Nghiên cứu sản xuất trà hòa tan từ trà hoa vàng ở Quế Phong

Lựa chọn nguyên liệu để sản xuất trà hòa tan Trà hoa vàng dùng dưới dạng sắc uống bất tiện cho việc sử dụng, không được sử dụng rộng rãi và không có hiệu quả về kinh tế. Vì thế, dạng bào chế trà hòa tan có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường, tiện lợi và dễ sử dụng. Chỉ cần uống một gói là đã bằng hãm hoặc nấu cả ấm trà, với ưu điểm hòa tan nhanh, không để lại bã, cách làm đơn giản, tính cô đặc cao, lại có thể uống nguội hoặc uống nóng rất tiện lợi. Trà hòa tan ngày nay đã trở thành một hình thức tồn tại chủ yếu của trà, phù hợp với xã hội công nghiệp. Vì bào chế dưới dạng trà hòa tan, nên dung dịch khi pha phải có màu sắc trong, không vẩn đục, mùi vị thơm ngon, chất lượng nước ổn định. Theo kinh nghiệm của người dân bản địa và qua tìm hiểu thực tế sử dụng của nhiều nơi có nguồn dược liệu trà hoa vàng như: Trung Quốc, Tam Đảo, Ba Chẽ - Quảng Ninh, Đồng Nai., nguyên liệu sử dụng chủ yếu là hoa và nụ khô. Trong khi đó, so sánh nước hãm từ lá và nước hãm từ hoa, chúng tôi nhận thấy: nước hãm từ hoa ổn định về màu sắc và mùi vị lâu hơn nước hãm từ lá khô. Về mặt hóa học, trong lá có nhiều thành phần hoạt chất tanin - là hỗn hợp poliphenol nên dễ bị oxy hóa, chất diệp lục chỉ tan trong nước nóng, khi nước nguội đi thì bị lắng tủa làm mất đi sự ổn định của dịch chiết. Do đó, chúng tôi lựa chọn nguyên liệu để sản xuất trà hòa tan là nụ và hoa trà hoa vàng. Hoa và nụ hoa đã được sấy khô của trà hoa vàng được đưa đi chiết tách để lấy các thành phần có hoạt tính sinh học bằng dung môi nước, chiết bằng nồi chiết và sử dụng hơi quá nhiệt để chiết xuất, tạo thành cao dược liệu chuẩn bị cho quá trình bào chế trà hoa vàng dưới dạng trà hòa tan.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sản xuất trà hòa tan từ trà hoa vàng ở Quế Phong, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [1] HOẠT ĐỘNG KH-CN I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trà hoa vàng thuộc chi Trà (Camellia), họ Chè (Theaceae), có nguồn gốc ở khu vực miền Đông và miền Nam châu Á, từ dãy Himalaya về phía Đông tới Nhật Bản và Indonexia với khoảng 100-250 loài đã được thống kê, mô tả. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, lần đầu tiên trà hoa vàng được phát hiện ở Quảng Tây, Trung Quốc thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Từ đó, trà hoa vàng được nhiều nước quan tâm nghiên cứu vì có nhiều giá trị và công dụng đặc biệt. Ở Việt Nam, trà hoa vàng được tìm thấy tại các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc như: Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Yên Bái, Lào Cai, Nghệ An... Chúng thường mọc ở độ cao 300-800m so với mặt nước biển, phần lớn là trong rừng thứ sinh xen giữa các nương rẫy, ở một số địa hình quá dốc hoặc nhiều đá lộ đầu, ven khe suối cạn. Theo PGS.TS Trần Ninh - giảng viên khoa Sinh, Đại học Khoa học tự nhiên - Đại n DSCKII. Trần Minh Tuệ(1) DS. Lang Văn Hiệu, DS. Nguyễn Thị Ánh Tuyết(2) học Quốc gia Hà Nội, người đã có 16 năm chuyên