Điểm tận của động mạch gian thất trước
Động mạch gian thất trước đi trong rãnh
gian thất trước từ nơi xuất phát hướng về phía
đỉnh tim và có thể chấm dứt trước khi đến đỉnh
tim., tại đỉnh tim hoặc vòng ra sau đỉnh tim rồi đi
vào rãnh gian thất sau. Trong nghiên cứu này:
Chỉ có 2 trường hợp (1,6%) động mạch gian
thất trước tận hết trước khi đến đỉnh tim.
27 trường hợp (21,6%) kết thúc tại đỉnh tim.
96 trường hợp (76,8%) động mạch gian thất
trước vòng ra sau đỉnh tim và đi vào rãnh gian
thất sau. Tỷ lệ này không khác với nghiên cứu
của Kalpana R, 80% trường hợp động mạch gian
thất trước đi vào rãnh gan thất sau(10).
Hình 2. Tìm nhìn từ mặt dưới: động mạch gian thất
trước vòng ra sau đỉnh tỉm đi ngược vào rãnh gian
thất sau
Điểm tận của động mạch mũ:
Động mạch mũ đi trong rãnh vành trái
hướng đến bờ trái tim và có thể vòng xuống
dưới mặt hoành của tâm thất trái, đến giao điểm
của rãnh vành và rãnh gian thất sau (giao điểm
này chúng tôi gọi là ‘tâm điểm”). Điểm tận của
động mạch mũ rất thay đổi và liên quan đến sự
tưới máu của cơ tim. Nếu động mạch mũ đi
xuống đến mặt hoành tim sẽ cho các nhánh cung
cấp máu cho mặt hoành thất trái, thậm chí cho cả
nhánh gian thất sau cung cấp máu cho phần sau
vách gian thất. Ngược lại, nếu động mạch mũ
ngắn, chỉ đến bờ trái tim, thậm chí tận hết trước
khi đến bờ trái tim thì mặt hoành thất trái sẽ do
động mạch vành phải cấp máu.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 75 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sự phân nhánh của thân chung động mạch vành trái, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Giải Phẫu Học 281
NGHIÊN CỨU SỰ PHÂN NHÁNH CỦA THÂN CHUNG ĐỘNG MẠCH
VÀNH TRÁI
Nguyễn Hoàng Vũ*, Dương Văn Hải*, Trần Minh Hoàng**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sự phân nhánh của thân chung động mạch vành trái (TCĐMVT) là một trong những biến đổi
về giải phẫu và có ý nghĩa quan trọng trong thực hành lâm sàng.
Mục tiêu: Khảo sát sự phân nhánh của TCĐMVT ở người Việt Nam.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 125 quả tim lấy từ tử thi được ướp dung dịch formol tại bộ môn
Giải phẫu học, Đại học Y Dược TP.HCM.
Kết quả: 96% trường hợp có TCĐMVT với đường kính trung bình là 4,62±0,74mm, dài 9,05±3,61mm.
51,2 % TCĐMVT chia hai nhánh (động mạch gian thất trước và động mạch mũ), 43,2% chia thành ba nhánh,
5.6% chia 4 nhánh. Đường kính ngoài của động mạch gian thất trước, động mạch mũ và của nhánh trung gian
lần lượt là 3,78±0,54mm 3,33± 0,67mm và 1,80± 0,62mm. 76,8% động mạch gian thất trước đi xuống mặt hoành
và kết thúc trong rãnh gian thất sau. 4,13% động mạch mũ tận hết trước khi đến bờ trái, 46,28% tại bờ trái,
45,62% giữa bờ trái và tâm điểm, 4,13% tại tâm điểm.
Kết luận: TCĐMVT có độ dài rất thay đổi và có thể cho từ hai đến bốn nhánh. Sự phân nhánh đa dạng của
TCĐMVT có thể là một trong những yếu tố gây khó khăn trong các thủ thuật can thiệp và chẩn đoán hình ảnh
động mạch vành.
Từ khóa: thân chung động mạch vành trái, động mạch mũ, động mạch gian thất trước, nhánh trung gian,
tâm điểm.
ABSTRACT
A STUDY ON THE DIVISION OF THE MAIN LEFT CORONARY ARTERY
Nguyen Hoang Vu, Duong Van Hai, Tran Minh Hoang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 281 - 286
Introduction: The division of the main left coronary artery (MLCA) is one of the anatomical variants and
importanly significant in clinical practice.
