Nghiên cứu đã xác định được nguyên liệu da cá ban đầu
có độ ẩm là 67,09%, hàm lượng chất béo 9%, lượng tro
toàn phần 1,2%, protein tổng số là 22,2%
Trong nghiên cứu này, để sản xuất gelatin bằng phương
pháp sinh học, tác giả đã phân lập được chủng vi khuẩn
latic từ nem chua có khả năng sinh acid lactic mạnh và có
khả năng sinh enzyme protease ngoại bào. Tác giả cũng đã
khảo sát các điều kiện thích hợp cho quá trình khử khoáng
và khử protein bằng dịch enzyme, theo đó tỷ lệ dịch
enzyme bổ sung là 30% theo khối lượng, xử lý ở 30°C
trong 6h, sản phẩm gelatin thu được cho chất lượng cao so
với phương pháp hóa học. Với nghiên cứu này, có thể xây
dựng quy trình sản xuất gelatin từ da cá hồi hoàn toàn bằng
dịch enzyme vi khuẩn lactic, không cần phải sử dụng hóa
 chất, quá trình khử protein và khử khoáng được thực hiện
trong cùng một bước, dịch thu được sau khi thủy phân có
thể được sử dụng bổ sung làm thức ăn chăn nuôi và quá
trình sản xuất thân thiện với môi trường.
Tuy nhiên, phương pháp sinh học vẫn còn tồn tại một
số các hạn chế như thời gian thủy phân dài, tốn thời gian
chuẩn bị dịch enzyme vi khuẩn và chưa xử lý triệt để màu
và mùi của sản phẩm. Trong tương lai, tác giả tiếp tục
nghiên cứu rút ngắn thời gian sản xuất, khắc phục màu và
mùi của sản phẩm để hoàn thiện quy trình sản xuất tạo sản
phẩm gelatin có chất lượng tốt hơn.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 633 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sản xuất gelatin từ da cá hồi bằng dịch enzyme của vi khuẩn lacti, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
84 Đoàn Thị Hoài Nam 
NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT GELATIN TỪ DA CÁ HỒI BẰNG DỊCH ENZYME 
CỦA VI KHUẨN LACTIC 
RESEARCH ON USING LACTIC BACTERIA TO PRODUCE GELATIN 
FROM SALMON SKIN 
Đoàn Thị Hoài Nam 
Trường Đại học Bách khoa – Đại học Đà Nẵng; hoainamgvbk@yahoo.com.vn 
Tóm tắt - Gelatin là một loại protein có giá trị cao được thu nhận 
từ phụ phẩm thủy sản như da, xương cá... Trong công nghiệp, 
dung dịch acid và kiềm được sử dụng phổ biến để loại protein và 
khoáng nhằm thu nhận gelatin thành phẩm. Để tăng chất lượng 
gelatin và tìm giải pháp sản xuất thân thiện với môi trường, chủng 
vi khuẩn lactic phân lập từ nem chua có khả năng sinh acid lactic 
và enzyme protease được dùng để sản xuất gelatin. Khảo sát 
các yếu tố ảnh hưởng đến giai đoạn khử protein và khoáng trong 
nguyên liệu da cá hồi gồm tỷ lệ dịch enzyme bổ sung: 10%, 20% 
và 30%; thời gian xử lý: 2h, 4h, 6h, và 8h; nhiệt độ: 10°C, 20°C, 
30°C và 40°C lên các chỉ tiêu hàm lượng protein hòa tan, hàm 
lượng khoáng hòa tan, hàm lượng chất béo và hiệu suất thu nhận 
gelatin. Kết quả cho thấy dịch chiết enzyme với tỷ lệ bổ sung 30% 
ở 30°C trong 6h sẽ thu được sản phẩm gelatin tốt nhất, đạt được 
các chỉ tiêu về chất lượng tương tự như gelatin được sản xuất 
bằng phương pháp hóa học. 
Abstract - Gelatin, a kind of high-value proteins used in food, 
pharmaceutical products and cosmetics can be obtained from by-products 
of seafood processing industries such as skin, bone ... In industry, acid 
and base solutions are used worldwide to eliminate protein and minerals 
in maritime by-products to produce gelatin. In order to increase the quality 
of gelatin product as well as set up the gelatin bio-process manufacture 
which is friendly to the environment, lactic bacteria, isolated from 
fermented pork roll, with high bio-activity in producing acid lactic and 
protease is used in this research. The paper also researches the impact 
of some factors on non-collagenous protein removal process and 
demineralized process in Salmon skin including the proportion of 
translated enzyme supplements at 10%, 20% and 30%; processing time 
of 2 hours, 4 hours, 6 hours and 8 hours and processing temperature at 
10°C, 20°C, 30°C and 40°C on some norms such as dissolved proteins 
content, dissolved minerals content, fatty content and gelatin productivity. 
