg/l)
Tỷ lệ mẫu
tạo chồi (%)
Số chồi
TB/mẫu
Chiều cao TB
chồi (cm)
Số lá TB
chồi
B0 0 100 2,00e 1,94a 4,19a
B1 0,25 100 2,89d 1,26b 3,94b
B2 0,5 100 3,22cd 1,14c 3,82bc
B3 1 100 3,78b 0,75d 3,66c
B4 1,5 100 4,33a 0,48e 3,25d
B5 2 100 3,52bc 0,45e 3,18d
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trên cùng một cột chỉ ra sự sai khác có mức ý nghĩa
thống kê của trung bình mẫu với p < 0,05 (Duncan’s test).
Với đối tượng là đoạn thân mang chồi nách in vitro, kết quả cho thấy ảnh hưởng của
môi trường ½ MS cơ bản có bổ sung 1,5 mg/l BA là tốt nhất lên sự tạo chồi in vitro sau 60
ngày nuôi cấy. Ở môi trường này, chồi mới phát triển tốt với số chồi trung bình là 4,33 chồi,
chiều cao trung bình là 0,48 cm và số lá trung bình là 3,25 lá (Hình 1b).
Ở nồng độ bổ sung 2 mg/l BA vào môi trường nuôi cấy cơ bản, bên cạnh giảm khả
năng tạo chồi mà còn xuất hiện callus ở bề mặt vết cắt mẫu cấy tiếp xúc với môi trường
nhiều hơn ở các môi trường còn lại.
B0 B1 B2 B3 B4 B5
B0 B1 B2 B3 B4 B5
Hình 1. Ảnh hưởng của môi trường cơ bản bổ sung BA (0-2mg/l) lên sự tạo chồi của chồi
sung Magic: (a) đỉnh chồi in vitro và (b) đoạn thân mang chồi nách in vitro.
3.1.2. Ảnh hưởng của nước dừa kết hợp với BA lên khả năng tạo chồi từ đỉnh chồi và đoạn
thân mang chồi nách in vitro
Để đánh giá ảnh hưởng của nước dừa kết hợp với BA lên khả năng tạo chồi của chồi
(a)
(b)
Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 24 (2020), 1-10 5
in vitro, các mẫu cấy có kích thước khoảng 1 cm được cấy lên môi trường ½ MS cơ bản
chứa 30 g/l saccharose, 8 g/l agar, bổ sung 1,5 mg/l BA kết hợp với nước dừa ở các nồng độ
từ 5-20%. Bên cạnh đó, môi trường ½ MS cơ bản chứa 30 g/l saccharose, 8 g/l agar có bổ
sung 1 mg/l BA kết hợp với 10% nước dừa theo kết quả nghiên cứu của tiến sĩ Phạm S
(Phạm S, 2016) cũng được chúng tôi tiến hành khảo sát nhằm so sánh hiệu quả của các tổ
hợp các chất điều hòa sinh trưởng trên cùng đối tượng là Sung Magic. Kết quả thí nghiệm
thu được sau 60 ngày nuôi cấy được trình bày ở bảng 3 và bảng 4.
Bảng 3. Ảnh hưởng của nước dừa kết hợp với BA lên khả năng tạo chồi từ đỉnh chồi
in vitro sau 60 ngày nuôi cấy
Công
thức
Nồng độ
nước dừa
(%)
Nồng độ
BA (mg/l)
Tỷ lệ mẫu
tạo chồi
(%)
Số chồi
TB/mẫu
Chiều cao
TB chồi
(cm)
Số lá TB
chồi
BN0 0 0 100 1,00
d
2,16
a
4,26
a
BN1 10 1 100 3,52
c
0,93
b
3,78
b
BN2 5 1,5 100 3,81
bc
0,81
bc
3,58
c
BN3 10 1,5 100 4,41
a
0,85
bc
3,66
bc
BN4 15 1,5 100 3,93
b
0,75
c
3,52
c
BN5 20 1,5 100 3,78
bc
0,73
c
3,48
c
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trên cùng một cột chỉ ra sự sai khác có mức ý nghĩa
thống kê của trung bình mẫu với p < 0,05 (Duncan’s test).
