Lựa chọn nguyên liệu để sản xuất trà hòa tan
Trà hoa vàng dùng dưới dạng sắc uống bất tiện cho
việc sử dụng, không được sử dụng rộng rãi và không
có hiệu quả về kinh tế. Vì thế, dạng bào chế trà hòa
tan có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường,
tiện lợi và dễ sử dụng. Chỉ cần uống một gói là đã
bằng hãm hoặc nấu cả ấm trà, với ưu
điểm hòa tan nhanh, không để lại bã, cách
làm đơn giản, tính cô đặc cao, lại có thể
uống nguội hoặc uống nóng rất tiện lợi.
Trà hòa tan ngày nay đã trở thành một
hình thức tồn tại chủ yếu của trà, phù hợp
với xã hội công nghiệp.
Vì bào chế dưới dạng trà hòa tan, nên
dung dịch khi pha phải có màu sắc trong,
không vẩn đục, mùi vị thơm ngon, chất
lượng nước ổn định. Theo kinh nghiệm
của người dân bản địa và qua tìm hiểu
thực tế sử dụng của nhiều nơi có nguồn
dược liệu trà hoa vàng như: Trung Quốc,
Tam Đảo, Ba Chẽ - Quảng Ninh, Đồng
Nai., nguyên liệu sử dụng chủ yếu là hoa
và nụ khô. Trong khi đó, so sánh nước
hãm từ lá và nước hãm từ hoa, chúng tôi
nhận thấy: nước hãm từ hoa ổn định về
màu sắc và mùi vị lâu hơn nước hãm từ
lá khô. Về mặt hóa học, trong lá có nhiều
thành phần hoạt chất tanin - là hỗn hợp
poliphenol nên dễ bị oxy hóa, chất diệp
lục chỉ tan trong nước nóng, khi nước
nguội đi thì bị lắng tủa làm mất đi sự ổn
định của dịch chiết.
Do đó, chúng tôi lựa chọn nguyên liệu
để sản xuất trà hòa tan là nụ và hoa trà
hoa vàng. Hoa và nụ hoa đã được sấy
khô của trà hoa vàng được đưa đi chiết
tách để lấy các thành phần có hoạt tính
sinh học bằng dung môi nước, chiết
bằng nồi chiết và sử dụng hơi quá nhiệt
để chiết xuất, tạo thành cao dược liệu
chuẩn bị cho quá trình bào chế trà hoa
vàng dưới dạng trà hòa tan.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sản xuất trà hòa tan từ trà hoa vàng ở Quế Phong, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [1]
HOẠT ĐỘNG KH-CN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trà hoa vàng thuộc chi Trà (Camellia),
họ Chè (Theaceae), có nguồn gốc ở khu
vực miền Đông và miền Nam châu Á, từ
dãy Himalaya về phía Đông tới Nhật Bản và
Indonexia với khoảng 100-250 loài đã được
thống kê, mô tả. Từ những năm 60 của thế
kỷ XX, lần đầu tiên trà hoa vàng được phát
hiện ở Quảng Tây, Trung Quốc thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học. Từ đó, trà
hoa vàng được nhiều nước quan tâm nghiên
cứu vì có nhiều giá trị và công dụng đặc biệt.
Ở Việt Nam, trà hoa vàng được tìm thấy
tại các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc
như: Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Yên Bái, Lào
Cai, Nghệ An... Chúng thường mọc ở độ cao
300-800m so với mặt nước biển, phần lớn là
trong rừng thứ sinh xen giữa các nương rẫy,
ở một số địa hình quá dốc hoặc nhiều đá lộ
đầu, ven khe suối cạn.
Theo PGS.TS Trần Ninh - giảng viên
khoa Sinh, Đại học Khoa học tự nhiên - Đại
n DSCKII. Trần Minh Tuệ(1)
DS. Lang Văn Hiệu, DS. Nguyễn Thị Ánh Tuyết(2)
học Quốc gia Hà Nội, người đã có 16 năm chuyên
nghiên cứu về trà hoa vàng, ở Việt Nam đã phát hiện
có 20 loài Camellia tại các khu vực Vườn Quốc gia
Tam Đảo, Cúc Phương và một số rừng ở Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Lạng Sơn, Lâm Đồng... Tại đây đã tìm
thấy các loài trà hoa vàng như: Camellia crasdiphylla,
Camellia tamdaoensis, Camellia murauchi, Camellia
gilbertii, Camellia cucphuongensis...
