Gạo mầm có cấu trúc tốt hơn so với gạo lứt. Quá
trình nảy mầm làm cơm trở nên mềm hơn, để nguội
vẫn không cứng. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của Banchuen và cộng tác viên (2010), nhóm
tác giả cho rằng quá trình nảy mầm kích hoạt các
enzyme thủy phân tinh bột, các polysaccharide,
protein thành oligosaccharide và các acid amin, sản
phẩm có cấu trúc mềm và tăng mùi vị. Thitima và
Sirichai (2012) cũng cho rằng cơm gạo mầm có cấu
trúc mềm hơn so với cơm gạo lứt do trong quá trình
nảy mầm một loạt chuyển hóa xảy ra, màng tế bào
bị phá hủy bởi xylanase, acid phytic được tìm thấy
trong vỏ cám bị thủy phân bởi enzyme phytase.
Cơm gạo mầm ngọt hơn cơm gạo lứt. Quá trình
nảy mầm kích hoạt các enzyme hoạt động, chủ yếu
là enzyme amylase thủy phân tinh bột thành đường
đơn. Lee và cộng tác viên (2007) đã công bố sau quá
trình nảy mầm tổng hàm lượng đường tự do của gạo
lứt tăng từ 4 đến 9 lần do hoạt động của enzyme thủy
phân tinh bột thành maltose, glucose và dextrin. Từ
các kết quả đánh giá cảm quan về màu sắc, mùi, vị,
cấu trúc nhận thấy gạo mầm làm từ gạo cẩm đã cải
thiện được có cấu trúc và mùi vị tốt hơn so với mẫu
gạo lứt (Hình 3).
Hàm lượng GABA trong gạo mầm cũng được
phân tích đạt 197,3 mg/kg - tăng 7,3 lần so với
nguyên liệu gạo lứt. Kết quả này cũng khá phù hợp
với kết quả nghiên cứu của Watchararparpaiboon và
cộng tác viên (2010). Nhóm tác giả đã ủ gạo mầm
ở 35oC đã cho gạo mầm có hàm lượng GABA cao
nhất - tăng 4 - 5 lần so với hàm lượng GABA trong
gạo trắng KDML 105 (16,48 mg/100 g), Chainat 1
(14,50 mg/100 g). Tương tự, Sirisoontaralak và cộng
tác viên (2014) cũng xác định thông số ủ tối ưu là
35oC sẽ cho hàm lượng GABA đạt giá trị cao nhất là
17 mg/100 g. Như vậy, gạo mầm có hàm lượng các
chất dinh dưỡng và cảm quan cao hơn gạo lứt.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu quy trình sản xuất gạo cẩm nảy mầm với hàm lượng anthocyanin cao và chất lượng tốt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
NGHIÊN CỨU QUY TRÌNH SẢN XUẤT GẠO CẨM NẢY MẦM
VỚI HÀM LƯỢNG ANTHOCYANIN CAO VÀ CHẤT LƯỢNG TỐT
Lê Thị Kim Loan1, Nguyễn Minh Thủy2
TÓM TẮT
Anthocyanin là sắc tố hòa tan trong nước, thuộc nhóm flavonoid và có mặt trong hầu hết các loại thực vật ở tỷ lệ
khác nhau. Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở khảo sát ảnh hưởng của việc bổ sung cám gạo cẩm với tỷ lệ thay đổi
(0 đến 9%), pH ngâm (2 - 6), thời gian ngâm (2 đến 5 giờ), thời gian (12 - 24 giờ) ủ và nhiệt độ ủ (30 - 37,5oC) đến
hàm lượng anthocyanin. Kết quả cho thấy tổn thất hàm lượng anthocyanin khoảng 60% trong quá trình nảy mầm của
mẫu đối chứng. Tuy nhiên, gạo cẩm được ngâm trong 3 giờ với việc bổ sung 5% cám gạo, điều chỉnh pH môi trường
khoảng 3, sau đó tiếp tục ủ ở 35oC trong 16 giờ, đã tạo ra sản phẩm gạo mầm có hàm lượng anthocyanin cao nhất. Sản
phẩm gạo mầm được đánh giá về chất lượng cho thấy hàm lượng polyphenol, GABA, protein cao, cấu trúc mềm, vị
ngọt hơn gạo lứt. Đặc biệt, gạo nảy mầm được làm từ gạo cẩm vẫn duy trì được màu sắc đặc trưng của anthocyanin.
Từ khóa: Lúa cẩm, gạo nảy mầm, cám gạo, anthocyanin
1 Khoa Nông nghiệp và Công nghệ thực phẩm, Trường Đại học Tiền Giang
2 Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lúa (Oryza sativa L.) là một trong những thực
phẩm quan trọng nhất của con người, đặc biệt là ở
các nước Đông Nam Á. Gạo lứt giàu chất xơ, sắt,
can-xi, vitamin (B1, B2, E, C và D) và chất khoáng
(Patil and Khan, 2011). Chính vì thế, cơm gạo lứt
đang được quan tâm trong các bữa ăn của nhiều
gia đình hiện nay. Tuy nhiên, một số hạn chế khi sử
dụng cơm gạo lứt là thời gian nấu dài, cấu trúc cứng
và vị không hấp dẫn như cơm gạo trắng. Wu và cộng
tác viên (2013) đã chứng minh gạo mầm sẽ cải hiện
cấu trúc và chất lượng của gạo lứt, có cấu trúc mềm
hơn và giúp gạo dễ nấu chín và tiêu hóa. Cơm gạo
mầm ngọt và thời gian nấu ngắn (Sirisoontaralak
et al., 2015). Ngoài ra, các chất dinh dưỡng trong
gạo mầm tăng lên đáng kể bao gồm GABA, acid
phenolic, tocotrienols, acid ferulic, γ-oryzanol, kali,
magiê, kẽm và chất xơ hòa tan (Sangsila et al., 2018).