Objective: To study the division of MLCA in Vietnamese.
Materials and methods: 125 hearts of 125 cadavers preserved in formalin solution in department of
Anatomy, the University of Medicine and Pharmacy in HCM city.
Results: MLCA was present in 96% of the specimens. The mean outer diameter and the length of MLCA
were 4.62±0.74mm and 9.05±3.61mm respectively. LMCA showed bifurcation in 51.2%, trifurcation in 43.2%,
and quadrifurcation 5.6%. The outer diameter of anterior interventricular artery, circumflex artery and
intermedius branch were 3.78±0.54mm, 3.33± 0.67mm, 1.80± 0.62mm respectively. The anterior interventricular
artery crossed over the apex to reach the posterior interventricular sulcus and terminated there in 76.4% of the
specimens. The circumflex artery terminated before reaching the left border in 4.13%, at the left border in 46.28%,
between the left border and crux in 45.62% and at the crux in 4.13% of the specimens.
Conclusion: MLCA varied in length and it could divide into two, three or four branches. That may be one of
the difficulties in the interventional technique and imaging diagnostic of coronary artery.
* Bộ môn Giải phẫu học, ĐH Y Dược TPHCM. ** Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh ĐH Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Hoàng Vũ ĐT: 0903863252 Email: vuhoangdr@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 282
Key words: Main left coronary artery, circumflex artery, anterior interventricular artery, intermedius
branch, crux.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tim được cấp máu bởi động mạch vành phải
(ĐMVP) và động mạch vành trái. Đoạn đầu tiên
của động mạch vành trái được gọi là thân chung
động mạch vành trái (TCĐMVT). TCĐMVT
thường ngắn và chia hai nhánh tận là động mạch
gian thất trước và động mạch mũ. Tuy nhiên,
nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy TCĐMVT có
thể cho nhiều nhánh khác, gọi là các nhánh
trung gian, nằm giữa hai nhánh tận kể trên. Sự
đa dạng về phân nhánh của TCĐMVT rất có ý
nghĩa trong thực hành lâm sàng. Nghiên cứu
này khảo sát sự phân nhánh của TCĐMVT ở
người Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
125 tử thi người Việt Nam, gồm 91 nam, 34
nữ, tuổi trung bình 68,1 (từ 33 đến 95) đã ngâm
formol 10% tại bộ môn Giải Phẫu học, Đại học Y
Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Phương pháp chọn mẫu và kỹ thuật phẫu
tích
Mẫu được chọn lựa thuận tiện, là những tử
thi được sử dụng chuẩn bị cho việc giảng dạy tại
bộ môn Giải phẫu học từ năm 2011 đến 2014, trừ
những trường hợp đã được mổ tim hoặc can
thiệp động mạch vành.
Phẫu tích: Tử thi được mở ngực và cắt các
mạch máu lớn (động mạch chủ, động mạch phổi,
tĩnh mạch chủ trên, tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh
mạch phổi) để đưa tim ra ngoài. Tim được phẫu
tích tỉ mỉ, bóc sạch lớp màng ngoài tim để bộc lộ
hệ thống động mạch vành trái rồi quan sát, đo
đạc các chỉ số sau:
Kích thước (độ dài, đường kính) TCĐMVT.
Sự phân nhánh của TCĐMVT.
Kích thước các nhánh của động mạch vành
trái.
Điểm tận của động mạch mũ và động mạch
gian thất trước.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel
2007.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Kích thước của TCĐMVT
Trong số 125 mẫu nghiên cứu, có
1 mẫu không có thân chung, động mạch mũ
và động mạch gian thất trước xuất phát riêng
biệt từ xoang trái động mạch chủ.
4 trường hợp động mạch xuất phát từ xoang
trái nhưng không cho động mạch mũ mà chỉ cho
động mạch gian thất trước. Trường hợp này
chúng tôi xem là động mạch gian thất trước xuất
phát từ xoang trái động mạch chủ, không có
TCĐMVT và động mạch mũ.