Từ năm 2012-2013, đoàn nghiên cứu Nhật Bản do
Giáo sư Hakoda phối hợp với PGS.TS Trần Ninh đã
phát hiện tại huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An có một
loài trà hoa vàng. Sau khi phân tích, đánh giá, đoàn
chuyên gia đã đặt tên cho loài trà hoa vàng ở Quế
Phong là Camellia quephongensis Hakoda et Ninh.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào đi
sâu đánh giá về giá trị của cây trà hoa vàng tại Quế
Phong, Nghệ An. Trong khi đó, tại các bản làng, số
lượng cây trà hoa vàng mọc tự nhiên ngày càng ít do
bị người dân thu hái cạn kiệt để bán cho các thương
lái Trung Quốc, thậm chí đào cả cây đem về làm cảnh,
hái hoa uống. Các sản phẩm chiết xuất từ loài trà hoa
vàng trên thị trường cũng chưa nhiều, mới chỉ dừng
NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT TRÀ HÒA TAN
TỪ TRÀ HOA VÀNG Ở QUẾ PHONG
HOẠT ĐỘNG KH-CN
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [2]
lại ở khuôn khổ sử dụng thủ công và trong người dân.
Trà hoa vàng sử dụng dưới dạng thuốc sắc bất tiện,
không được sử dụng rộng rãi và không có hiệu quả
kinh tế. Vì vậy, việc tìm hiểu về tác dụng của cây trà
hoa vàng và nghiên cứu dạng bào chế mới hiện đại
như trà hòa tan trà hoa vàng sẽ có khả năng đáp ứng
tốt nhu cầu của thị trường, tiện lợi và dễ sử dụng.
II.ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Địa điểm nghiên cứu
Tập trung chủ yếu ở các xã: Mường Nọc, Thông
Thụ, Đồng Văn của huyện Quế Phong.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu các đề tài, chuyên
luận, báo cáo, tạp chí có liên quan đến trà hoa vàng.
- Phương pháp trò chuyện: Trò chuyện với người
dân bản địa để tìm hiểu về: thời điểm ra hoa, thời gian
thu hoạch, công dụng và cách sử dụng, phân bố trà hoa
vàng ở từng vùng; Trò chuyện với tư thương để tìm
hiểu trữ lượng thu hái mỗi ngày của cả vùng.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Tìm hiểu về tác dụng của cây trà hoa vàng
1.1. Giá trị làm dược liệu
Trà hoa vàng có tên khoa học là Camellia
chrysantha, là loài thực vật hạt kín trong họ Chè
Theaceae, có giá trị dược liệu rất quý. Ở Trung Quốc,
trà hoa vàng (hay còn gọi là kim hoa trà) được nhiều
nhà nghiên cứu hợp chất tự nhiên của Trung Quốc
phát hiện có chứa hơn 400 loại nguyên tố hóa học
khác nhau, rất có lợi cho sức khỏe con người.
Tạp chí “Camellia International Journal” - một
ấn phẩm chuyên nghiên cứu về trà hoa vàng của thế
giới xuất bản tại Newzealand cho biết: trà hoa vàng
có thể chiết xuất 9 vi chất khác nhau. Sản phẩm từ
các hợp chất của trà hoa vàng có khả năng kiềm chế
sự sinh trưởng của các khối u đến 33,8% (trong khi
y học cho rằng chỉ cần đạt đến ngưỡng 30% đã có
thể xem là thành công trong điều trị ung thư); giúp
giảm đến 35% hàm lượng cholesterol trong máu
(trong khi dùng các loại thuốc khác thì mức độ giảm
chỉ là 33,2%). Chất chiết xuất từ trà hoa vàng còn có
tác dụng làm giảm tới 36,1% lượng lipoprotein trong
cơ thể, cao hơn 10% so với các liệu pháp sử dụng tân
dược hiện nay.