As a result, the optimal conditions for gelatin manufacture from Salmon 
skin are 30% of enzyme translated, processing time of 6 hours and 
processing temperature at 30°C. Gelatin product obtained from bio-
process has qualitative norms as gelatin produced from chemical process. 
Từ khóa - dịch enzyme bổ sung; gelatin; khử khoáng; khử protein; 
vi khuẩn lactic. 
Key words - translated enzyme supplement; gelatin; 
demineralized process; protein removal process; lactic bacteria. 
1. Đặt vấn đề 
Gelatin là một polymer sinh học thu được từ sự biến 
tính collagen, một loại protein chính có nhiều trong các mô 
liên kết ở da cá và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác 
nhau như thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm v.v Ngành 
công nghiệp chế biến thủy hải sản đang phát triển mạnh mẽ 
ở nước ta theo sau đó là một lượng lớn phụ phẩm thủy hải 
sản như da cá, đầu cá, xương cá chúng có thể được thu 
nhận để sản xuất gelatin. 
Trong công nghiệp hiện nay, gelatin được sản xuất chủ 
yếu bằng phương pháp hóa học, sử dụng các dung dịch acid 
và kiềm khác nhau đòi hỏi các thiết bị sản xuất đắt tiền và 
quá trình sản xuất sử dụng nhiều hóa chất gây ảnh hưởng 
không nhỏ đến môi trường. 
Vi khuẩn lactic phân lập từ nguồn nem chua được 
chứng minh có hoạt tính sinh acid lactic cao cũng như khả 
năng sinh enzyme protease ngoại bào. Trong dịch enzyme 
thu nhận được sau khi nuôi cấy, enzyme protease có thể 
được sử dụng để loại bỏ protein và acid lactic dùng để khử 
khoáng để sản xuất gelatin bằng con đường sinh học. 
Bên cạnh đó, khi sử dụng dịch enzyme để sản xuất gelatin 
thì giai đoạn khử protein và khử khoáng sẽ được diễn ra đồng 
thời, giúp tiết kiệm thời gian và thiết bị sử dụng, dịch thủy 
phân thu được có thể thu nhận để làm thức ăn chăn nuôi. 
Do đó, việc nghiên cứu sản xuất gelatin từ phụ phẩm 
thủy sản bằng con đường sinh học sẽ giải quyết được nhiều 
vấn đề về môi trường, đồng thời góp phần tạo ra sản phẩm 
gelatin có giá trị kinh tế cao [8]. 
2. Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu 
2.1. Nguyên liệu và hóa chất 
Da cá hồi của Công ty Thủy sản Sea Prodex Đà Nẵng 
được thu mua và bảo quản trong đá vận chuyển về Phòng 
thí nghiệm Công nghệ Sinh học – Trường Đại học Bách 
Khoa, Đại học Đà Nẵng. Nguyên liệu được rửa sạch, cắt 
thành miếng có kích thước 2x2 cm, bảo quản ở -22°C đến 
khi sử dụng. Thời gian trữ không quá 3 tháng. 
Nem chua mua tại chợ Hòa Khánh, Đà Nẵng. Nem 
được sử dụng phân lập vi sinh vật trong ngày. 
Hóa chất sử dụng bao gồm: Môi trường MRS của Merk 
(Đức), NaOH, ete dầu hỏa 30-60 (Trung Quốc), thuốc 
nhuộm Amino-black (Mỹ), . 
2.2. Thiết bị 
Các thiết bị chính gồm tủ ấm hãng Memmerk (Đức), tủ 
cấy vô trùng Esco Smart Control (Úc), kính hiển vi quang 
học CX31RTSS (Philippine), máy đo pH MP220 
(Thụy Sĩ), nồi hấp CL-40L (Nhật). 
2.3. Phương pháp 
2.3.1. Xác định thành phần hóa học trong da cá hồi 
Da cá hồi được rã đông tự nhiên trong 2h ở nhiệt độ 
phòng (37°C), tiến hành xác định độ ẩm bằng phương pháp 
sấy đến khi độ ẩm không đổi [9], hàm lượng lipit bằng 
phương pháp Soxhlet [10], hàm lượng tro hòa tan bằng 
phương pháp đốt [11], hàm lượng protein tổng số bằng 
phương pháp Kjeldahl [1]. 