120 mẫu còn lại có thân chung, chúng tôi đo
đường kính, độ dài và so sánh với một số tác giả
khác như bảng 1 và bảng 2
Bảng 1. Đường kính TCĐMVT
Tác giả N Trung bình
(mm)
Nhỏ nhất
(mm)
Lớn nhất
(mm)
Bhimalli S
(3) 60 5,73±0,74
Fazliogullari Z
(5) 50 4,33±1,79
Ortale JR
(12) 50 5±0,9 3,3 7,4
Nghiên cứu này 125 4,62±0,74 3,32 8,74
Bảng 2. Độ dài TCĐMVT
Tác giả N Trung bình
(mm)
Nhỏ nhất
(mm)
Lớn nhất
(mm)
Bhimalli S
(3) 60 13,5±2,7
Gazetopoulos N
(8) 202 11,02±4,5 23
Kalpana R
(10) 100 2 20
Ortale JR
(12) 50 13±2,8 7,2 20
Roy S
(13) 98 11.42±4.98 0,5 21,5
Nghiên cứu này 125 9,05±3,61 2,35 19,21
Độ dài trung bình của thân chung động
mạch vành trái là 9,05mm với giá trị nhỏ nhất là
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Giải Phẫu Học 283
2,35mm trong khi giá trị lớn nhất là 19,21mm.
Filipoiu FM xem những trường hợp có độ dài
TCĐMVT dưới 5mm là ngắn và trên 5mm là
dài(5). Theo Ballesteros, những trường hợp độ
dài TCĐMVT dưới 6mm xem là ngắn, từ 6mm
đến 15mm là trung bình, trên 15mm là dài(2).
Theo Gazetopoulos N, Saltissi, độ dài của
TCĐMVT có liên quan đến bệnh xơ vữa động
mạch vành, những người có TCĐMVT ngắn sẽ
có nguy cơ bị bệnh xơ vữa cao hơn và xảy ra sớm
hơn những người có TCĐMVT dài(7, 8, 14).
Sự phân nhánh của TCĐMVT
Thông thường, TCĐMVT cho hai nhánh là
động mạch mũ và động mạch gian thất trước.
Tuy nhiên, thực tế không ít trường hợp
TCĐMVT có thể phân chia thành 3 nhánh, 4
nhánh, 5 nhánh. Các nhánh ngoài động mạch
mũ và động mạch gian thất trước được gọi là các
nhánh trung gian (NTG). Bảng 3 cho thấy kết
quả nghiên cứu về sự phân nhánh này.
Bảng 3. Sự phân nhánh của TCĐMVT
Tác giả N
Số nhánh của TCĐMVT
Hai Ba nhánh Bốn Năm
nhánh
(0 NTG)
(1 NTG) nhánh
(2 NTG)
nhánh
(3NTG)
Bhimalli S
(3) 60 56,66% 33,33% 8,33% 1%
Fazliogullari
Z
(5)
50 46% 44% 10%
Kalpana R
(10
) 100 47% 40% 11% 1%
Ogeng’o JA
(11) 208 54,8% 32,2% 9,6% 3,4%
Ortale JR
(12) 50 50% 46% 4%
Roy S
(13) 98 58% 40% 2%
Nghiên cứu
này
125 50,4% 44% 5,6% 0
Nghiên cứu của chúng tôi có 49,6% có nhánh
trung gian, trong đó phần lớn là có 1 nhánh
(44%). Kết quả này không khác biệt với các tác
giả trước nhưng chúng tôi không gặp trường
hợp TCĐMVT cho 3 nhánh trung gian như
Bhimalli S, Kalpana R và Ogengo JA.
Theo Angelini P, sự hiện diện nhánh trung
gian chỉ là một dạng biến đổi giải phẫu động
mạch vành chứ chưa phải là một dị dạng vì nó
xảy ra với tỷ lệ trên 1% dân số nói chung(1).
Ogeng’o JA cho rằng sự phân chia nhiều
nhánh như vậy là một trong những khó khăn
cho các bác sĩ trong thủ thuật can thiệp động
mạch vành(11).