nghiên cứu về trà hoa vàng, ở Việt Nam đã phát hiện có 20 loài Camellia tại các khu vực Vườn Quốc gia Tam Đảo, Cúc Phương và một số rừng ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Lâm Đồng... Tại đây đã tìm thấy các loài trà hoa vàng như: Camellia crasdiphylla, Camellia tamdaoensis, Camellia murauchi, Camellia gilbertii, Camellia cucphuongensis... Từ năm 2012-2013, đoàn nghiên cứu Nhật Bản do Giáo sư Hakoda phối hợp với PGS.TS Trần Ninh đã phát hiện tại huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An có một loài trà hoa vàng. Sau khi phân tích, đánh giá, đoàn chuyên gia đã đặt tên cho loài trà hoa vàng ở Quế Phong là Camellia quephongensis Hakoda et Ninh. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu đánh giá về giá trị của cây trà hoa vàng tại Quế Phong, Nghệ An. Trong khi đó, tại các bản làng, số lượng cây trà hoa vàng mọc tự nhiên ngày càng ít do bị người dân thu hái cạn kiệt để bán cho các thương lái Trung Quốc, thậm chí đào cả cây đem về làm cảnh, hái hoa uống. Các sản phẩm chiết xuất từ loài trà hoa vàng trên thị trường cũng chưa nhiều, mới chỉ dừng NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT TRÀ HÒA TAN TỪ TRÀ HOA VÀNG Ở QUẾ PHONG HOẠT ĐỘNG KH-CN Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [2] lại ở khuôn khổ sử dụng thủ công và trong người dân. Trà hoa vàng sử dụng dưới dạng thuốc sắc bất tiện, không được sử dụng rộng rãi và không có hiệu quả kinh tế. Vì vậy, việc tìm hiểu về tác dụng của cây trà hoa vàng và nghiên cứu dạng bào chế mới hiện đại như trà hòa tan trà hoa vàng sẽ có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường, tiện lợi và dễ sử dụng. II.ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Địa điểm nghiên cứu Tập trung chủ yếu ở các xã: Mường Nọc, Thông Thụ, Đồng Văn của huyện Quế Phong. 2. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu các đề tài, chuyên luận, báo cáo, tạp chí có liên quan đến trà hoa vàng. - Phương pháp trò chuyện: Trò chuyện với người dân bản địa để tìm hiểu về: thời điểm ra hoa, thời gian thu hoạch, công dụng và cách sử dụng, phân bố trà hoa vàng ở từng vùng; Trò chuyện với tư thương để tìm hiểu trữ lượng thu hái mỗi ngày của cả vùng. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Tìm hiểu về tác dụng của cây trà hoa vàng 1.1. Giá trị làm dược liệu Trà hoa vàng có tên khoa học là Camellia chrysantha, là loài thực vật hạt kín trong họ Chè Theaceae, có giá trị dược liệu rất quý. Ở Trung Quốc, trà hoa vàng (hay còn gọi là kim hoa trà) được nhiều nhà nghiên cứu hợp chất tự nhiên của Trung Quốc phát hiện có chứa hơn 400 loại nguyên tố hóa học khác nhau, rất có lợi cho sức khỏe con người. Tạp chí “Camellia International Journal” - một ấn phẩm chuyên nghiên cứu về trà hoa vàng của thế giới xuất bản tại Newzealand cho biết: trà hoa vàng có thể chiết xuất 9 vi chất khác nhau. Sản phẩm từ các hợp chất của trà hoa vàng có khả năng kiềm chế sự sinh trưởng của các khối u đến 33,8% (trong khi y học cho rằng chỉ cần đạt đến ngưỡng 30% đã có thể xem là thành công trong điều