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 5(126).2018, Quyển 1 85 
2.3.2. Sản xuất gelatin bằng phương pháp hóa học 
Sử dụng phương pháp trích ly kết hợp giữa kiềm và acid 
[4]. 30g da cá sau khi rã đông được ngâm với dung dịch 
NaOH 0,04 N ở 8°C, lặp lại 2 lần, mỗi lần 30 phút. Rửa 
sạch NaOH bằng nước lạnh. Tiếp tục ngâm da cá bằng 
dung dịch H2SO4 0,12 M trong 30 phút và ngâm tiếp trong 
dung dịch acid citric 0,005 M trong 30 phút. Rửa sạch với 
nước lạnh nhiều lần. Trích ly da cá 2 lần, mỗi lần 2 giờ. 
Đầu tiên trích ly bằng nước ấm 56°C tỷ lệ 1:1 (v/w), trích 
ly lần 2 bằng nước nóng 65°C tỷ lệ 1:1 (v/w). Dịch trích ly 
đem đi lọc và làm khô ở 60°C trong 38h thu được gelatin 
thành phẩm. 
2.3.3. Phân lập vi khuẩn sinh acid lactic từ nem chua 
Đồng hóa mẫu nem trong nước cất khử trùng và pha 
loãng ở các nồng độ từ 10-1 đến 10-9. Cấy trải 30 µl các 
nồng độ pha loãng trên môi trường thạch MRS và ủ ở 30°C 
trong 48h. Quan sát hình thái khuẩn lạc và kiểm tra đặc tính 
phân giải CaCO3 trên môi trường MRS-CaCO3. 
2.3.4. Xác định khả năng sinh acid lactic 
Khả năng sinh acid lactic được xác định thông qua sự giảm 
pH trong môi trường theo thời gian và nhiệt độ nuôi cấy. 
2.3.5. Xác định hoạt tính sinh enzyme protease 
Sử dụng phương pháp đục lỗ thạch trên môi trường 
Casein-aga. Ly tâm dịch nuôi 5.000 vòng/phút, lấy 20 µl 
dịch nhỏ vào lỗ thạch, ủ trong tủ ấm 8h. Hoạt tính sinh 
enzyme protease được xác định bằng vòng phân giải quanh 
lỗ thạch, tức bằng D-d, mm. Với D là đường kính vòng 
phân giải (mm), và d là đường kính lỗ thạch (mm). 
2.3.6. Xác định lượng protein hòa tan 
Dịch chiết enzyme trước và sau khi sử dụng để loại 
khoáng và loại protein được đem đi xác định hàm lượng 
protein hòa tan bằng phương pháp Bradford [6]. Lượng 
protein hòa tan thu được ở mỗi quá trình được xác định 
bằng lượng protein hòa tan có trong dịch sau xử lý trừ cho 
lượng protein hòa tan có trong dịch ban đầu. 
2.3.7. Xác định hiệu suất thu hồi gelatin 
Sử dụng theo phương pháp nghiên cứu của Ratnasari và 
cộng sự, 2013 [7]. Trong đó X (g) là lượng da cá để ráo 
đem đi chiết, Y(g) là lượng gelatin thu được sau khi sấy từ 
X gam nguyên liệu. 
Hiệu suất thu hồi: H = 
𝑌
𝑋
 𝑥 100% 
2.3.8. Phương pháp xác định độ nhớt của gelatin 
Pha dung dịch gelatin 1% trong nước ấm 60°C, sử dụng 
máy đo độ nhớt cầm tay Brookfield LV ở nhiệt độ phòng 
với tốc độ quay 50 vòng/phút. 
2.4. Phương pháp xử lý số liệu 
Mỗi thí nghiệm được tiến hành lặp lại 3 lần, kết quả 
được tính toán trung bình, xử lý số liệu và vẽ đồ thị bằng 
phần mềm Excel 2003. 
3. Kết quả và thảo luận 
3.1. Xác định thành phần trong nguyên liệu da cá hồi 
Kết quả xác định một số thành phần vật lý và hóa học 
của nguyên liệu da các hồi ban đầu được thể hiện ở Bảng1. 
Trong da cá ban đầu, hàm lượng nước khá cao, hàm lượng 
protein và hàm lượng lipit chiếm đa số. Các protein không 
phải collagen, các chất béo và chất khoáng trong da cá là 
thành phần không mong muốn trong quá trình thu nhận 
gelatin do đó cần phải loại bỏ thông qua quá trình khử 
khoáng và khử protein để chuẩn bị cho quá trình trích ly 
thu nhận gelatin. 