Gạo cẩm Cai Lậy là loại gạo có hàm lượng các chất
dinh dưỡng cao hơn so với các loại gạo trắng khác. So
với gạo trắng, gạo cẩm chứa nhiều loại chất khoáng
như sắt, kẽm, phosphor, vitamin B1 và chất xơ hòa
tan. Đặc biệt trong lớp vỏ lụa của gạo cẩm có hàm
lượng anthocyanin cao (Lê Hữu Hải và ctv., 2010).
Gạo màu có hàm lượng anthocyanin và hoạt tính
chống oxy hóa cao. Anthocyanin trong gạo bao gồm
cyanidin 3-O-glucoside, peonidin 3-O-glucoside,
malvidin 3-O-glucoside, pelargonidin 3-O-glucoside
và delphinidin 3-O-glucoside, trong đó cyanidin-3-
O-glucoside chiếm 95% (Noorlaila et al., 2018). Hàm
lượng anthocyanin trong các giống giảm dần theo
thứ tự từ gạo màu đen (còn được gọi là màu tím),
màu nâu và đỏ (Pengkumsri et al., 2015). Hàm lượng
anthocyanin trong nguyên liệu ban đầu và sau khi
ngâm trong nước 3 giờ của giống gạo đen ở Malaysia
tương ứng là 2,00 mg/100 g và 1,45 mg/100 g. Như
vậy, sau 3 giờ ngâm hàm lượng anthocyanin giảm
27,5% (Noorlaila et al., 2018). Chung và cộng tác
viên (2016) xác định rằng hàm lượng anthocyanin
tăng trong quá trình nảy mầm. Nguyên nhân là do
thành tế bào bị phá vỡ, phenol được giải phóng tự do
dẫn đến tăng hàm lượng polyphenol.
Anthocyanin thuộc nhóm flavonoid, là sắc tố tan
trong nước có màu đỏ, tím hoặc xanh (Sivamaruthi
et al., 2018). Anthocyanin được chiết xuất từ thực
vật có nhiều lợi ích sức khỏe cho con người, bao gồm
chống viêm, chống ung thư, chống oxy hóa, ngăn
ngừa bệnh tiểu đường, phòng ngừa bệnh tim mạch
và thoái hóa thần kinh (Nile et al., 2015). Ngoài ra,
anthocyanin được biết như là chất màu tự nhiên, có
giá trị sinh học rất cao. Do đó, mục tiêu của nghiên
cứu này nhằm duy trì hàm lượng anthocyanin cao
nhất trong gạo mầm thông qua đánh giá các yếu tố
ảnh hưởng đến quá trình ngâm và nảy mầm.Sản
phẩm gạo mầm từ giống lúa cẩm Cai Lậy sở hữu
hàm lượng cao các hợp chất có hoạt tính sinh học
quý như polyphenol, GABA.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Lúa cẩm được thu hoạch tại huyện Cai Lậy, tỉnh
Tiền Giang. Sau đó, được phơi khô (độ ẩm <14%),
tách vỏ trấu, đóng gói chân không và bảo quản ở
nhiệt độ 4oC. Mỗi mẫu gạo thí nghiệm là 200 g,
ngâm với thể tích dịch ngâm là 400 ml (theo tỷ lệ
1 : 2) với thời gian từ 2 đến 5 giờ, vớt gạo ra đem ủ.
Trong quá trình ủ cứ 4 giờ gạo được tưới nước một
lần. Khi ủ đủ thời gian theo bố trí thí nghiệm lấy gạo
ra và sấy ở nhiệt độ 50oC đến độ ẩm ≤ 13%. Cho gạo
vào bao bì bảo quản để ổn định 1 ngày, tiến hành lấy
mẫu phân tích các chỉ tiêu cần theo dõi.
45
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Xác định độ ẩm bằng phương pháp sấy đến khối
lượng không đổi.
- Hàm lượng anthocyanin được phân tích bằng
phương pháp pH vi sai (Giusti and Wrolstad, 2001).
- Polyphenol tổng được xác định bằng phương
pháp Folin - Ciocalteau (Pengkumsri et al., 2015).
- GABA được phân tích bằng thiết bị sắc ký lỏng
hiệu năng cao HPLC (HPLC - High Performance
Liquid Chromatography) (TCVN 8764:2012).
- Hàm lượng protein được xác định bằng phương
pháp Kjeldahl.
- Sản phẩm được đánh giá cảm quan theo
thang điểm mô tả định lượng QDA (Quantitative
Descriptive Analysis). Thành lập hội đồng đánh giá
cảm quan gồm 7 thành viên, có am hiểu chuyên môn
về đánh giá chất lượng thực phẩm. Thuộc tính của
cơm được miêu tả bao gồm: màu sắc, cấu trúc, mùi,
vị. Mỗi thuộc tính được xây dựng theo thang điểm
từ 1 đến 5 (giá trị cảm quan từ kém đến tốt).