trị ung thư); giúp giảm đến 35% hàm lượng cholesterol trong máu (trong khi dùng các loại thuốc khác thì mức độ giảm chỉ là 33,2%). Chất chiết xuất từ trà hoa vàng còn có tác dụng làm giảm tới 36,1% lượng lipoprotein trong cơ thể, cao hơn 10% so với các liệu pháp sử dụng tân dược hiện nay. Ông Lipuren, chuyên gia y học dân tộc nổi tiếng của Trung Quốc, trong một công trình nghiên cứu khoa học đã khẳng định trà hoa vàng “có những công dụng y học vô giá”. Theo chuyên gia này, sử dụng sản phẩm từ trà hoa vàng có thể làm giảm triệu chứng xơ vữa động mạch do máu nhiễm mỡ sau khoảng 20 ngày. Trà hoa vàng còn rất tốt cho bệnh cao huyết áp vì khả năng làm giảm và điều hòa huyết áp của nó. Sử dụng trà hoa vàng có thể chữa được rất nhiều bệnh như táo bón, hạ đường huyết đối với người bị tiểu đường. Bên cạnh đó, một số bệnh về đường hô hấp, bài tiết (chứng tiểu khó và vàng), khí thũng hay co thắt dạ con ở phụ nữ đều có thể sử dụng thức uống này như một phương pháp chữa trị đơn giản lại sớm mang lại kết quả. Tiến sĩ John Welsburger - thành viên cao cấp của Tổ chức Sức khỏe Hoa Kỳ phát biểu: “Dường như những thành phần chứa trong trà có khả năng làm giảm nguy cơ một số bệnh mãn tính như đột quỵ, trụy tim và ung thư”. Theo một số nghiên cứu ở Hà Lan, những người uống 4-5 tách chè đen hàng ngày giảm 70% nguy cơ đột quỵ so với những người chỉ dùng 2 tách hoặc ít hơn. Đó chính là do chất flavonoid có trong chè đen đã ngăn ngừa sự vón cục nguy hiểm của tiểu huyết cầu trong máu - nguyên nhân dẫn đến hầu hết các chứng đột quỵ và các cơn đau tim. Loại chè đen nhắc đến trên đây là một dạng chè được chế biến từ trà hoa vàng. Y học cổ truyền Trung Quốc đã tổng kết 9 tác dụng chính của lá trà hoa vàng: 1/ Trong lá trà có những hoạt chất làm giảm tổng hàm lượng lipit trong huyết thanh máu, giảm lượng cholesterol mật độ thấp (choles- terol xấu) và tăng lượng cholesterol mật độ cao (cholesterol tốt). 2/ Nước sắc lá trà có tác dụng hạ huyết áp rõ ràng và được duy trì trong thời gian tương đối dài. 3/ Nước sắc lá trà có tác dụng ức chế sự tụ tập của tiểu cầu, chống sự hình thành huyết khối gây tắc nghẽn mạch máu. 4/ Phòng ngừa ung thư và ức chế sự phát triển của các khối u khác. 5/ Hưng phấn thần kinh. 6/ Lợi tiểu mạnh. 7/ Giải độc gan và thận, ngăn ngừa xơ vữa động mạnh máu. 8/ Ức chế và tiêu diệt vi khuẩn. 9/ Lá trà có tác dụng chống viêm, chống dị ứng và duy trì trạng thái bình thường của tuyến giáp [1, 16, 17, 18]. Theo cuốn Từ điển cây thuốc Việt Nam của GS. Võ Văn Chi thì lá của trà hoa vàng Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [3] HOẠT ĐỘNG KH-CN được sử dụng để chữa bệnh lỵ, các bệnh chốc lở [2]. Từ nhiều năm nay, người cao tuổi ở các xã trong huyện Quế Phong biết về cây trà hoa vàng dùng để nấu nước uống như chè xanh. Đây là loài cây mọc tự nhiên trong rừng. Người dân dùng trà hoa vàng nấu lấy nước uống, người ốm yếu đau nhức cơ thể trở nên khỏe mạnh, hoạt bát còn người khỏe mạnh ăn được nhiều cơm, đêm ngủ ngon giấc. Lá của trà hoa vàng còn được dùng như một loại thức ăn