Bảng 1. Thành phần của nguyên liệu da cá hồi 
STT Thành phần Giá trị 
1 Độ ẩm (%) 67,09 ± 0,3 
2 Hàm lượng chất béo (%) 9 ± 0,15 
3 Hàm lượng tro hòa tan (%) 1,2 ± 0,06 
4 Hàm lượng protein tổng số (%) 22,2 ± 0,21 
3.2. Sản xuất gelatin bằng phương pháp hóa học 
Đầu tiên, da cá sẽ được xử lý bằng dung dịch NaOH 
0,04 N ở 8°C trong 30 phút để loại bỏ protein không phải 
collagen, đồng thời phá vỡ một số các liên kết ngang của 
collagen, giúp da cá trương phồng lên và dai hơn. Thời gian 
ngâm, nhiệt độ ngâm và nồng độ dung dịch kiềm ảnh 
hưởng lớn đến quá trình khử protein trong da cá, nếu ngâm 
trong thời gian dài ở nhiệt độ cao và sử dụng dung dịch 
NaOH nồng độ lớn thì ngoài protein, các collagen có trong 
da cá cũng sẽ bị phân hủy hoặc hòa tan trong dung dịch, 
làm giảm lượng gelatin thành phẩm. 
Tiếp đến là quá trình khử khoáng. Các chất khoáng 
trong da cá thường được xử lý bằng các dung dịch acid. 
Theo các kết quả nghiên cứu trước thì các acid vô cơ có 
tác dụng rất tốt trong quá trình khử khoáng và các acid 
hữu cơ giúp giảm mùi và màu của sản phẩm. Do đó, trong 
nghiên cứu này cho da cá tiếp tục qua xử lý với dung dịch 
H2SO4 0,12 M và dung dịch acid citric 0,005 M trong 
30 phút ở 8°C. 
Việc sử dụng dung dịch kiềm và acid còn giúp loại bỏ 
chất béo trên da cá để tránh việc hình thành các phản ứng 
xà phòng hóa làm giảm chất lượng gelatin. 
Kết quả, lượng tro hòa tan của mẫu da cá giảm đi rất 
nhiều, từ 1,2% xuống 0,017%, chất béo giảm từ 9% xuống 
còn 3,75%. Gelatin có độ ẩm 10,27%, nằm trong giới hạn 
cho phép và có thể bảo quản trong bình kín không cần hút 
ẩm [5]. 
Sau khi loại protein và khoáng, tiến hành trích ly ở 
2 mức nhiệt độ 56°C và 65°C trong 30 phút. Nhiệt độ và 
thời gian trích ly ảnh hưởng rất lớn đến sản phẩm. Nếu 
trích ly ở nhiệt độ càng cao và thời gian càng dài thì sự 
phân giải collagen ngoài tạo thành gelatin còn tạo thành 
gelatone và gelatose, làm giảm chất lượng gelatin. 
Ở 56°C, các liên kết collagen trong da sẽ bị đứt hẳn và 
chuyển thành gelatin hòa tan trong nước, trích ly lần 2 ở 
65°C để hòa tan lượng gelatin còn lại trong da, đồng thời 
tăng hiệu suất trích ly. 
3.3. Phân lập vi khuẩn sinh acid lactic từ nem chua 
Kết quả phân lập chủng vi khuẩn sinh acid lactic từ 
nem chua bằng phương pháp pha loãng và cấy trải trên 
môi trường thạch MRS ở 30°C trong 48h, được trình bày 
ở Bảng 2. 
86 Đoàn Thị Hoài Nam 
Bảng 2. Hình thái khuẩn lạc phân lập từ nem chua 
Chủng 
phân lập 
Hình thái khuẩn lạc 
L1 Tròn, nhỏ, trắng đục, nhẵn bóng 
L2 To, hình bầu dục, trắng đục, nhẵn bóng 
L3 To, tròn, trắng sữa, nhẵn bóng, mép lồi lõm 
L4 Nhỏ, tròn, trắng sữa, ăn sâu vào thạch 
L5 Nhỏ, tròn, trắng đục, lồi nhiều 
L6 To, bầu dục, trắng đục, lồi ít 
L7 Nhỏ, tròn, trắng đục, ăn sâu vào thạch 
L8 To, tròn, nhẵn bóng, lồi ít 
L9 Nhỏ, bầu dục, mép lồi lõm, ăn sâu vào thạch 
Kiểm tra khả năng sinh acid lactic của các chủng bằng 
cách nuôi cấy chấm điểm 9 chủng (từ L1-L9) trên môi 
trường thạch MRS-CaCO3. 