Ông Lipuren, chuyên gia y học dân tộc nổi tiếng
của Trung Quốc, trong một công trình nghiên cứu
khoa học đã khẳng định trà hoa vàng “có những công
dụng y học vô giá”. Theo chuyên gia này, sử dụng sản
phẩm từ trà hoa vàng có thể làm giảm triệu chứng xơ
vữa động mạch do máu nhiễm mỡ sau
khoảng 20 ngày. Trà hoa vàng còn rất tốt cho
bệnh cao huyết áp vì khả năng làm giảm và
điều hòa huyết áp của nó. Sử dụng trà hoa
vàng có thể chữa được rất nhiều bệnh như
táo bón, hạ đường huyết đối với người bị
tiểu đường. Bên cạnh đó, một số bệnh về
đường hô hấp, bài tiết (chứng tiểu khó và
vàng), khí thũng hay co thắt dạ con ở phụ nữ
đều có thể sử dụng thức uống này như một
phương pháp chữa trị đơn giản lại sớm mang
lại kết quả.
Tiến sĩ John Welsburger - thành viên cao
cấp của Tổ chức Sức khỏe Hoa Kỳ phát
biểu: “Dường như những thành phần chứa
trong trà có khả năng làm giảm nguy cơ một
số bệnh mãn tính như đột quỵ, trụy tim và
ung thư”. Theo một số nghiên cứu ở Hà Lan,
những người uống 4-5 tách chè đen hàng
ngày giảm 70% nguy cơ đột quỵ so với
những người chỉ dùng 2 tách hoặc ít hơn. Đó
chính là do chất flavonoid có trong chè đen
đã ngăn ngừa sự vón cục nguy hiểm của tiểu
huyết cầu trong máu - nguyên nhân dẫn đến
hầu hết các chứng đột quỵ và các cơn đau
tim. Loại chè đen nhắc đến trên đây là một
dạng chè được chế biến từ trà hoa vàng.
Y học cổ truyền Trung Quốc đã tổng kết
9 tác dụng chính của lá trà hoa vàng: 1/
Trong lá trà có những hoạt chất làm giảm
tổng hàm lượng lipit trong huyết thanh máu,
giảm lượng cholesterol mật độ thấp (choles-
terol xấu) và tăng lượng cholesterol mật độ
cao (cholesterol tốt). 2/ Nước sắc lá trà có
tác dụng hạ huyết áp rõ ràng và được duy trì
trong thời gian tương đối dài. 3/ Nước sắc lá
trà có tác dụng ức chế sự tụ tập của tiểu cầu,
chống sự hình thành huyết khối gây tắc
nghẽn mạch máu. 4/ Phòng ngừa ung thư và
ức chế sự phát triển của các khối u khác. 5/
Hưng phấn thần kinh. 6/ Lợi tiểu mạnh. 7/
Giải độc gan và thận, ngăn ngừa xơ vữa
động mạnh máu. 8/ Ức chế và tiêu diệt vi
khuẩn. 9/ Lá trà có tác dụng chống viêm,
chống dị ứng và duy trì trạng thái bình
thường của tuyến giáp [1, 16, 17, 18].
Theo cuốn Từ điển cây thuốc Việt Nam
của GS. Võ Văn Chi thì lá của trà hoa vàng
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [3]
HOẠT ĐỘNG KH-CN
được sử dụng để chữa bệnh lỵ, các bệnh
chốc lở [2].
Từ nhiều năm nay, người cao tuổi ở các
xã trong huyện Quế Phong biết về cây trà
hoa vàng dùng để nấu nước uống như chè
xanh. Đây là loài cây mọc tự nhiên trong
rừng. Người dân dùng trà hoa vàng nấu lấy
nước uống, người ốm yếu đau nhức cơ thể
trở nên khỏe mạnh, hoạt bát còn người khỏe
mạnh ăn được nhiều cơm, đêm ngủ ngon
giấc. Lá của trà hoa vàng còn được dùng
như một loại thức ăn được nấu với măng
làm canh dùng cho người mới ốm dậy,
người suy nhược sức khỏe. Ngoài ra, khi bị
các vết thương lở loét, người dân địa
phương còn lấy hoa và lá của trà hoa vàng
giã nhỏ đắp lên vết thương, mỗi ngày thay
2-3 lần thì sau 2-3 ngày, vết thương sẽ khô
và liền da.