được nấu với măng làm canh dùng cho người mới ốm dậy, người suy nhược sức khỏe. Ngoài ra, khi bị các vết thương lở loét, người dân địa phương còn lấy hoa và lá của trà hoa vàng giã nhỏ đắp lên vết thương, mỗi ngày thay 2-3 lần thì sau 2-3 ngày, vết thương sẽ khô và liền da. Trong quá trình điều tra khảo sát về cây trà hoa vàng, đoàn chúng tôi tìm hiểu, tiếp xúc với một vài thầy lang trong vùng, được biết trà hoa vàng là vị thuốc Nam hết sức có hiệu quả. Ngoài tác dụng của hoa thì lá của trà hoa vàng còn có tác dụng chống mệt mỏi, giúp tinh thần tỉnh táo, tăng cường chức năng tiêu hóa, lợi tiểu, giải độc rất tốt. Đây là vốn quý cần phát huy, nhất là trong điều trị dự phòng ở cơ sở. 1.2. Giá trị làm cây cảnh Giá trị lớn nhất và dễ nhận thấy nhất của các loài thuộc chi Camellia là làm cây cảnh. Màu vàng của trà hoa vàng rất đặc trưng, khó có thể tạo được bằng phương pháp lai tạo nên càng thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà lai tạo giống chè trên thế giới. Hiện nay, người ta đã tìm được Camellia flava của Việt Nam là loài rất dễ lai tạo và đã tạo được nhiều loài lai giữa loài này với các loài chè của Nhật Bản. Trà hoa vàng có thời gian ra hoa khá dài, hoa có màu vàng sặc sỡ, hoa từ trung bình đến to, có đường kính 4-8cm, đẹp, tươi lâu, nhiều loài nở hoa vào dịp Tết âm lịch nên người chơi cây cảnh đã sưu tầm các cây trà hoa vàng dã sinh về trồng làm cảnh ở sân vườn. Trà hoa vàng đang được người dân các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ sử dụng như một loại cây cảnh quý. Có khoảng 3.000 giống lai ghép đã được chọn lọc từ trà hoa vàng, nhiều giống có hoa kép. Một số loài hoa trà được coi là biểu tượng của một bang hay một tỉnh như: loài chè Camellia japonica là loài hoa biểu tượng của bang Alabama, Hoa Kỳ và thành phố Trùng Khánh, Trung Quốc[3, 6, 7, 8]. 1.3. Giá trị khác Trà hoa vàng thường là cây gỗ nhỏ, cao 3-5m, là cây chịu bóng, thường mọc dưới tán rừng tự nhiên. Do đó, trà hoa vàng có khả năng trồng làm cây tầng dưới cho các đai rừng phòng hộ nuôi dưỡng nguồn nước, chống xói mòn. Cây có nhiều lá, dễ phân giải, có tác dụng giữ nước và cải tạo đất tốt [2, 3, 7]. 2. Đánh giá chất lượng và trữ lượng của cây trà hoa vàng trên địa bàn huyện Quế Phong Từ năm 2012-2013, đoàn nghiên cứu Nhật Bản do Giáo sư Hakoda phối hợp với PGS.TS Trần Ninh đã phát hiện và đặt tên cho loài trà hoa vàng mới tại huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An là Camellia quephongensis Hakoda et Ninh [16]. Hình 1. Trà hoa vàng (Camellia quephongensis) tại Nghệ An HOẠT ĐỘNG KH-CN Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [4] Trà hoa vàng Quế Phong (Camellia que- phongsis Ninh et Hakoda) thích nghi và sinh trưởng tốt nhất ở điều kiện khí hậu nhiệt đới mưa mùa (ở độ cao từ 300-800m so với mực nước biển), dưới tán rừng có chiều cao 10- 15m, độ tàn che 0,55-0,7 [4, 6, 7, 8, 16]. Kết quả điều tra, khảo sát toàn huyện Quế Phong, có hơn 5.000 cây trà hoa vàng, cây đang cho thu hoạch là trên 4.500 cây, tập trung chủ yếu ở các xã Mường Nọc, Thông