Hình 1. Nhánh trung gian
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 284
Đường kính các nhánh của TCĐMVT
Chúng tôi đo đường kính ngoài của động
mạch mũ, động mạch gian thất trước và các
nhánh trung gian tại vị trí nguyên ủy được kết
quả như sau (bảng 4, bảng 5 và bảng 6)
Đường kính động mạch gian thất trước
Bảng 4. Đường kính động mạch gian thất trước
Tác giả N Trung bình
(mm)
Nhỏ nhất
(mm)
Lớn nhất
(mm)
Bhimalli S
(3) 60 2,25
Fazliogullari Z
(5) 50 3,13±0,64
Nghiên cứu này 125 3,78±0,54 2,81 6,32
Đường kính động mạch mũ
Bảng 5. Đường kính động mạch mũ
Tác giả N Trung bình
(mm)
Nhỏ nhất
(mm)
Lớn nhất
(mm)
Ballesteros LE
(2) 154 2,71±0,51
Fazliogullari Z
(5) 50 2,89±1,08
Ortale JR
(12) 50 3,5±0,9
Nghiên cứu này 125 3,33± 0,67 1,61 5,07
Đường kính động mạch mũ và động mạch
gian thất trước chúng tôi đo được tương đương
với kết quả của Ortale nhưng lớn hơn của
Ballesteros, Bhimalli và Fazliogullari Z. Nghiên
cứu của Fazliogullari Z thực hiện trên xác ướp
formol như của chúng tôi. Ballesteros thì nghiên
cứu trên xác tươi và đo đường kính lòng động
mạch chứ không phải là đường kính ngoài.
Đường kính các nhánh trung gian
Bảng 6. Đường kính nhánh trung gian
Tác giả N Trung bình
(mm)
Nhỏ nhất
(mm)
Lớn nhất
(mm)
Fazliogullari Z
(5) 50 2,00±0,67mm
Nghiên cứu này 125 1,82± 0,59 0,78 3,46
Kết quả của chúng tôi không khác biệt với
kết quả của Fazliogullari Z. So với hai nhánh
chính là động mạch mũ và động mạch gian thất
trước trong cùng nghiên cứu này, nhánh trung
gian có đường kính nhỏ hơn.
Điểm tận của động mạch gian thất trước
Động mạch gian thất trước đi trong rãnh
gian thất trước từ nơi xuất phát hướng về phía
đỉnh tim và có thể chấm dứt trước khi đến đỉnh
tim., tại đỉnh tim hoặc vòng ra sau đỉnh tim rồi đi
vào rãnh gian thất sau. Trong nghiên cứu này:
Chỉ có 2 trường hợp (1,6%) động mạch gian
thất trước tận hết trước khi đến đỉnh tim.
27 trường hợp (21,6%) kết thúc tại đỉnh tim.
96 trường hợp (76,8%) động mạch gian thất
trước vòng ra sau đỉnh tim và đi vào rãnh gian
thất sau. Tỷ lệ này không khác với nghiên cứu
của Kalpana R, 80% trường hợp động mạch gian
thất trước đi vào rãnh gan thất sau(10).
Hình 2. Tìm nhìn từ mặt dưới: động mạch gian thất
trước vòng ra sau đỉnh tỉm đi ngược vào rãnh gian
thất sau
Điểm tận của động mạch mũ:
Động mạch mũ đi trong rãnh vành trái
hướng đến bờ trái tim và có thể vòng xuống
dưới mặt hoành của tâm thất trái, đến giao điểm
của rãnh vành và rãnh gian thất sau (giao điểm
này chúng tôi gọi là ‘tâm điểm”). Điểm tận của
động mạch mũ rất thay đổi và liên quan đến sự
tưới máu của cơ tim. Nếu động mạch mũ đi
xuống đến mặt hoành tim sẽ cho các nhánh cung
cấp máu cho mặt hoành thất trái, thậm chí cho cả
nhánh gian thất sau cung cấp máu cho phần sau
vách gian thất. Ngược lại, nếu động mạch mũ
ngắn, chỉ đến bờ trái tim, thậm chí tận hết trước
khi đến bờ trái tim thì mặt hoành thất trái sẽ do
động mạch vành phải cấp máu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Giải Phẫu Học 285
Kết quả thống kê về vị trí điểm tận của động
mạch mũ trong nghiên cứu này và của một số
tác giả khác đươc thể hiện trong bảng 7.
Bảng 7. Vị trí điểm tận của động mạch mũ
Tác giả N
Điểm tận hết của động mạch mũ
Trước khi
đến bờ trái Tại bờ trái
Giữa bờ trái và
“tâm điểm” Tại “tâm điểm”
Qua khỏi “tâm
điểm”
James TN
(9) 106 1% 20% 60% 9% 9%
Kalpana R
(10) 100 3% 13% 67% 6% 11%
Ballesteros LE
(2) 154 25,3% 58,4% 9,1% 7,2%
Das H
(4) 70 0 17,4% 52,86% 18,57% 11,43%
Nghiên cứu này 125 4,13% 46,28% 45,46% 4,13% 0
Vị trí tận hết của động mạch mũ thường gặp
nhất là bờ trái tim hoặc giữa bờ trái và tâm điểm.