Trong quá trình điều tra khảo sát về cây
trà hoa vàng, đoàn chúng tôi tìm hiểu, tiếp
xúc với một vài thầy lang trong vùng, được
biết trà hoa vàng là vị thuốc Nam hết sức có
hiệu quả. Ngoài tác dụng của hoa thì lá của
trà hoa vàng còn có tác dụng chống mệt mỏi,
giúp tinh thần tỉnh táo, tăng cường chức
năng tiêu hóa, lợi tiểu, giải độc rất tốt. Đây
là vốn quý cần phát huy, nhất là trong điều
trị dự phòng ở cơ sở.
1.2. Giá trị làm cây cảnh
Giá trị lớn nhất và dễ nhận thấy nhất của
các loài thuộc chi Camellia là làm cây cảnh.
Màu vàng của trà hoa vàng rất đặc trưng,
khó có thể tạo được bằng phương pháp lai tạo nên
càng thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà lai
tạo giống chè trên thế giới. Hiện nay, người ta đã tìm
được Camellia flava của Việt Nam là loài rất dễ lai tạo
và đã tạo được nhiều loài lai giữa loài này với các loài
chè của Nhật Bản.
Trà hoa vàng có thời gian ra hoa khá dài, hoa có
màu vàng sặc sỡ, hoa từ trung bình đến to, có đường
kính 4-8cm, đẹp, tươi lâu, nhiều loài nở hoa vào dịp
Tết âm lịch nên người chơi cây cảnh đã sưu tầm các
cây trà hoa vàng dã sinh về trồng làm cảnh ở sân vườn.
Trà hoa vàng đang được người dân các nước như
Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ sử dụng như một loại cây
cảnh quý. Có khoảng 3.000 giống lai ghép đã được
chọn lọc từ trà hoa vàng, nhiều giống có hoa kép. Một
số loài hoa trà được coi là biểu tượng của một bang
hay một tỉnh như: loài chè Camellia japonica là loài
hoa biểu tượng của bang Alabama, Hoa Kỳ và thành
phố Trùng Khánh, Trung Quốc[3, 6, 7, 8].
1.3. Giá trị khác
Trà hoa vàng thường là cây gỗ nhỏ, cao 3-5m, là
cây chịu bóng, thường mọc dưới tán rừng tự nhiên. Do
đó, trà hoa vàng có khả năng trồng làm cây tầng dưới
cho các đai rừng phòng hộ nuôi dưỡng nguồn nước,
chống xói mòn. Cây có nhiều lá, dễ phân giải, có tác
dụng giữ nước và cải tạo đất tốt [2, 3, 7].
2. Đánh giá chất lượng và trữ lượng của cây trà
hoa vàng trên địa bàn huyện Quế Phong
Từ năm 2012-2013, đoàn nghiên cứu Nhật Bản do
Giáo sư Hakoda phối hợp với PGS.TS Trần Ninh đã
phát hiện và đặt tên cho loài trà hoa vàng mới tại
huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An là Camellia
quephongensis Hakoda et Ninh [16].
Hình 1. Trà hoa vàng (Camellia quephongensis) tại Nghệ An
HOẠT ĐỘNG KH-CN
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [4]
Trà hoa vàng Quế Phong (Camellia que-
phongsis Ninh et Hakoda) thích nghi và sinh
trưởng tốt nhất ở điều kiện khí hậu nhiệt đới
mưa mùa (ở độ cao từ 300-800m so với mực
nước biển), dưới tán rừng có chiều cao 10-
15m, độ tàn che 0,55-0,7 [4, 6, 7, 8, 16].
Kết quả điều tra, khảo sát toàn huyện
Quế Phong, có hơn 5.000 cây trà hoa vàng,
cây đang cho thu hoạch là trên 4.500 cây,
tập trung chủ yếu ở các xã Mường Nọc,
Thông Thụ, Đồng Văn. Trà hoa vàng tại
đây sinh trưởng, phát triển tốt, tỷ lệ cây sinh
trưởng tốt khá cao (trên 70%). Trung bình
cứ 100 cây thì có khoảng 70 cây trưởng
thành cho khoảng 1kg hoa tươi/cây/vụ,
khoảng 21 cây trung bình chưa cho ra hoa
hoặc cho hoa nhưng dưới 0,2kg/cây/vụ.