Bảng 4. Ảnh hưởng của nước dừa kết hợp với BA lên khả năng tạo chồi từ đoạn thân mang
chồi nách in vitro sau 60 ngày nuôi cấy
Công
thức
Nồng độ
nước dừa
(%)
Nồng độ
BA
(mg/l)
Tỷ lệ mẫu
tạo chồi
(%)
Số chồi
TB/mẫu
Chiều cao
TB chồi
(cm)
Số lá TB
chồi
BN0 0 0 100 2,00
e
1,91
a
4,13
a
BN1 10 1 100 4,26
cd
0,82
b
3,71
b
BN2 5 1,5 100 4,70
b
0,67
c
3,52
c
BN3 10 1,5 100 5,19
a
0,75
bc
3,62
bc
BN4 15 1,5 100 4,59
bc
0,53
d
3,36
d
BN5 20 1,5 100 4,04
d
0,51
d
3,34
d
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trên cùng một cột chỉ ra sự sai khác có mức ý nghĩa
thống kê của trung bình mẫu với p < 0,05 (Duncan’s test).
Tỷ lệ tạo chồi trên tất cả các công thức khảo sát đều đạt 100%. Chồi phát triển tốt và
tạo thêm chồi mới.
Các mẫu cấy trên môi trường cơ bản bổ sung 10% nước dừa kết hợp 1,5 mg/l BA cho
số chồi tốt nhất trong các công thức khảo sát, đạt 4,41 chồi/ đỉnh chồi in vitro và 5,19 chồi/
đoạn thân mang chồi nách in vitro. Số chồi tạo thành từ đoạn thân mang chồi nách in vitro
cao hơn từ đỉnh chồi in vitro. Số chồi tạo thành trên môi trường này cũng cao hơn môi
trường bổ sung 10% nước dừa kết hợp 1mg/l BA (Hình 2).
Khi nồng độ nước dừa bổ sung vào môi trường tăng lên 15% và 20%, quá trình tạo
chồi bị hạn chế, số chồi trên mỗi mẫu cấy giảm dần theo độ tăng nồng độ nước dừa.
6 Journal of Science – Phu Yen University, No.24 (2020), 1-10
BN0 BN1 BN3
BN0 BN1 BN3
Hình 2. Khả năng tạo chồi của (a) đỉnh chồi in vitro và (b) đoạn thân mang chồi nách in
vitro sung Magic trên môi trường cơ bản bổ sung nước dừa kết hợp với BA
3.2. Khả năng tạo rễ của chồi in vitro
Các chồi in vitro khoảng 1,5 cm được cấy lên môi trường ½ MS cơ bản có 2%
saccharose, 0,8% agar và bổ sung 1 mg/l NAA hoặc1 mg/l IBA riêng rẻ và kết hợp với 10%
nước dừa để khảo sát ảnh hưởng của các chất này lên khả năng tạo rễ của chồi in vitro. Kết
quả nghiên cứu sau 60 ngày nuôi cấy được trình bày ở bảng 5.
Bảng 5. Ảnh hưởng của NAA, IBA và nước dừa lên khả năng tạo rễ của chồi in vitro
sau 60 ngày nuôi cấy
Công
thức
Nồng độ
nước dừa
(%)
Nồng độ
NAA
(mg/l)
Nồng độ
IBA
(mg/l)
Tỷ lệ mẫu
tạo rễ
(%)
Số rễ
TB/chồi
Chiều
dài TB rễ
(cm)
Chiều cao
TB chồi
(cm)
R0 0 0 0 100 1,63
e
1,29
e
2,43
c
R1 0 1 0 100 2,44
d
2,54
d
2,27
d
R2 0 0 1 100 3,07
c
2,87
c
2,60
b
R3 10 1 0 100 3,85
b
3,60
b
2,49
bc
R4 10 0 1 100 4,56
a
5,13
a
3,35
a
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trên cùng một cột chỉ ra sự sai khác có mức ý nghĩa
thống kê của trung bình mẫu với p < 0,05 (Duncan’s test).