Hình 1. Khả năng sinh acid lactic của các chủng phân lập 
Bảng 3. Đường kính vòng phân giải CaCO3 của các chủng 
Chủng Đặc điểm 
L1 Xuất hiện vòng phân giải, D = 2 cm 
L2 Xuất hiện vòng phân giải, D = 4 cm 
L3, L4, L5, L6 Không xuất hiện vòng phân giải 
L7 Xuất hiện vòng phân giải, D = 6 cm 
L8 Xuất hiện vòng phân giải, D = 2,5 cm 
Chủng L7 được phân lập trên môi trường riêng biệt 
MRS dành cho vi khuẩn lactic, mang các đặc điểm khuẩn 
lạc của vi khuẩn lactic, chúng có khả năng sinh acid lactic 
mạnh nhất nên chủng L7 có khả năng là vi khuẩn lactic. 
3.4. Khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian lên 
khả năng sinh acid lactic và enzyme protease 
Khảo sát điều kiện tối ưu bao gồm nhiệt độ nuôi cấy 
(25°C, 30°C và 37°C) và thời gian (16h, 24h, 32h, 48h, 60h 
và 72h) mà tại đó chủng L7 có khả năng sinh acid lactic 
mạnh nhất và tiết nhiều enzyme protease nhất. Kết quả 
kiểm tra độ giảm pH trong môi trường MRS lỏng theo thời 
gian và nhiệt độ được thể hiện như sau: 
Hình 2. Sự biến đổi pH của dịch chiết enzyme theo thời gian 
nuôi cấy ở 25°C, 30°C và 37°C 
Vi khuẩn lactic được chọn lựa phân lập do chúng có đặc 
điểm sinh acid lactic có thể dùng để thay thế cho dung dịch 
acid trong vai trò khử khoáng. Bên cạnh đó, nem chua làm 
từ nguồn nguyên liệu có protein của động vật nên có thể 
chủng vi khuẩn phân lập được sẽ có thêm khả năng sinh ra 
enzyme protease. Trong điều kiện nuôi cấy trên môi trường 
MRS lỏng, pH = 6,5, chủng vi khuẩn phân lập có khả năng 
sinh acid lactic rất mạnh, tối ưu nhất ở 30°C sau 48h nuôi 
cấy, pH giảm từ 6,5 xuống 3,6. Sau đó, khả năng sinh acid 
lactic giảm dần do pH thấp ức chế ngược lại sự sinh trưởng 
và phát triển của vi khuẩn [4]. 
Bằng phương pháp đục lỗ thạch trên môi trường 
Casein-aga, chứng tỏ chủng vi khuẩn này còn có hoạt tính 
sinh enzyme protease ngoại bào nhưng không cao. 
Hình 3. Vòng phân giải casein trên môi trường Casein-aga của 
dịch chiết enzyme sau 48h nuôi cấy ở 30°C và 37°C 
3.5. Kết quả nhân giống và thu nhận dịch enzyme thô 
Tiến hành nhân giống sản xuất ở 30°C, sử dụng 10% 
thể tích giống cấp 1 bổ sung vào môi trường MRS có chứa 
40% da cá hồi xay nhuyễn theo khối lượng. 
Khảo sát khả năng sinh acid lactic và enzyme protease 
của chủng vi khuẩn theo thời gian. Thu nhận dịch chiết 
enzyme bằng cách ly tâm dịch khuẩn ở tốc độ 
6.000 vòng/phút trong 15 phút. 
Hình 4. Giá trị pH, đường kính vòng thủy phân thu được 
sau 24h, 48h, 72h và 96h nuôi cấy 
Hình 5. Vòng thủy phân của dịch chiết enzyme trên 
môi trường Casein-aga sau 24h, 48h, 72h và 96h nuôi cấy 
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 5(126).2018, Quyển 1 87 
Môi trường nhân giống sản xuất ngoài thành phần chính 
là MRS lỏng còn có 40% khối lượng là da cá xay nhuyễn, 
giúp giảm lượng môi trường MRS sử dụng đồng thời là 
nguồn cơ chất cảm ứng tăng khả năng sinh enzyme 
protease của chủng vi khuẩn phân lập được. 
Kết quả cho thấy, môi trường nhân giống sản xuất này 
cũng rất phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của vi 
khuẩn. Khả năng sinh acid lactic trong môi trường sản xuất 
này có kết quả tương tự như trên môi trường MRS riêng 
biệt, pH thấp nhất đạt 3,63 sau 48h nuôi cấy. Đặc biệt, trong 
môi trường này, khả năng sinh enzyme protease ngoại bào 
của vi khuẩn tăng lên, thể hiện ở đường kính vòng thủy 
phân đo được D – d = 9,5 (mm). 