Còn lại là cây nhỏ, sinh trưởng kém. Như
vậy, có 91/100 cây trà hoa vàng được khảo
sát phát triển tốt và trung bình, chứng tỏ
điều kiện sinh thái, khí hậu và thổ nhưỡng
của vùng rất phù hợp cho sự sinh trưởng,
phát triển của loài trà hoa vàng Camellia
quephongesis Hakoda et Ninh.
Trà hoa vàng được thu hái vào tháng 10-
12 âm lịch, bộ phận thu hái chủ yếu: lá, nụ
và hoa. Sau khi thu hái nụ và hoa tươi, người
dân địa phương bán lại cho tư thương hoặc
tiến hành sơ chế, bảo quản bằng cách hông
hoặc chần qua nước sôi, để ráo nước và cho
vào sấy. Công đoạn sấy có thể tiến hành bằng lò sấy
hoặc bằng than, củi. Thành phẩm nụ và hoa khô được
người dân sử dụng bằng cách hãm với nước sôi để
uống hoặc bán cho những người có nhu cầu. Đối với
bộ phận lá, sau khi thu hái được đem phơi hoặc sấy
khô, khi dùng có thể hãm hoặc sắc để uống.
Điều tra sơ bộ cho thấy, trữ lượng trà hoa vàng tự
nhiên tại Nghệ An đang có chiều hướng sụt giảm. Hiện
tại, vào mùa thu hái, mỗi cây cho khoảng 1kg hoa và
nụ tươi. Toàn huyện Quế Phong mỗi ngày có thể mua
được trên 6 tạ hoa tươi. Như vậy, chỉ tính riêng tại
huyện Quế Phong, mỗi năm cho thu hoạch trên 54 tấn
hoa và nụ tươi, với giá thu mua hiện tại dao động từ
50.000-70.000 đồng/kg hoa tươi cho thu nhập gần 300
triệu đồng.
Hiện nay, đang có một vài dự án quy hoạch trồng
trà hoa vàng tại huyện Tương Dương, Quế Phong
nhằm bảo tồn nguồn dược liệu quý và tạo ra nguồn lợi
kinh tế. Trong đó, dự án trồng trên 12ha trà hoa vàng
tại xã Lưu Kiền, huyện Tương Dương của Công ty CP
Vật tư Nông nghiệp Nghệ An [22] và dự án bảo toàn
gen trà hoa vàng của Công ty Dược liệu TH tại 5ha
rừng tự nhiên thuộc xã Hạnh Dịch, huyện Quế Phong,
Nghệ An đang cho kết quả tích cực [23].
3. Lựa chọn nguyên liệu để sản xuất trà hòa tan
Trà hoa vàng dùng dưới dạng sắc uống bất tiện cho
việc sử dụng, không được sử dụng rộng rãi và không
có hiệu quả về kinh tế. Vì thế, dạng bào chế trà hòa
tan có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường,
tiện lợi và dễ sử dụng. Chỉ cần uống một gói là đã
Hình 2: Trạng thái rừng có trà hoa vàng
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [5]
HOẠT ĐỘNG KH-CN
bằng hãm hoặc nấu cả ấm trà, với ưu
điểm hòa tan nhanh, không để lại bã, cách
làm đơn giản, tính cô đặc cao, lại có thể
uống nguội hoặc uống nóng rất tiện lợi.
Trà hòa tan ngày nay đã trở thành một
hình thức tồn tại chủ yếu của trà, phù hợp
với xã hội công nghiệp.
Vì bào chế dưới dạng trà hòa tan, nên
dung dịch khi pha phải có màu sắc trong,
không vẩn đục, mùi vị thơm ngon, chất
lượng nước ổn định. Theo kinh nghiệm
của người dân bản địa và qua tìm hiểu
thực tế sử dụng của nhiều nơi có nguồn
dược liệu trà hoa vàng như: Trung Quốc,
Tam Đảo, Ba Chẽ - Quảng Ninh, Đồng
Nai..., nguyên liệu sử dụng chủ yếu là hoa
và nụ khô. Trong khi đó, so sánh nước
hãm từ lá và nước hãm từ hoa, chúng tôi
nhận thấy: nước hãm từ hoa ổn định về
màu sắc và mùi vị lâu hơn nước hãm từ
lá khô. Về mặt hóa học, trong lá có nhiều
thành phần hoạt chất tanin - là hỗn hợp
poliphenol nên dễ bị oxy hóa, chất diệp
lục chỉ tan trong nước nóng, khi nước
nguội đi thì bị lắng tủa làm mất đi sự ổn
định của dịch chiết.