Sau 60 ngày nuôi cấy, tỷ lệ tạo rễ của mẫu cấy đạt 100%. Trên môi trường cơ bản có
bổ sung riêng rẻ 1 mg/l NAA hoặc 1 mg/l IBA (Hình 3a), số rễ tạo thành của mẫu cấy đạt từ
2-5 rễ. Số rễ trung bình của mẫu cấy trên môi trường có bổ sung 1 mg/l IBA, đạt 3,07 rễ,
cao hơn trên môi trường có bổ sung 1 mg/l NAA, đạt 2,44 rễ.
Khi bổ sung kết hợp thêm 10% nước dừa vào môi trường cơ bản có chứa 1 mg/l NAA
hoặc 1 mg/l IBA, số rễ tạo thành tăng lên so với khi không bổ sung nước dừa lần lượt đạt
3,85 rễ/chồi và 4,56 rễ/chồi. Chiều dài của rễ và chiều cao của chồi cũng được cải thiện
(Hình 3b). Trong các môi trường khảo sát, môi trường cơ bản bổ sung 10% nước dừa kết
hợp với 1 mg/l IBA ảnh hưởng tốt nhất đến sự phát triển chồi và khả năng tạo rễ của chồi in
vitro. Rễ dài, mập mạp, ban đầu có màu trắng, mảnh, sau chuyển màu vàng nâu, mập mạp,
(a)
(b)
Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 24 (2020), 1-10 7
có nhiều rễ phụ với chiều dài trung bình của rễ là 5,13 cm. Chồi phát triển tốt, lá xanh và to,
với chiều cao trung bình của chồi là 3,35 cm.
Ở các môi trường có bổ sung NAA, mẫu cấy xuất hiện nhiều callus màu vàng nhạt
sau đó hóa nâu ở bề mặt vết cắt của mẫu hoặc bề mặt lá tiếp xúc với môi trường nuôi cấy.
Sự tạo rễ chậm hơn (rễ nhỏ, mảnh, ngắn và ít rễ phụ hơn) và sự phát triển chồi kém hơn ( lá
nhỏ, bị xoăn, chồi thấp hơn) so với môi trường có bổ sung bổ sung IBA.
R0 R1 R2
R0 R3 R4
Hình 3. Khả năng tạo rễ của chồi in vitro Sung Magic S trên môi trường cơ bản bổ
sung: (a) NAA hoặc IBA riêng rẻ ở nồng độ 1 mg/l và (b) NAA hoặc IBA ở nồng độ 1
mg/l kết hợp với 10% nước dừa.
3.3. Chuyển cây con in vitro ra trồng ngoài vườn ươm
Cây Sung Magic con in vitro 2 tháng tuổi được chuyển ra ngoài vườn ươm trên giá
thể đất cát: xơ dừa: phân chuồng hoai theo tỉ lệ 1,5:1,5:1 (v:v:v) có tỷ lệ sống 100% sau
2,4,8 tuần trồng và chăm sóc (Hình 4). Các chỉ tiêu sinh trưởng của cây con được trình bày
ở bảng 6.
Bảng 6. Khả năng sinh trưởng của cây con in vitro khi chuyển ra trồng ngoài vườn ươm
Thời gian Tỷ lệ sống (%) Chiều cao TB của cây (cm) Số lá TB/cây
1 ngày 100% 3,04
d
5,89
c
2 tuần 100% 5,04c 6,15c
4 tuần 100% 10,97b 7,22b
8 tuần 100% 17,74a 8,74a
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trên cùng một cột chỉ ra sự sai khác có mức ý nghĩa
thống kê của trung bình mẫu với p < 0,05 (Duncan’s test).
Sau 2 tuần trồng và chăm sóc, cây con chưa có sự tăng trưởng nhiều về chiều cao và
số lá. Cây bắt đầu ra lá mới. Chiều cao trung bình đạt 5,04 cm và số lá trung bình đạt 6,15 lá.
Sau 4 tuần trồng và chăm sóc, cây con tăng trưởng mạnh. Lá mới tiếp tục hình thành
từ 1 đến 2 lá, xanh tốt. Chiều cao trung bình của cây lúc này đạt 10,97 cm với số lá trung
bình đạt 7,22 lá.