3.6. Kết quả khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình 
khử protein và khử khoáng trên da cá hồi 
3.6.1. Ảnh hưởng của tỷ lệ dịch chiết enzyme bổ sung và 
thời gian lên quá trình khử protein và khử khoáng 
Tỷ lệ dịch chiết khảo sát lần lượt là 10%, 20% và 30% 
theo thể tích ở 30°C tại các khoảng thời gian là 2h, 4h, 6h 
và 8h. Mỗi tỷ lệ bổ sung, tiến hành xác định các chỉ tiêu: 
Hàm lượng protein hòa tan, hàm lượng khoáng, hàm lượng 
chất béo, hiệu suất thu hồi gelatin [7]. 
Bảng 4. Kết quả đo các chỉ tiêu dưới ảnh hưởng của 
tỷ lệ dịch enzyme bổ sung và thời gian xử lý 
Mẫu 
Hàm lượng 
protein hòa tan 
(µg/ml) 
Hàm lượng tro 
hòa tan (%) 
Hàm 
lượng chất 
béo (%) 
Hiệu suất 
thu nhận 
gelatin (%) 
2h 10% 162,3 ± 3,32 0,062 ± 0,0015 5 34,10 
20% 248,22 ± 1,79 0,039 ± 0,002 4 30,41 
30% 276,12 ± 4,34 0,061 ± 0,003 5 31,48 
4h 10% 186,96 ± 2,27 0,058 ± 0,006 6 24,21 
20% 265,08 ± 2,80 0,040 ± 0,003 5 20,93 
30% 276,96 ± 3,98 0,047 ± 0,006 4 22,61 
6h 10% 189,42 ± 3,70 0,028 ± 0,001 6 20,06 
20% 286,64 ± 2,02 0,020 ± 0,003 6 20,78 
30% 305,76 ± 3,03 0,028 ± 0,003 4 22,04 
8h 10% 163,14 ± 2,17 0,030 ± 0,002 6 23,62 
20% 248,64 ± 1,46 0,020 ± 0,001 4 26,81 
Tỷ lệ dịch enzyme sử dụng là một trong những yếu tố 
ảnh hưởng lớn đến quá trình thủy phân. Tỷ lệ dịch enzyme 
thấp thì không đủ nồng độ để loại protein và loại khoáng, 
nếu quá cao thì không hiệu quả kinh tế. Do đó, nghiên cứu 
tiến hành khảo sát tỷ lệ dịch enzyme bổ sung từ 10%, 20% 
và 30%. Chất béo ảnh hưởng đến chất lượng gelatin thành 
phẩm do đó việc loại khoáng, loại béo trong nguyên liệu 
cũng được quan tâm. Nghiên cứu này còn xác định hiệu 
suất thu hồi gelatin ở các điều kiện khảo sát khác nhau để 
xem xét ứng với các điều kiện nghiên cứu cụ thể có làm tổn 
hao lượng colagen trong da, từ đó làm giảm hiệu suất thu 
nhận gelatin thành phẩm hay không. 
Kết quả cho thấy mẫu xử lý với tỷ lệ dịch enzyme bổ 
sung 30% theo khối lượng sau 6h xử lý cho hiệu quả tốt 
nhất. Sau 6h, khả năng loại khoáng và loại protein bắt đầu 
chậm và môi trường xử lý bắt đầu xuất hiện mùi hôi của 
quá trình thối rữa. 
3.6.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình khử protein 
và khử khoáng 
Collagen dễ dàng bị biến tính và hòa tan thành gelatin 
ở nhiệt độ cao [2], do đó, để hạn chế tổn thất gelatin, tiến 
hành khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ (10°C, 20°C, 30°C 
và 40°C) đến khả năng khử protein và khử khoáng của dịch 
enzyme. Các chỉ tiêu đánh giá tương tự như trên. 