Do đó, chúng tôi lựa chọn nguyên liệu
để sản xuất trà hòa tan là nụ và hoa trà
hoa vàng. Hoa và nụ hoa đã được sấy
khô của trà hoa vàng được đưa đi chiết
tách để lấy các thành phần có hoạt tính
sinh học bằng dung môi nước, chiết
bằng nồi chiết và sử dụng hơi quá nhiệt
để chiết xuất, tạo thành cao dược liệu
chuẩn bị cho quá trình bào chế trà hoa
vàng dưới dạng trà hòa tan.
IV. KẾT LUẬN
Trà hoa vàng (Camellia spp.) là loài
cây quý hiếm, có nhiều giá trị như làm
thuốc, đồ uống, làm cảnh... nhưng hiện
nay công trình nghiên cứu về dược liệu
này chưa nhiều và chưa được quan tâm
đúng mức. Do đó, việc nghiên cứu đánh
giá lựa chọn nguyên liệu trà hoa vàng để
đưa vào sản xuất trà hòa tan, từ đó góp
phần bảo vệ sức khỏe người dân, bảo tồn,
phát triển nguồn dược liệu quý là hết sức
cần thiết./.
Chú thích:
(1) Sở Y tế Nghệ An
(2) Công ty CP Dược VTYT Nghệ An
Tài liệu tham khảo
1. Lương Thịnh Nghiệp, 2000, Trung Quốc danh ưu trà hoa, Nxb
Kim Thuần, Bắc Kinh.
2. GS. Võ Văn Chi, Từ điển cây thuốc Việt Nam, tập 2, Nxb
Y học.
3. Đỗ Văn Tuân, 2013-2016, Khai thác và phát triên̉ nguôǹ gen
trà hoa vàng Tam Đảo (Camellia tamdaoensis) và trà hoa vàng pêtêlô
(Camellia petelotii) taị Vườn Quốc gia Tam Đảo, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Nhà nước.
4. Trần Ninh, 2002, Kết quả nghiên cứu phân loại các loại trà
hoa vàng của Việt Nam. Proceedings of the first National Symposium
on yellow Camellia of Viet Nam, Tam Dao 8-1 Ja. 9-14.3.
5. Viện dược liệu (2007), Bước đầu khảo sát thành phần hóa học
của một số loài trà hoa vàng camellia spp ở Việt Nam.
6. Ngô Quang Đê, 1998, Sưu tập một số loài cây Camellia hoa
vàng dã sinh góp phần bảo vệ nguồn gen loài cây quý có nguy cơ bị
tuyệt diệt, Báo cáo khoa học Đại học Lâm nghiệp 1998.
7. Ngô Quang Đê, 2001, Trà hoa vàng (Camellia sp) nguồn tài
nguyên quý hiếm cần bảo vệ và phát triển, Tạp chí Việt Nam hương
sắc 92, 10-11.
8. Tạp chí Camellia International Journal - Chuyên nghiên cứu
về trà hoa vàng của thế giới.
9. Lixia Song, Xiangshe, WangXueqin Zheng, Dejian Huang,
Polyphenolic antioxidant profiles of yellow camellia. Food Chem-
istry, Volume 129, Issue 2, 15 November 2011, Pages 351-357.
10. QIN Lan-fang, LAI Mao-xiang, LIANG Bing, QU Xin-cheng,
HUANG Yun-feng, HU Qi-ming. Determination of Kaempferol in
Camellia petelotii by HPLC. Guangxi Sciences, 2012-04.
11.
mien-tay-Nghe-An /c/16026823.epi.
12. kien, Sở KH&CN Nghệ An:
Kiểm tra tiến độ thực hiện các đề tài quỹ gen, 15/06/2015.
Hình 3: Cây trà hoa vàng trưởng thành tại huyện Quế Phong, Nghệ An
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_san_xuat_tra_hoa_tan_tu_tra_hoa_vang_o_que_phong.pdf