Sau 8 tuần trồng và chăm sóc, cây phát triển xanh tốt. Lá mới hình thành nhiều hơn
(a)
(b)
8 Journal of Science – Phu Yen University, No.24 (2020), 1-10
và bắt đầu phân thùy rõ ràng và gia tăng về kích thước. Cây đạt chiều cao trung bình là
17,74 cm, số lá trung bình là 8,74 lá.
(a)
(b)
(c)
Hình 4. Cây con phát triển trên giá thể đất cát : xơ dừa : phân chuồng hoai theo tỉ lệ
1,5:1,5:1 (v:v:v) sau khi trồng: (a) 2 tuần, (b) 4 tuần, (c) 8 tuần.
4. Thảo luận
Trên cả hai loại vật liệu nghiên cứu, kết quả thí nghiệm đều cho thấy môi trường ½
MS cơ bản có bổ sung 1,5 mg/l BA là môi trường tốt nhất để tạo chồi in vitro Sung Magic.
BA tỏ ra là cytokinin hiệu quả đối với nhân giống in vitro Ficus carica L. khi nó cũng ảnh
hưởng tích cực đến sự tạo chồi của Sung trên dòng Roxo de Valinhos (Fráguas và nnk.,
2004) hay trên 3 dòng khác là Aboudi, White Adcy và Sultani (Mustafa & Taha, 2012).
Ở nồng độ bổ sung 2 mg/l BA vào môi trường nuôi cấy cơ bản, mẫu cấy xuất hiện
callus ở bề mặt vết cắt tiếp xúc với môi trường nhiều hơn ở các môi trường còn lại. Sự bổ
sung BA ở nồng độ cao cũng dẫn đến sự hình thành callus và hạn chế tạo chồi đối với mẫu
cấy Ficus carica L. dòng Roxo de Valinhos (Fráguas và nnk., 2004).
Sự tạo chồi từ đoạn thân mang chồi nách in vitro tốt hơn từ đỉnh chồi in vitro với số
chồi, chiều cao và số lá cao hơn (bảng 1, 2, 3 và 4). Vật liệu nuôi cấy khác nhau cho hiệu
quả tạo chồi cũng khác nhau. Điều này cũng xảy ra đối với đỉnh chồi và chồi nách trên đối
tượng Dianthus caryophyllus L (Khatun và nnk., 2018).
Trong các môi trường tạo rễ cho chồi in vitro, IBA được bổ sung vào môi trường tỏ ra
hiệu quả hơn NAA với số rễ và chiều dài rễ cao hơn (bảng 5). Trên môi trường ½ MS cơ
bản có bổ sung 1 mg/l IBA, Ficus carica L. cũng tạo rễ hiệu quả với tỷ lệ 83,34% (Bayoudh
và nkk., 2015) hay cao hơn là 90% với số rễ trung bình là 5 rễ, chiều dài rễ trung bình là 1,5
cm, sau khi nuôi cấy 30 ngày (Yakushiji và nnk., 2003).
Hiệu quả có lợi của nước dừa đã được quan sát rõ ràng trên các thông số sinh trưởng
của cây như số chồi tạo thành, chiều dài chồi và số lượng lá ( bảng 3, 4 và 5) cũng như số rễ
và chiều dài rễ (bảng 5). Các chỉ số này đều được cải thiện hơn so với khi chỉ bổ sung BA,
NAA hay IBA một cách riêng rẻ. Tác dụng cải thiện khả năng tạo chồi của nước dừa trong
nuôi cấy in vitro đã được chứng minh khi kết hợp với BAP ở Olea europaea L. (Peixe và
nnk., 2007) và Dianthus caryophyllus L. (Khatun và nnk., 2018); hay khi kết hợp với BAP
và GA3 ở Corylus avellana L. (Prando và nnk., 2014). Nước dừa có chứa các chất có lợi cho
sự sinh trưởng phát triển của cây như các amino acid, các loại vitamin, đường và các chất
kích thích sinh trưởng nhóm cytokinin tự nhiên chẳng hạn như zeatin và N'-diphenyl urea
Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 24 (2020), 1-10 9
(Laurain và nnk., 1993; George, 2008), cũng như các chất khoáng vô cơ như photpho,
magiê, kali và natri (Raghavan, 1977). Điều này có nghĩa là việc bổ sung nước dừa vào môi
trường nuôi cấy có thể có lợi cho sự tăng trưởng và hình thành mô, không chỉ do nước dừa
là nguồn khoáng chất và chất dinh dưỡng hữu cơ mà còn là nguồn cung cấp các chất điều
hòa sinh trưởng tự nhiên cần thiết trong quá trình nuôi cấy mô của Sung Magic S.