So với các tác giả nước ngoài, động mạch mũ
trong nghiên cứu này kết thúc sớm hơn và
không có trường hợp nào vượt qua khỏi tâm
điểm.
Hình 3. Tim nhìn từ bên trái, ĐM mũ tận hết sau bờ trái tim sau khi cho nhánh bờ trái.
KẾT LUẬN
TCĐMVT có độ dài rất khác nhau giữa các cá
thể. Ngoài động mạch mũ và động mạch gian
thất trước, TCĐMVT có thể cho một hoặc hai
nhánh khác có tên là nhánh trung gian. Điều này
có thể gây ra một số khó khăn trong thủ thuật
can thiệp động mạch vành cũng như gây nhầm
lẫn trong chẩn đoán hình ảnh. Động mạch mũ
thường tận hết ở bờ trái tim hoặc sau khi đi qua
bờ trái tim một đoạn ngắn. Động mạch gian thất
trước không chỉ đi trong rãnh gian thất trước mà
thường đi vòng xuống mặt hoành rồi đi vào rãnh
gian thất sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Angelini P (2007). Coronary artery anomalies: An entity in
search of an identity. Circulation; 115(10): 1296-1305.
2. Ballesteros L.E., Ramirez M.L. (2008). Morphological
expression of the left coronary artery: a direct anatomy
study. Florida Morphol; 67(2): 135-142
3. Bhimalli S, Dixi D, Siddibhavi M, Shirol VS (2011). A study
of variations in coronary arterial system in cadaveric human
hearts. World Journal of Science and Technology, 1(5): 31-35.
4. Das H, Das G, Das DC, Talukdar K (2010). A study of
coronary dominance in the population of ASSAM. J Anat So
India.; 59(2) 187-191.
5. Fazliogullari Z, Karabulut AK, Ulver Dugan N, Uysal II
(2010). Corpnary artery variations and median artery in
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 286
Turkish cadaver hearts. Singapore Med J. 2010; 51 (10): 775 –
780.
6. Filipoiu F.M. (2014). Hearts vessels. In: Atlas of Heart
Anatomy and Development. Springer-Verlag. London, pp:
203-213
7. Gazetopoulos N, Ioannidis PJ, Karidys C, Lolas C., Kiriakou
K, Tountas C (1976). Short left coronary artery trunk as a risk
factor in the development of coronary atherosclerosis. Bri
Heart J.; 38(11): 1160 – 1165.
8. Gazetopoulos N, Ioanidis PJ., Marselos A, Kelekis D, Lolas
C, Avgoustakis D. Tountas C. (1976). Length of main left
coronary artery in relations to athrosclerosis of its banchs, A
coronary arteriographic study. Bri Heart J., 38(5): 180 – 185.
9. James TN. (1961). Anatomy of the coronary arteries, 1st
edition, Harper & Row, Publishers, Inc., Hagerstown,
Maryland, pp 3-202.
10. Kalpana R. (2003). A Study on Principal Branches of
Coronary Arteries in Humans. Journal of Anatomy of the
Anatomical Society of India, 52 (2): 137 – 140.
11. Ogeng’o JA, Misiani MK, Olabu BO, Waisiko BM, Murunga
A (2014). Variant termination of the left coronary artery:
pentafurcation is not uncommon. Euro. J. Ana. 18(2): 98-101.
12. Ortale JR, Filho JM, Paccola AMF, Leal JGPG, Scaranari CA
(2005). Anatomy of the lateral, diagonal and anterosuperior
arterial branches of the left ventricle of the human heart.
Brazil Journal Cardiovascular Surgery; 20(2): 149-158.
13. Roy S, Gupta A, Nanra BK, Verma M, Saha R (2014).
Morphometric study of left coronary artery trunk in adult
human cadavers: A study on the Eastern region population.
J Clin Diagn Res; 8(2):7-9.
14. Saltissi S, Web Peploe MM, Coltart DJ (1979). Effect of
variation in coronary artery anatomy on distribution of
stenosic lesion. Br Heart J, 42(2): 186 – 191.
Ngày nhận bài báo: 24/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 27/10/2014
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_su_phan_nhanh_cua_than_chung_dong_mach_vanh_trai.pdf