- Phân tích thống kê theo chương trình
Statgraphics XVI. Sự khác nhau giữa các trung bình
nghiệm thức được so sánh thông qua LSD (Least
Significant Difference) ở mức ý nghĩa ≤ 5%.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 4/2018 đến
tháng 3/2019 tại phòng thí nghiệm Bộ môn Công
nghệ thực phẩm, Trường Đại học Tiền Giang và Đại
học Cần Thơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của tỷ lệ cám gạo cẩm bổ sung vào
quá trình ngâm để duy trì hàm lượng anthocyanin
Anthocyanin là sắc tố hòa tan trong nước.
Do đó, trong công đoạn ngâm và ủ gạo lứt (có sử
dụng hệ thống tưới phun) sẽ làm giảm hàm lượng
anthocyanin. Cám gạo cẩm là phụ phẩm của quá
trình xay xát gạo trắng, có hàm lượng anthocyanin
cao (Lê Hữu Hải và ctv., 2010). Khi được ngâm trong
nước ở 35oC với các tỷ lệ khác nhau sẽ được sử dụng
làm dung dịch ngâm gạo lứt để hạn chế quá trình
giảm hàm lượng anthocyanin trong gạo mầm. Kết
quả phân tích cho thấy hàm lượng anthocyanin
giảm dần sau quá trình ngâm, ủ và sấy (Bảng 1).
Sau khi ngâm hàm lượng anthocyanin giảm mạnh
là do gạo ngâm trong nước 5 giờ liên tục nên hàm
lượng anthocyanin hòa tan trong nước nhiều. Sau
quá trình ủ hàm lượng anthocyanin tiếp tục giảm
nhẹ vì trong quá trình ủ cách 4 giờ thiết bị sẽ phun
nước tự động trong 5 phút để tránh gạo bị khô và
chua nên anthocyanin sẽ tiếp tục được hòa tan một
phần vào trong nước hoặc bị phân hủy dưới tác dụng
của oxy. Dưới tác dụng của nhiệt độ trong quá trình
sấy (50oC) hàm lượng anthocyanin tiếp tục giảm so
với nguyên liệu ban đầu. Đối với mẫu A1, khi ngâm
trong nước cất hàm lượng anthocyanin sau khi ngâm
giảm rất nhiều. Trong nguyên liệu gạo ban đầu hàm
lượng anthocyanin đạt 64,86 mg/100 g. Hàm lượng
anthocyanin giảm sau khi ngâm, ủ, sấy lần lượt là
34,74 mg/100 g, tiếp tục giảm 1,53 mg/100 g và
4,04 mg/100 g. Như vậy, tổng lượng anthocyanin
giảm đi sau quá trình ngâm, ủ, sấy là 60% so với
nguyên liệu ban đầu. Mẫu A2, A3, A4 và A5 sử dụng tỷ
lệ cám gạo cẩm bổ sung là 3%, 5%, 7% và 9% cho thấy
hàm lượng anthocyanin đều tăng sau khi ngâm, ủ,
sấy so với mẫu ngâm trong nước. Trong đó, bổ sung
cám gạo ở tỷ lệ 5% (A3) thì hàm lượng anthocyanin
còn lại sau quá trình sấy là 35,39 mg/100 g tăng
35,7%, ở 7% (A4) là 35,49 mg/100 g tăng 36,1% và
9% (A5) là 35,89 mg/100 g tăng 37,6% so với mẫu đối
chứng. Kết quả này cho thấy khi tăng tỷ lệ cám gạo
lên 7 và 9% thì hàm lượng anthocyanin vẫn tăng sau
khi ngâm, ủ, sấy so với mẫu ngâm ở tỷ lệ 5% nhưng
sự gia tăng này không có sự khác biệt ý nghĩa thống
kê. Như vậy, việc bổ sung cám gạo cẩm ở các tỷ lệ
khảo sát cho thấy đã cải thiện một phần hàm lượng
anthocyanin mất đi trong sản xuất gạo mầm. Nguyên
nhân khi cám gạo cẩm bổ sung vào trong quá trình
ngâm thì hàm lượng anthocyanin trong cám gạo sẽ
hòa tan vào trong nước. Khi gạo được đưa vào ngâm
thì sẽ hạn chế được hàm lượng anthocyanin trong
gạo hòa tan vào trong nước. Chọn tỷ lệ cám gạo cẩm
5% trong quá trình ngâm để áp dụng cho các công
đoạn tiếp theo.
Bảng 1. Ảnh hưởng của tỷ lệ cám gạo cẩm bổ sung
vào trong quá trình ngâm đến hàm lượng anthocyanin
Tỷ lệ
cám gạo
cẩm bổ
sung (%)
Hàm lượng
anthocyanin
sau khi ngâm
(mg/100g)
Hàm lượng
anthocyanin
sau khi ủ
(mg/100g)
Hàm lượng
anthocyanin
sau khi sấy
(mg/100g)
A1 30,12c 28,59c 26,08c
A2 38,79b 36,18b 33,52b
A3 40,90a 38,28a 35,39a
A4 41,06a 38,63a 35,49a
A5 41,35a 39,22a 35,89a
F ** ** **
CV (%) 4,81 4,56 4,54
Ghi chú: Các giá trị trên cùng một cột có chữ cái
thường (a, b, c,) khác nhau thì thể hiện sự khác nhau có
ý nghĩa thống kê; (**): thể hiện sự khác biệt ý nghĩa ở mức
1%. A1, A2, A3, A4, A5 là tỷ lệ cám gạo cẩm lần lượt được sử
dụng để ngâm là 0%, 3%, 5%, 7%, 9%.