Bảng 5. Kết quả đo các chỉ tiêu dưới ảnh hưởng của nhiệt độ 
Nhiệt 
độ (°C) 
Hàm lượng 
protein hòa tan 
(µg/ml) 
Hàm lượng 
tro hòa tan (%) 
Hàm 
lượng chất 
béo (%) 
Hiệu suất 
thu hồi 
gelatin (%) 
10 250,28 ± 1,52 0,0282 ± 0,003 5 34,81 
20 252,86 ± 2,99 0,0278 ± 0,002 6 32,42 
30 298,99 ± 1,48 0,0280 ± 0,002 5 22,37 
40 316,28 ± 0,91 0,0283 ± 0,00015 6 15,66 
Ở 10°C và 20°C, khả năng loại protein trong mẫu thấp 
hơn ở hai mức nhiệt độ còn lại và khi sử dụng nước ấm để 
trích ly gelatin thì sản phẩm gelatin thu được sẽ chứa thêm 
một lượng protein còn sót chưa thủy phân, làm tăng hiệu 
suất thu hồi nhưng lại giảm chất lượng sản phẩm. Ở nhiệt 
độ khảo sát 40°C, mặc dù một lượng lớn protein hòa tan 
(316,28 µg/ml) thu nhận được trong dịch thủy phân chứng 
tỏ nhiệt độ này dịch enzyme có hoạt tính loại protein rất tốt 
nhưng hiệu suất gelatin thu nhận được rất thấp, chứng tỏ ở 
nhiệt độ xử lý này, bên cạnh loại bỏ protein không phải 
collagen, một phần collagen trong da cá còn bị biến tính và 
hòa tan trong dịch xử lý. Do vậy, chọn xử lý ở 30°C, nhiệt 
độ này vừa đảm bảo mục đích khử protein, khử khoáng, 
vừa đảm bảo hiệu suất của sản phẩm cũng như tính kinh tế 
trong điều chỉnh nhiệt độ. 
3.7. Kết quả so sánh gelatin sản xuất bằng phương pháp 
sinh học và phương pháp hóa học 
Da cá sau khi xử lý bằng dịch enzyme sẽ được rửa sạch 
bằng nước và tiến hành trích ly như ở phương pháp hóa 
học. Sản phẩm gelatin sản xuất bằng con đường sinh học 
được so sánh với gelatin sản xuất bằng phương pháp hóa 
học cho kết quả như sau: 
Bảng 6. Bảng so sánh chỉ tiêu chất lượng giữa gelatin sản xuất 
bằng phương pháp sinh học và hóa học 
Chỉ tiêu 
Sản phẩm 
gelatin sinh học 
Sản phẩm 
gelatin hóa học 
Tiêu chuẩn 
Anh 
Hàm lượng tro hòa tan 
(%) 
0,028 ± 0,002 0,017±0,003 ≤ 2% 
Hàm lượng protein hòa 
tan (µg/ml) 
298,99±1,48 618,1±5,8 - 
Hàm lượng béo (%) 5 3,75 - 
Độ nhớt của dung dịch 
gelatin 1% (Cst) 
5,2±0,03 5,0 ±0,02 5 – 6,5 
pH của dung dịch 
gelatin 1% 
6,35±0,01 3,84±0,01 3,8 – 7 
Độ ẩm (%) 9,8±0,12 10,27± 0,2 ≤ 16% 
Mặc dầu khả năng khử protein và khử khoáng của dịch 
chiết enzyme thấp hơn so với việc dùng hóa chất nhưng kết 
quả cho thấy chất lượng gelatin thu được bằng phương 
pháp sinh học tương tự như gelatin hóa học và đều nằm 
88 Đoàn Thị Hoài Nam 
trong tiêu chuẩn chất lượng của Anh. 
Trong phương pháp hóa học, NaOH là chất có hoạt tính 
khử protein mạnh, trong khi đó, phương pháp sinh học chỉ 
sử dụng dịch enzyme từ nuôi cấy vi khuẩn lactic có hoạt 
tính sinh enzyme protease thấp nên khả năng loại protein 
trong da cá không cao. Nếu xét về khả năng khử khoáng, 
chủng vi khuẩn lactic phân lập được có hoạt tính sinh acid 
lactic mạnh nên khi sử dụng dịch enzyme thì khả năng loại 
khoáng trong da cá rất tốt, không có sự chệnh lệch đáng kể 
khi so sánh với phương pháp hóa học. 
Độ nhớt là một trong những yếu tố quan trọng nhất để 
đánh giá chất lượng của gelatin. Sản phẩm gelatin sản xuất 
theo con đường sinh học cho sản phẩm có độ nhớt cao hơn 
so với phương pháp hóa học. pH của gelatin sinh học là 
6,35 chứng tỏ đây là gelatin loại B, còn của phương pháp 
hóa học thì cho pH = 3,84 là gelatin loại A. Gelatin loại A 
thường có độ nhớt và độ bền gel thấp hơn so với gelatin 
loại B khi ở cùng một điều kiện tạo gel. Tuy nhiên cả hai 
sản phẩm gelatin đi từ 2 phương pháp sản xuất ở trên đều 
có các chỉ tiêu đánh giá nằm trong khoảng chỉ tiêu chất 
lượng đánh giá theo tiêu chuẩn Anh. 