Tuy nhiên, nghiên cứu nồng độ bổ sung nước dừa của chúng tôi còn cho thấy khi ở
nồng độ 15% và 20%, các mẫu cấy có số chồi, chiều cao và số lá giảm dần. Điều này cho
thấy, ở các nồng độ này, nước dừa làm giảm khả năng tạo chồi và sự tăng trưởng của chồi
Sung Magic. Sự hạn chế trên cũng xảy ra tương tự trên đối tượng Dianthus caryophyllus L,
khi kết hợp 1mg/l BAP với nước dừa ở nồng độ tương đương (Khatun và nnk., 2018).
Sau 8 tuần ở giai đoạn trồng và chăm sóc trong vườn ươm, trên giá thể khảo sát là
hỗn hợp đất cát: xơ dừa: phân chuồng hoai (1,5:1,5:1), cây con in vitro cho tỷ lệ sống là
100%. Cây con thích nghi và tăng trưởng nhanh chóng mà không có bất cứ triệu chứng về
bệnh virus hay bất thường về hình thái. Trong khi đó, chỉ có khoảng hơn 90% cây con Ficus
carica L. còn sống và phát triển sau 4 tuần trồng và chăm sóc trên giá thể đất thịt (Yakushiji
và nnk., 2003) hay trên giá thể than mùn (Bayoudh và nkk., 2015). Hỗn hợp giá thể mà
chúng tôi khảo sát cho thấy sự hiệu quả đối với cây con Sung Magic ở giai đoạn này.
5. Kết luận
Nghiên cứu đưa ra một quy trình nhân giống vô tính in vitro hiệu quả cho cây Sung
Magic (Ficus carica L.). Từ đỉnh chồi và đoạn thân mang chồi nách in vitro, môi trường ½
MS cơ bản có 3% saccharose, 0,8% agar và bổ sung 1,5 mg/l BA kết hợp với 10% nước dừa
thích hợp cho sự nhân chồi sau 60 ngày nuôi cấy. Môi trường ½ MS cơ bản có 2%
saccharose, 0,8% agar và bổ sung 1 mg/l IBA kết hợp với 10% nước dừa là môi trường
thích hợp cho sự ra rễ in vitro tạo cây con hoàn chỉnh sau 60 ngày nuôi cấy. Cây con phát
triển tốt và khỏe mạnh khi được trồng và chăm sóc trong điều kiện vườn ươm, trên giá thể
gồm đất cát: xơ dừa: phân chuồng hoai (1,5:1,5:1) với chế độ tưới nước 2 lần/ngày. Nghiên
cứu đã góp phần tạo ra nguồn giống khỏe mạnh, dồi dào giúp phát triển loại cây trồng có
giá trị dinh dưỡng và thương mại này tại địa phương và khu vực
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Fráguas, C.B., Pasqual, M., Dutra, L.F., Cazetta, J.O. (2004). Micropropagation of fig
(Ficus carica L.) ‘Roxo de Valinhos’ plants. In Vitro Cellular & Developmental
Biology – Plant, 40, 471-474. DOI: 10.1079/IVP2004562.
George, E.F. (2008). Plant propagation by tissue culture. 3.ed. Great Britain: Exegetics, p.479.
Khatun, M. , Roy, P.K., Razzak, M. A. (2018). Additive effect of coconut water with various
hormoneson in vitro regeneration of carnation (Dianthus caryophyllus L.). The Journal
Animal Plant Science, 28(2).
Laurain D., Chenieux J., Tremouillaux Guiller C. J. (1993). Direct embryogenesis from
female haploid protoplasts of Ginkgo balboa L., a medicinal woody species. Plant
Cell Rep., 12, 656-660.