Thụ, Đồng Văn. Trà hoa vàng tại đây sinh trưởng, phát triển tốt, tỷ lệ cây sinh trưởng tốt khá cao (trên 70%). Trung bình cứ 100 cây thì có khoảng 70 cây trưởng thành cho khoảng 1kg hoa tươi/cây/vụ, khoảng 21 cây trung bình chưa cho ra hoa hoặc cho hoa nhưng dưới 0,2kg/cây/vụ. Còn lại là cây nhỏ, sinh trưởng kém. Như vậy, có 91/100 cây trà hoa vàng được khảo sát phát triển tốt và trung bình, chứng tỏ điều kiện sinh thái, khí hậu và thổ nhưỡng của vùng rất phù hợp cho sự sinh trưởng, phát triển của loài trà hoa vàng Camellia quephongesis Hakoda et Ninh. Trà hoa vàng được thu hái vào tháng 10- 12 âm lịch, bộ phận thu hái chủ yếu: lá, nụ và hoa. Sau khi thu hái nụ và hoa tươi, người dân địa phương bán lại cho tư thương hoặc tiến hành sơ chế, bảo quản bằng cách hông hoặc chần qua nước sôi, để ráo nước và cho vào sấy. Công đoạn sấy có thể tiến hành bằng lò sấy hoặc bằng than, củi. Thành phẩm nụ và hoa khô được người dân sử dụng bằng cách hãm với nước sôi để uống hoặc bán cho những người có nhu cầu. Đối với bộ phận lá, sau khi thu hái được đem phơi hoặc sấy khô, khi dùng có thể hãm hoặc sắc để uống. Điều tra sơ bộ cho thấy, trữ lượng trà hoa vàng tự nhiên tại Nghệ An đang có chiều hướng sụt giảm. Hiện tại, vào mùa thu hái, mỗi cây cho khoảng 1kg hoa và nụ tươi. Toàn huyện Quế Phong mỗi ngày có thể mua được trên 6 tạ hoa tươi. Như vậy, chỉ tính riêng tại huyện Quế Phong, mỗi năm cho thu hoạch trên 54 tấn hoa và nụ tươi, với giá thu mua hiện tại dao động từ 50.000-70.000 đồng/kg hoa tươi cho thu nhập gần 300 triệu đồng. Hiện nay, đang có một vài dự án quy hoạch trồng trà hoa vàng tại huyện Tương Dương, Quế Phong nhằm bảo tồn nguồn dược liệu quý và tạo ra nguồn lợi kinh tế. Trong đó, dự án trồng trên 12ha trà hoa vàng tại xã Lưu Kiền, huyện Tương Dương của Công ty CP Vật tư Nông nghiệp Nghệ An [22] và dự án bảo toàn gen trà hoa vàng của Công ty Dược liệu TH tại 5ha rừng tự nhiên thuộc xã Hạnh Dịch, huyện Quế Phong, Nghệ An đang cho kết quả tích cực [23]. 3. Lựa chọn nguyên liệu để sản xuất trà hòa tan Trà hoa vàng dùng dưới dạng sắc uống bất tiện cho việc sử dụng, không được sử dụng rộng rãi và không có hiệu quả về kinh tế. Vì thế, dạng bào chế trà hòa tan có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường, tiện lợi và dễ sử dụng. Chỉ cần uống một gói là đã Hình 2: Trạng thái rừng có trà hoa vàng Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [5] HOẠT ĐỘNG KH-CN bằng hãm hoặc nấu cả ấm trà, với ưu điểm hòa tan nhanh, không để lại bã, cách làm đơn giản, tính cô đặc cao, lại có thể uống nguội hoặc uống nóng rất tiện lợi. Trà hòa tan ngày nay đã trở thành một hình thức tồn tại chủ yếu của trà, phù hợp với xã hội công nghiệp. Vì bào chế dưới dạng trà hòa tan, nên dung dịch khi pha phải có màu sắc trong, không vẩn đục, mùi vị thơm ngon, chất lượng nước ổn định. Theo kinh nghiệm của người dân bản địa và qua tìm hiểu thực tế sử dụng của nhiều nơi có nguồn dược liệu trà hoa vàng như: Trung Quốc, Tam Đảo, Ba Chẽ - Quảng Ninh, Đồng Nai..., nguyên liệu sử dụng chủ yếu là hoa