46
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
3.2 Ảnh hưởng của pH và thời gian ngâm đến hàm
lượng anthocyanin, polyphenol
Hạt nảy mầm tốt nhất khi hạt hút đủ nước đạt
trạng thái bão hòa. Thời gian hút nước để hạt đạt
trạng thái bão hòa của từng giống phụ thuộc vào
cấu trúc, thành phần hóa học, điều kiện nảy mầm
và kiểu gen (Hendawy et al., 2011). Thời gian từ
0 - 2 giờ đầu lượng nước hấp thụ tăng nhanh do sự
chênh lệch độ ẩm bên trong và bên ngoài hạt cao
nên nước được chuyển nhanh vào trong hạt. Sau
2 - 5 giờ, hạt hấp thụ nước chậm dần và đạt trạng
thái cân bằng. Thông thường gạo lứt nảy mầm tốt
cần độ ẩm khoảng 30 - 35%, khi độ ẩm cao 35 - 50%
sẽ thúc đẩy sự phát triển của vi sinh vật gây hư hỏng
(Komatsuzaki et al., 2007).
Hợp chất polyphenol gồm ba thành phần chính
là acid phenolic, flavonoids và tannins. Flavonoid
là nhóm hợp chất polyphenol chính trong thực vật.
Chúng có thể được chia thành các lớp khác nhau.
Trong đó, anthocyanidin là lớp phổ biến nhất.
Thông thường, anthocyanidin liên kết với glycoside
tạo thành anthocyanin (Kong et al., 2003). Nước sau
khi được xử lý cám gạo cẩm ở nồng độ 5% sẽ được
điều chỉnh các giá trị pH và thời gian ngâm. Kết quả
ảnh hưởng của pH và thời gian ngâm đến hàm lượng
anthocyanin, polyphenol được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2. Ảnh hưởng của pH, thời gian ngâm đến hàm lượng anthocyanin, polyphenol trong gạo mầm
Mẫu
Hàm lượng
anthocyanin
(mg/100g)
Hàm lượng
polyphenol
(mgGAE/100g)
Mẫu
Hàm lượng
anthocyanin
(mg/100g)
Hàm lượng
polyphenol
(mgGAE/100g)
B1C1 39,09ef 56,20fgh B3C2 38,94efg 57,96def
B1C2 41,74b 59,80bcd B3C3 40,80cb 59,44cd
B1C3 41,47b 63,50a B3C4 39,35edf 61,35abc
B1C4 40,12cde 63,70a B3C5 37,70h 55,05ghij
B1C5 40,35cd 56,10fgh B3C6 34,84j 52,90ijk
B1C6 39,00ef 55,40fghi B4C1 35,06ij 52,47ij
B2C1 38,54fgh 54,73ghij B4C2 37,80efg 55,66fghi
B2C2 40,82bc 59,08cde B4C3 39,79cde 56,45efg
B2C3 43,44a 61,51abc B4C4 38,53fgh 59,62bcd
B2C4 40,95cb 62,39ab B4C5 36,23i 53,84ghij
B2C5 39,42edf 56,20fgh B4C6 33,36k 50,60k
B2C6 35,02j 53,48hij F (tính) ** **
B3C1 35,67ij 54,51ghij CV (%) 4,9 3,78
Ghi chú: Các giá trị trên cùng của một cột có chữ cái thường (a, b, c,) khác nhau thì thể hiện sự khác nhau có ý
nghĩa thống kê; (**): thể hiện sự khác biệt ý nghĩa ở mức 1%. B1C1, B1C2, B1C3, B1C4, B1C5, B1C6: Gạo được ngâm 2 giờ
với các giá trị pH lần lượt là nước cất, 2, 3, 4, 5, 6; B2C1, B2C2, B2C3, B2C4, B2C5, B2C6: Gạo được ngâm 3 giờ với các giá
trị pH lần lượt là nước cất, 2, 3, 4, 5, 6; B3C1, B3C2, B3C3, B3C4, B3C5, B3C6: Gạo được ngâm 4 giờ với các giá trị pH lần
lượt là nước cất, 2, 3, 4, 5, 6; B4C1, B4C2, B4C3, B4C4, B4C5, B4C6: Gạo được ngâm 5 giờ với các giá trị pH lần lượt là nước
cất, 2, 3, 4, 5, 6. F thể hiện giá trị F tính, Cv (%): Hệ số biến thiên.
Khi thời gian ngâm càng dài thì hàm lượng
anthocyanin giảm càng nhiều và đạt giá trị thấp
nhất sau khi ngâm trong 5 giờ. Trong giai đoạn
đầu, nước cần thời gian ngấm vào trong cấu trúc
hạt sau đó mới phân tán các chất tan vào trong
môi trường nên ngâm gạo lứt trong 2 và 3 giờ
lượng anthocyanin hòa tan trong nước là thấp nhất
và không có sự khác biệt ý nghĩa giữa các mẫu.
Hàm lượng anthocyanin trong gạo mầm ở pH 2
(39,8 mg/100 g), pH 3 (41,9 mg/100 g), pH 4
(39,7 mg/10 0g) đạt cao hơn so với mẫu pH 5
(38,4 mg/100 g), pH 6 (35,6 mg/100 g) và nước cất
(37,1 mg/100 g). Vì hầu hết các sắc tố anthocyanin
có độ ổn định cao trong môi trường acid so với
kiềm. So với các giá trị pH khác thì khi ngâm ở
pH 3 hàm lượng anthocyanin đạt cao nhất vì ít bị
thoái hóa. Kết quả này phù hợp với tổng hợp của
(Khoo và cộng tác viên (2017), pH 2 - 4 ít ảnh hưởng
đến sự phân hủy của anthocyanin.