Murashige, T., Skoog, F.(1962). A Revised Medium for Rapid Growth and Bio Assays with
Tobacco Tissue Cultures. Physiologia Plantarum, 15(3), 473-497.
Pasqual, M. & Ferreira, E.A. (2007). Micropropagation of Fig Tree (Ficus carica L.).
10 Journal of Science – Phu Yen University, No.24 (2020), 1-10
Protocols for Micropropagation of Woody Trees and Fruits, 409-416.
Peixe, A., Raposo, A, Lourenço, R., Cardoso, H., Macedo, E. (2007). Coconut water and
BAP successfully replaced zeatin in olive (Olea europaea L.) micropropagation.
Scientia Horticulturae, 113(1), 1-7. Doi: 10.1016/j.scienta.2007.01.011.
Phạm S (2016), Tài liệu giới thiệu Sung Magic, quy trình nhân giống in vitro và kỹ thuật canh
tác. Ban quản lý Khu Công Nghệ Cao tỉnh Phú Yên.
Prando, M.A.S., Chiavazza, P., Faggio, A., Contessa, C. (2014). Effect of coconut water
and growth regulator supplements on in vitro propagation of Corylus avellana L.
Scientia Horticulturae, 171 (26), 91-94. DOI: 10.1016/j.scienta.2014.03.052.
Raghavan, V. (1977). Diets and culture media for plant embryos. In: Rechcigl, M.J.(ed.),
CRC handbook series in nutrition and food. Taylor Francis Publisher, London, 361- 413.
Vikas, V.P. & Vijay, R.P. (2011). Ficus carica Linn.-An Overview. Research Journal of
Medicinal Plants, 5, 246-253. DOI: 10.3923/rjmp.2011.246.253.
Wan, T.L., Fui, C.L.,Wei, Y.L., Subramaniam, S., Bee L.C. (2018). Shoot Induction from
Axillary Shoot Tip Explants of Fig (Ficus carica) cv. Japanese BTM 6. Tropical life
sciences research, 29(2), 165–174. DOI: 10.21315/tlsr2018.29.2.11.
Yakushiji, H., Mase, N., Sato, Y. (2003). Adventitious bud formation and plantlet
regeneration from leaves of fig (Ficus carica L.). Journal of Horticultural Science
and Biotechnology, 78(6), 874-878. DOI: 10.1080/14620316.2003.11511712.
Bayoudh, C., Labidi, R., Majdoub, A., Mars, M. (2015). In vitro Propagation of Caprifig
and Female Fig Varieties (Ficus carica L.) from Shoot-tips. Journal of Agricultural
Science and Technology, 17, 1597-1608.
Mustafa, N.S., Taha, R.A. (2012). Influence of Plant Growth Regulators and Subculturing
on In Vitro Multiplication of Some Fig (Ficus Carica) Cultivars. Journal of Applied
Sciences Research, 8(8), 4038-4044.
In vitro propagation of Magic fig (Ficus carica L.) at Phu Yen University
Nguyen Thi Phi Loan, Nguyen Khanh Hy*, Duong Thi Oanh
Phu Yen University
*Email: nguyenkhanh237@gmail.com
Received: April 27, 2020; Accepted: June 08, 2020
Abstract
This experiment is designed to determine the most suitable conditions and media for in
vitro propagation Magic S fig (Ficus carica L.) and growth of in vitro plants in acclimatization.
For shoot regeneration from in vitro shoot tip and axillary node, the half-strength Murashige
and Skoog (MS) medium containing 1,5 mg/l and 10% coconut water were the best, whereas,
the half-strength MS medium complemented with 1mg/l IBA and 10% coconut water were better
in respect to rooting. Rooted plantlets were acclimatized successfully after two months
transferred to green-house and grown in a 1,5:1,5:1 (v:v:v) sandy soil, coir andcattle munure
mixture with watering 2 times per day.
Keywords: Ficus carica L., acclimatization, in vitro propagation, shoot regeneration
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_quy_trinh_nhan_giong_vo_tinh_in_vitro_cay_sung_ma.pdf