và nụ khô. Trong khi đó, so sánh nước hãm từ lá và nước hãm từ hoa, chúng tôi nhận thấy: nước hãm từ hoa ổn định về màu sắc và mùi vị lâu hơn nước hãm từ lá khô. Về mặt hóa học, trong lá có nhiều thành phần hoạt chất tanin - là hỗn hợp poliphenol nên dễ bị oxy hóa, chất diệp lục chỉ tan trong nước nóng, khi nước nguội đi thì bị lắng tủa làm mất đi sự ổn định của dịch chiết. Do đó, chúng tôi lựa chọn nguyên liệu để sản xuất trà hòa tan là nụ và hoa trà hoa vàng. Hoa và nụ hoa đã được sấy khô của trà hoa vàng được đưa đi chiết tách để lấy các thành phần có hoạt tính sinh học bằng dung môi nước, chiết bằng nồi chiết và sử dụng hơi quá nhiệt để chiết xuất, tạo thành cao dược liệu chuẩn bị cho quá trình bào chế trà hoa vàng dưới dạng trà hòa tan. IV. KẾT LUẬN Trà hoa vàng (Camellia spp.) là loài cây quý hiếm, có nhiều giá trị như làm thuốc, đồ uống, làm cảnh... nhưng hiện nay công trình nghiên cứu về dược liệu này chưa nhiều và chưa được quan tâm đúng mức. Do đó, việc nghiên cứu đánh giá lựa chọn nguyên liệu trà hoa vàng để đưa vào sản xuất trà hòa tan, từ đó góp phần bảo vệ sức khỏe người dân, bảo tồn, phát triển nguồn dược liệu quý là hết sức cần thiết./. Chú thích: (1) Sở Y tế Nghệ An (2) Công ty CP Dược VTYT Nghệ An Tài liệu tham khảo 1. Lương Thịnh Nghiệp, 2000, Trung Quốc danh ưu trà hoa, Nxb Kim Thuần, Bắc Kinh. 2. GS. Võ Văn Chi, Từ điển cây thuốc Việt Nam, tập 2, Nxb Y học. 3. Đỗ Văn Tuân, 2013-2016, Khai thác và phát triên̉ nguôǹ gen trà hoa vàng Tam Đảo (Camellia tamdaoensis) và trà hoa vàng pêtêlô (Camellia petelotii) taị Vườn Quốc gia Tam Đảo, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước. 4. Trần Ninh, 2002, Kết quả nghiên cứu phân loại các loại trà hoa vàng của Việt Nam. Proceedings of the first National Symposium on yellow Camellia of Viet Nam, Tam Dao 8-1 Ja. 9-14.3. 5. Viện dược liệu (2007), Bước đầu khảo sát thành phần hóa học của một số loài trà hoa vàng camellia spp ở Việt Nam. 6. Ngô Quang Đê, 1998, Sưu tập một số loài cây Camellia hoa vàng dã sinh góp phần bảo vệ nguồn gen loài cây quý có nguy cơ bị tuyệt diệt, Báo cáo khoa học Đại học Lâm nghiệp 1998. 7. Ngô Quang Đê, 2001, Trà hoa vàng (Camellia sp) nguồn tài nguyên quý hiếm cần bảo vệ và phát triển, Tạp chí Việt Nam hương sắc 92, 10-11. 8. Tạp chí Camellia International Journal - Chuyên nghiên cứu về trà hoa vàng của thế giới. 9. Lixia Song, Xiangshe, WangXueqin Zheng, Dejian Huang, Polyphenolic antioxidant profiles of yellow camellia. Food Chem- istry, Volume 129, Issue 2, 15 November 2011, Pages 351-357. 10. QIN Lan-fang, LAI Mao-xiang, LIANG Bing, QU Xin-cheng, HUANG Yun-feng, HU Qi-ming. Determination of Kaempferol in Camellia petelotii by HPLC. Guangxi Sciences, 2012-04. 11. mien-tay-Nghe-An /c/16026823.epi. 12. kien, Sở KH&CN Nghệ An: Kiểm tra tiến độ thực hiện các đề tài quỹ gen, 15/06/2015. Hình 3: Cây trà hoa vàng trưởng thành tại huyện Quế Phong, Nghệ An

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_san_xuat_tra_hoa_tan_tu_tra_hoa_vang_o_que_phong.pdf
Tài liệu liên quan