Kết quả đạt được đã chứng minh quá trình ngâm
ảnh hưởng hàm lượng polyphenol trong gạo. Ở pH
2, 3 và 4 hàm lượng polyphenol cao hơn so với pH
5 và 6 và nước cất. Hàm lượng polyphenol giảm
dần theo thời gian ngâm từ 2 - 5 giờ. Nguyên nhân
47
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
chủ yếu là do các hợp chất phenolic tan trong nước
nên hàm lượng polyphenol giảm dần theo thời gian
ngâm (Khandelwal et al., 2010). Một nguyên nhân
khác là trong quá trình ngâm enzyme oxidase có
thể được kích hoạt (Saxena et al., 2003). Vì pH thích
hợp cho enzyme này hoạt động khoảng 5,5 - 6 dẫn
đến hàm lượng polyphenol bị giảm nhanh. Kết quả
nghiên cứu cho thấy sau quá trình ngâm hàm lượng
polyphenol giảm nên ngâm gạo trong thời gian ngắn
sẽ hạn chế sự thất thoát của polyphenol.
Thời gian ngâm và pH có ảnh hưởng đến hàm
lượng anthocyanin và polyphenol của hạt. Ở pH 3
và thời gian ngâm là 3 giờ sẽ cho gạo mầm có hàm
lượng anthocyanin, polyphenol đạt giá trị tốt nhất.
3.3 Ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian ủ đến
hàm lượng anthocyanin, polyphenol, GABA trong
gạo mầm
Nảy mầm là một quá trình sinh lý phức tạp bị
ảnh hưởng bởi nhiệt độ và lượng nước trong hạt.
Khi độ ẩm đạt trạng thái bão hòa thì nhiệt độ là yếu
tố chủ yếu được kiểm soát trong quá trình nẩy mầm
(Alvarado and Bradford, 2002). Theo Nguyễn Đình
Giao và cộng tác viên (1997), hạt nảy mầm tốt trong
điều kiện 30 - 35oC, trên 40oC do hoạt động của một
số enzyme và vi sinh vật nên không có lợi cho quá
trình nảy mầm. Kết quả tương tác giữa nhiệt độ và
thời gian ủ đến hàm lượng anthocyanin trong gạo
mầm được thể hiện ở hình 1.
Hình 1. Đồ thị biểu diễn tương tác giữa nhân tố nhiệt độ với thời gian ủ
đến hàm lượng anthocyanin trong gạo mầm
A
nt
ho
cy
an
in
(m
g/
10
0g
)
Thời gian ngâm (giờ)
Hàm lượng anthocyanin trong gạo mầm thay đổi
trong khoảng 36,2 - 48,8 mg/100 g. Khi ủ ở nhiệt
độ 30oC, 32,5oC, 35oC trong cùng thời gian thì hàm
lượng anthocyanin thể hiện giá trị tương đương
nhau và khác biệt không có ý nghĩa (42,3 - 42,5
mg/100 g). Tuy nhiên, khi tăng nhiệt độ ủ lên 37,5oC
thì hàm lượng anthocyanin trong gạo mầm giảm
nhanh (39,8 mg/100 g). Trong quá trình chế biến và
bảo quản thực phẩm, anthocyanin dễ dàng bị phá
hủy dưới tác dụng của nhiệt độ cao. Hàm lượng
anthocyanin thay đổi theo thời gian ủ như sau:
12 giờ (42,22 mg/100 g), 16 giờ (43,25 mg/100 g),
20 giờ (41,48 mg/100 g), 24 giờ (40,33 mg/100 g).
Kết quả cho thấy thời gian ủ càng dài thì hàm
lượng anthocyanin giảm càng nhiều. Trong đó, mẫu
ủ ở 16 giờ có hàm lượng anthocyanin cao có thể
do enzyme tổng hợp anthocyanin PAL hình thành
nhiều trong giai đoạn này. Yudiono và cộng tác viên
(2018) đã chứng minh trong quá trình nảy mầm
của hạt Arabidopsis và khoai lang tím làm tăng hàm
lượng anthocyanin nhờ vào sự hiện diện của enzyme
PAL. Tuy nhiên, sự thay đổi hàm lượng anthocyanin
không nhiều trong quá trình ủ. Nguyên nhân là do
trong nghiên cứu này gạo mầm được ủ trong tủ kín
nên hạn chế được quá trình tiếp xúc với oxy cũng
như ánh sáng. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu
của Sutharut và Sudarat (2012), tổng hàm lượng
anthocyanin không thay đổi nhiều khi ủ trong tối.
Như vậy, sử dụng nhiệt độ ủ 35oC sẽ tạo ra gạo mầm
có hàm lượng anthocyanin cao. Nhiệt độ này cũng
khá phù hợp với nhiệt độ chiết xuất anthocyanin
(34,7oC) trong cám gạo đen của Pedro và cộng tác
viên (2016).
- Ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian ủ đến hàm
lượng polyphenol
Dữ liệu thể hiện ở đồ thị hình 2 cho thấy
hàm lượng polyphenol của gạo mầm tăng theo
thời gian và nhiệt độ ủ. Trong đó, hàm lượng
polyphenol trong gạo mầm được ủ ở nhiệt độ 35oC
(65,98 mg GAE/100 g) và 37,5oC (66,24 mg GAE/100 g)
đạt giá trị cao nhất và không khác biệt ý nghĩa. Khi
ủ ở 24 giờ thì hàm lượng polyphenol của gạo là
70,39 mg GAE/100 g tăng so với nguyên liệu ban đầu
là 55,58 mg GAE/100 g. Kết quả trên phù hợp với
một số nghiên cứu khác đã công bố. Tian và cộng
48
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
tác viên (2004) đã báo cáo hàm lượng polyphenol
18,47 mg GAE/100 g trong bột gạo lứt, tuy nhiên
trong sản phẩm bột gạo mầm thì hàm lượng này tăng
lên 24,78 mg GAE/100 g. Hàm lượng polyphenol
tăng sau quá trình nảy mầm do hoạt động của các
chất chống oxy hóa tăng làm tăng các gốc tự do dẫn
đến sự phá vỡ các tế bào giải phóng các hợp chất
phenolic (Kaukovirta-Norja et al., 2004).
Hình 2. Đồ thị biểu diễn tương tác
giữa nhân tố nhiệt độ với thời gian ủ
đến hàm lượng polyphenol trong gạo mầm
Tổng hợp các kết quả thu nhận được cho thấy khi
chọn nhiệt độ ủ 35oC và thời gian ủ 16 giờ sẽ tạo gạo
mầm có hàm lượng anthocyanin và polyphenol cao.
3.4. So sánh chất lượng của cơm gạo mầm với cơm
gạo lứt
Gạo lứt và gạo mầm được nấu với lượng nước,
nhiệt độ và thời gian cố định bằng nhau. Sau đó, tiến
hành đánh giá cảm quan cơm gạo lứt và cơm gạo
mầm theo thang điểm mô tả từ 1 đến 5. Sự thay đổi
màu sắc, mùi, vị và cấu trúc của cơm gạo mầm với
gạo lứt được trình bày ở bảng 3.
Bảng 3. Điểm đánh giá cảm quan về màu sắc, mùi, vị
và cấu trúc của cơm gạo mầm và cơm gạo lứt
Loại
Điểm cảm quan
Màu
sắc Mùi Vị
Cấu
trúc
Cơm gạo lứt 4,56a 4,71a 3,81b 3,59b
Cơm gạo mầm 4,44a 4,74a 4,74a 4,85a
F (tính) ns ns ** **
CV (%) 1,54 1,65 4,97 4,33
Ghi chú: Các giá trị trên cùng của một cột có chữ cái
thường (a, b, c,) khác nhau thì thể hiện sự khác nhau
có ý nghĩa thống kê; (**): thể hiện sự khác biệt ý nghĩa ở
mức 1%; (ns): thể hiện không có sự khác biệt ý nghĩa. F
thể hiện giá trị F tính, CV (%): Hệ số biến thiên.
Kết quả thống kê cho thấy, điểm đánh giá cảm
quan về màu sắc và mùi của cơm gạo mầm và gạo
lứt không có sự khác biệt ý nghĩa. Do hàm lượng
anthocyanin cao nên cơm gạo mầm vẫn có màu sắc
sáng và đẹp như cơm gạo lứt. Đây là điểm đặc trưng
của gạo mầm làm từ gạo cẩm vì sản phẩm gạo mầm
làm từ gạo trắng thường có màu vàng do phải trải
qua quá trình ngâm, ủ, sấy dài nên giảm giá trị cảm
quan về màu sắc.
Mùi của cơm gạo mầm tăng nhẹ có thể do trong
gạo mầm hình thành nhiều amino acid. Kết quả
phân tích hàm lượng protein trong gạo mầm làm
từ gạo cẩm đạt 10,36% tăng 1,15% so với gạo lứt.
Hàm lượng protein tăng có thể là do một số hợp chất
sinh học được tổng hợp cụ thể là các acid amin trong
quá trình nảy mầm (Lee et al., 2007). Wichamanee
và Teerarat (2012) giải thích hàm lượng protein của
gạo mầm Jasmine tăng (7,98% đến 8,34%) là do một
số enzyme tổng hợp chuyển hóa acid amin thành các
hợp chất protein mới.
Gạo mầm có cấu trúc tốt hơn so với gạo lứt. Quá
trình nảy mầm làm cơm trở nên mềm hơn, để nguội
vẫn không cứng. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của Banchuen và cộng tác viên (2010), nhóm
tác giả cho rằng quá trình nảy mầm kích hoạt các
enzyme thủy phân tinh bột, các polysaccharide,
protein thành oligosaccharide và các acid amin, sản
phẩm có cấu trúc mềm và tăng mùi vị. Thitima và
Sirichai (2012) cũng cho rằng cơm gạo mầm có cấu
trúc mềm hơn so với cơm gạo lứt do trong quá trình
nảy mầm một loạt chuyển hóa xảy ra, màng tế bào
bị phá hủy bởi xylanase, acid phytic được tìm thấy
trong vỏ cám bị thủy phân bởi enzyme phytase.