4. Kết luận 
Nghiên cứu đã xác định được nguyên liệu da cá ban đầu 
có độ ẩm là 67,09%, hàm lượng chất béo 9%, lượng tro 
toàn phần 1,2%, protein tổng số là 22,2% 
Trong nghiên cứu này, để sản xuất gelatin bằng phương 
pháp sinh học, tác giả đã phân lập được chủng vi khuẩn 
latic từ nem chua có khả năng sinh acid lactic mạnh và có 
khả năng sinh enzyme protease ngoại bào. Tác giả cũng đã 
khảo sát các điều kiện thích hợp cho quá trình khử khoáng 
và khử protein bằng dịch enzyme, theo đó tỷ lệ dịch 
enzyme bổ sung là 30% theo khối lượng, xử lý ở 30°C 
trong 6h, sản phẩm gelatin thu được cho chất lượng cao so 
với phương pháp hóa học. Với nghiên cứu này, có thể xây 
dựng quy trình sản xuất gelatin từ da cá hồi hoàn toàn bằng 
dịch enzyme vi khuẩn lactic, không cần phải sử dụng hóa 
chất, quá trình khử protein và khử khoáng được thực hiện 
trong cùng một bước, dịch thu được sau khi thủy phân có 
thể được sử dụng bổ sung làm thức ăn chăn nuôi và quá 
trình sản xuất thân thiện với môi trường. 
Tuy nhiên, phương pháp sinh học vẫn còn tồn tại một 
số các hạn chế như thời gian thủy phân dài, tốn thời gian 
chuẩn bị dịch enzyme vi khuẩn và chưa xử lý triệt để màu 
và mùi của sản phẩm. Trong tương lai, tác giả tiếp tục 
nghiên cứu rút ngắn thời gian sản xuất, khắc phục màu và 
mùi của sản phẩm để hoàn thiện quy trình sản xuất tạo sản 
phẩm gelatin có chất lượng tốt hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] AOAC, Official Methods of Analysis of the Association of Official 
Analytical Chemists, Virginia, 2016. 
[2] Đỗ Minh Phụng, Đặng Văn Hiệp, Phân tích kiểm nghiệm sản phẩm 
thủy sản, Trường Đại học Thủy sản Nha Trang, 1997. 
[3] Jan Arne Arnesen, Asbjørn Gildberg, “Extraction and 
Characterisation of Gelatin from Atlantic Salmon (Salmo salar) 
skin”, Bioresour Technol, 98(1), 2007, pp. 53-57. 
[4] Mai Đàm Linh, Đỗ Minh Phương, Phạm Thị Tuyết, Kiều Hữu Ảnh, 
Nguyễn Thị Giang, “Đặc điểm sinh học của các chủng vi khuẩn 
lactic phân lập trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Tạp chí Khoa học 
Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, 24, 
2008, trang 221-226. 
[5] Nguyễn Quốc Duy, Nguyễn Hữu Hiếu, Nguyễn Phạm Trúc Nguyên, 
Lê Hồng Vân, Sản xuất Gelatin và ứng dụng, Báo cáo công nghệ chế 
biến thịt – thủy sản, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, 2010. 
[6] Nguyễn Văn Mùi, Thực hành hóa sinh học, NXB Khoa học và Kỹ 
thuật, Hà Nội, 2001. 
[7] Ratnasari Ida, Yuwono Sudarminto Setyo, Nusyam, H. and Widjanark 
Simon Bambang, “Extraction and characterization of gelatin from 
different fresh water fishes as alternative sources of gelatin”, 
International Food Research Journal, 20(6), 2013, pp. 3085-3091 
[8] Soottawat Benjakul, Phanat Kittiphattanabawon, Joe M. Regenstein, 
“Fish Gelatin”, Food Biochemistry and Food Processing, 21, 2012, 
pp. 388-405. 
[9] TCVN 4069, Kẹo, Xác định độ ẩm, 2009. 
[10] TCVN 3703, Thủy sản và sản phẩm thủy sản, Xác định hàm 
lượng chất béo, 2009. 
[11] TCVN 3705, Xác định tro hòa tan, 2009.
(BBT nhận bài: 05/05/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 26/5/2018) 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nghien_cuu_san_xuat_gelatin_tu_da_ca_hoi_bang_dich_enzyme_cu.pdf nghien_cuu_san_xuat_gelatin_tu_da_ca_hoi_bang_dich_enzyme_cu.pdf