Cơm gạo mầm ngọt hơn cơm gạo lứt. Quá trình
nảy mầm kích hoạt các enzyme hoạt động, chủ yếu
là enzyme amylase thủy phân tinh bột thành đường
đơn. Lee và cộng tác viên (2007) đã công bố sau quá
trình nảy mầm tổng hàm lượng đường tự do của gạo
lứt tăng từ 4 đến 9 lần do hoạt động của enzyme thủy
phân tinh bột thành maltose, glucose và dextrin. Từ
các kết quả đánh giá cảm quan về màu sắc, mùi, vị,
cấu trúc nhận thấy gạo mầm làm từ gạo cẩm đã cải
thiện được có cấu trúc và mùi vị tốt hơn so với mẫu
gạo lứt (Hình 3).
Hình 3. Gạo mầm và cơm gạo mầm
Po
ly
ph
en
ol
(m
gG
A
E/
10
0g
)
Thời gian (giờ)
49
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
Hàm lượng GABA trong gạo mầm cũng được
phân tích đạt 197,3 mg/kg - tăng 7,3 lần so với
nguyên liệu gạo lứt. Kết quả này cũng khá phù hợp
với kết quả nghiên cứu của Watchararparpaiboon và
cộng tác viên (2010). Nhóm tác giả đã ủ gạo mầm
ở 35oC đã cho gạo mầm có hàm lượng GABA cao
nhất - tăng 4 - 5 lần so với hàm lượng GABA trong
gạo trắng KDML 105 (16,48 mg/100 g), Chainat 1
(14,50 mg/100 g). Tương tự, Sirisoontaralak và cộng
tác viên (2014) cũng xác định thông số ủ tối ưu là
35oC sẽ cho hàm lượng GABA đạt giá trị cao nhất là
17 mg/100 g. Như vậy, gạo mầm có hàm lượng các
chất dinh dưỡng và cảm quan cao hơn gạo lứt.
IV. KẾT LUẬN
Việc bổ sung thêm dịch cám gạo cẩm ở tỷ lệ 5%,
kết hợp với ngâm hạt ở pH 3 trong 3 giờ, ủ 35oC
trong 16 giờ sẽ tạo sản phẩm gạo mầm có hàm lượng
anthocyanin cao (43,25 mg/100 g). Đồng thời sản
phẩm còn sở hữu thêm các hợp chất sinh học quý
như polyphenol (65,98 mg GAE/100 g) và GABA
(197,3 mg/kg). Gạo mầm làm từ gạo cẩm có cấu
trúc mềm, vị ngọt, hàm lượng protein cao và duy
trì được màu sắc đặc trưng. Tác dụng của chất màu
anthocyanin đối với sức khỏe con người và các ứng
dụng của chúng chứng minh rằng gạo mầm làm từ
gạo cẩm sẽ là nguồn thực phẩm chức năng, đạt giá
trị cảm quan cao nên được sử dụng phổ biến trong
các bữa ăn của các gia đình Việt trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Đình Giao, Nguyễn Thiện Huyên, Nguyễn
Hữu Tề, Hà Công Vượng, 1997, Giáo trình cây
lương thực (Tập I cây lúa). Nhà xuất bản Nông
Nghiệp. Hà Nội.
Lê Hữu Hải, Huỳnh Thị Huế Trang, Đoàn Thị Ngọc
Thanh, 2010. Chọn lọc làm thuần giống lúa than đặc
sản. Đề tài cấp tỉnh Tiền Giang.
Alvarado V. and Bradford K.J., 2002. A hydrothermal
time model explains the cardinal temperatures for
seed germination. Plant Cell Environ., 25: 1061-1069.
Banchuen J., Ooraikul P.T.B., Phaisan W. and Piyarat S.,
2010. Increasing the bio-active compounds contents
by optimizing the germination conditions of Southern
Thai Brown Rice. Songklanakarin J. Sci. Technol.,
32 (3), 219-230.
Chung S.I., Lo L.M.P. and Kang M.Y., 2016. Effect
of Germination on the Antioxidant Capacity of
Pigmented Rice (Oryza sativa L. cv. Superjami and
Superhongmi). Food Sci. and Tech. Research, 22(3):
387-394.
Guisti, M. M. and Wrolstad, R. E., 2001.
Characterization and measurement of anthocyanins
by UV-Visible spectroscopy. Current Protocols in
Food Analytical Chemistry. New York: John Wiley &
Sons. (Giusti and Wrolstad, 2001).
Hendawy S.E.E, Sone C., Ito O. and Sakagami J.I.
and Alvarado V., 2011. Evaluation of Germination
Ability in Rice Seeds under Anaerobic Conditions
by Cluster Analysis. K.J. Research seed science, 4 (2):
82 - 93.
Kaukovirta-Norja A., Wilhelmsson A., and Poutanen K.,
2004. Germination: a means to improve the
functionality of oat. Agric. Food. Sci., 13: 100 - 112.
Khandelwal S., Shobha A.U. and Ghugre P., 2010.
Polyphenols and tannis inIndian pulses: Effect of
soaking, germination and pressure cooking. Food
Research International, 43: 526 - 530.
Khoo H.E., Azlan A., Tang S.T., and Lim S.M.,
2017. Anthocyanidins and anthocyanins: colored
pigments as food, pharmaceutical ingredients, and
the potential health benefits. Food and Nutrition
Research, 61 (1): 1361 - 779.
Komatsuzaki N., Tsukahara K., Toyoshima H.,
Suzuki T., Shimizu N. and Kimura T., 2007. Effect
of soaking and gaseous treatment on GABA content
in germinated brown rice. Food Engineering, 78:
556 - 560.
Kong, J.; Chia, L.; Goh, N.; Chia, T. and Brouillard, R.,
2003. Analysis and biological activities of anthocyanins.
Phytochemistry. 64: 923-933.
Lee Y.R., Kim J.Y., Woo K.S., Hwang I.G., Kim K.H.,
Kim K.J., Kim J.H. and Jeong H.S., 2007. Changes
in the chemical and functional components of
Korean rough rice before and after germination.
Food Sci. Biotechnol., 16: 1006 - 1010.
Nile S., Hwan Kim D. and Keum Y.S., 2015.
Determination of Anthocyanin Content and
Antioxidant Capacity of Different Grape Varieties.
Ciência e Técnica Vitivinícola, 30 (2): 60 - 68.
Noorlaila, A., Nur Suhadah, N., Noriham, A. and Nor
Hasanah, H., 2018. Total anthocyanin content and
antioxidant activities of pigmented black rice (Oryza
sativa L.) subjected to soaking and boiling. Jurnal
Teknologi, 80 (3): 137-143.
Patil S.B. and Khan M.K., 2011. Germinated brown
rice as a value added rice product: A review. Food
Science and Technology, 48: 661 - 667.
Pedro A.C., Granato D. and Rosso N.D.,
2016. Extraction of anthocyanins and polyphenols
from black rice (Oryza sativa L.) by modeling and
assessing their reversibility and stability. Food
Chemistry, 191: 12 - 20.
50
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
Pengkumsri N., Chaiyasut C., Saenjum C., Sirilun
S., Peerajan S., Suwannalert P., Sirisattha S.,
Sundaram S. B., 2015. Physicochemical and
antioxidative properties of black, brown and red rice
varieties of northern Thailand. Food Sci. and Tech.,
35(2): 331-338.
Sangsila A., Promden W. and Pimda W., 2018.
Antioxidant and antityrosinase activities in germinated
brown rice of indigenous Thai cultivars. International
Agricultural Technology, 14 (7): 1883 - 1892.
Saxena A.K., Chadha M. and Sharma S., 2003. Nutrients
and antinutrients in chickpea (Cicer arietinum L.)
cultivars after soaking and pressure cooking. Food
Science and Technology, 40 (5): 493 - 497.
Sirisoontaralak, P., Nakornpanom, N. N.,
Koakietdumrongkul, K., & Panumaswiwath, C.,
2014. Development of quick cooking germinated
brown rice with convenient preparation and
containing health benefits. Food Science and
Technology, 61(1): 138-144.
Sivamaruthi B.S., Kesika P. and Chaiyasut C., 2018.
Anthocyanins in Thai rice varieties: distribution and
pharmacological significance. International Food
Research Journal, 25 (5): 2024 - 2032.
Sutharut J. and Sudarat J., 2012. Total anthocyanin
content and antioxidant activity of germinated
colored rice. International Food Research Journal, 19
(1): 215 - 221.
Thitima Kaosa-ard and Sirichai Songsermpong, 2012.
Influence of germination time on the GABA content
and physical properties of germinated brown rice.
Asian Food and Agro-Industry. Thailand.
Tian S., Nakamura K. and Kayahara H., 2004. Analysis
of Phenolic Compounds in White Rice, Brown Rice,
and Germinated Brown Rice. Agri. and Food Chem.,
52 (15): 4808 - 4813.
Watchararparpaiboon W., Laohakunjit N. and
Kerdchoechuen O., 2010. An Improved Process
for High Quality and Nutrition of Brown Rice
Production. Food Sci Tech Int., 16 (2): 147 - 162.
Wichamanee Y. and Teerarat I., 2012. Production
of germinated Red Jasmine brown rice and its
physicochemical properties. Inter. Food Research J.,
19 (4): 1649 - 1654.
Wu F., Yang N., Toure A., Jin Z. and Xu X., 2013.
Germinated brown rice and its role in human health.
Crit. Rev. Food Sci. Nutr., 53: 451 - 463.
Yudiono K. and Kurniawati L., 2018. Effect of sprouting
on anthocyanin, antioxidant activity, color intensity
and color attributes in purple sweet potatoes. Food
Research, 2 (2): 171 - 176.
Study on production process of germinated grains of black rice
with high anthocyanin content and good quality
Le Thi Kim Loan, Nguyen Minh Thuy
Abstract
Anthocyanins are colored water-soluble pigments belonging to the flavonoid group and present in most plants at
different contents. The study was carried out on the basis of investigating the effect of supplementation of rice bran
(0 to 9%), pH (2 - 6), soaking time (2 to 5 hours), germination time (12 - 24 hours) and temperature (30 - 37.5oC)
on anthocyanin content. The results showed that the loss of anthocyanin content was about 60% during germination
of control sample. However, black rice hulled grains supplemented with 5% of rice bran were soaked for 3 hours,
adjusting pH to 3, then incubated at 35oC for 16 hours to produce germinated grains with the highest anthocyanin
content. Germinated grain products had high polyphenol, GABA, protein and soft structure, sweet taste higher than
that of brown rice. In particular, germinated grains made from black rice had typical color of anthocyanin.
Keywords: Black rice, germinated grain, rice bran, anthocyanin,
Ngày nhận bài: 2/4/2019
Ngày phản biện: 8/4/2019
Người phản biện: PGS. TS. Nguyễn Hoàng Anh
Ngày duyệt đăng: 15/5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_quy_trinh_san_xuat_gao_cam_nay_mam_voi_ham_luong.pdf