Trong chu trình tăng trưởng và phát triển của
thực vật, quá trình quang hợp tạo các sản phẩm
đồng hóa. Một phần tham gia vào cấu trúc tăng
trưởng thực vật, một phần được tích lũy trong các
cơ quan dự trữ như trái, hột, thân hoặc củ (do tự
tích lũy chất đồng hóa) (Nguyễn Du Sanh, 1998).
Những cấu trúc củ đặc biệt này mang một hoặc
hai chức năng sinh học. Trước hết, chúng là cơ
quan dự trữ carbon và nitrogen, cung cấp dinh
dưỡng cho cây khi cần thiết. Chức năng thứ hai,
chúng đóng vai trò là cơ quan sinh sản. Với vai
trò là cơ quan sinh sản, củ sẽ tích trữ đầy đủ
lượng sinh dưỡng cần thiết cho nhu cầu sống độc
lập của cây sau này.
Vai trò của đường đối với sự hình thành củ
đã được nghiên cứu trên nhiều đối tượng cây
trồng. Kết quả cho thấy, đường là nguồn carbon
cần thiết trong môi trường nuôi cấy và đồng thời
là nguồn nguyên liệu quan trọng trong việc tích
lũy tinh bột dẫn đến sự tạo củ và sự phình to của
củ in vitro. Đường sucrose được hấp thụ nhanh
hơn và tập trung ở rễ nhiều hơn, thích hợp cho sự
tạo củ hơn các loại đường khác. Sucrose có vai
trò điều chỉnh lượng GA nội sinh trong cây thân
củ (Xu, 1998). Hàm lượng đường cao có ảnh
hưởng tích cực đến sự hình thành và sinh trưởng
phát triển của củ (Staikidou, 2005). Hàm lượng
thích hợp cho phản ứng tạo củ in vitro đối với
nhiều loại cây trồng thường dao động từ 9 - 12%.
Tuy nhiên, đối với Địa hoàng hàm lượng sucrose
thích hợp để tạo củ in vitro trong nghiên cứu này
được xác định là 70 g/L. Đây cũng là nồng độ
đường tối ưu theo kết quả nghiên cứu của Xue và
đồng tác giả (2012) đối với Địa hoàng.
Kết quả nghiên cứu đã thiết lập thành công quy
trình tạo củ Địa hoàng in vitro. Cây có bộ rễ củ có
tỷ lệ sống 100% khi đưa ra vườn ươm và cây sinh
trưởng và phát triển tốt ngoài đồng ruộng.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tạo củ in vitro cây địa hoàng (rehmannia glutinosa (gaertn) libosch), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 507-516, 2020
507
NGHIÊN CỨU TẠO CỦ IN VITRO CÂY ĐỊA HOÀNG (REHMANNIA GLUTINOSA
(GAERTN.) LIBOSCH.)
Vũ Hoài Sâm1,, Nguyễn Thị Xuyên1, Nguyễn Thị Hương1, Dương Thị Ngọc Anh1, Nguyễn
Minh Tuyên1, Nguyễn Duy Phương2, Phan Thúy Hiền1
1Viện Dược liệu, Bộ Y tế
2Viện Di truyền Nông nghiệp, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
Người chịu trách nhiệm liên lạc. E-mail: samthavn@yahoo.com
Ngày nhận bài: 23.10.2019
Ngày nhận đăng: 10.02.2020
TÓM TẮT
Địa hoàng là một loại thảo dược thuộc họ Hoa Mõm chó, chứa các dược chất chính là catalpol và
verbacoside trong rễ củ. Trong y học cổ truyền, rễ củ Địa hoàng được sử dụng dưới dạng tươi, khô
hoặc được chế biến thành thục địa. Chúng có tác dụng toàn diện đối với hệ thống máu, hệ thống nội
tiết, lợi tiểu, chống viêm, tăng cường miễn dịch, chống ung thư và chữa tiểu đường... Địa hoàng có
phân bố tự nhiên ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Cây được nhập nội vào Việt Nam từ năm
1958, thích hợp trồng ở các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Ở Việt Nam, cây có ra hoa nhưng
hầu như không kết hạt, nhân giống chủ yếu bằng lát cắt củ. Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng của
một số chất điều hòa sinh trưởng đến khả năng tạo củ trong điều kiện in vitro trên nền khoáng 1/4 MS
có bổ sung 50 g/L đường sucrose, phục vụ công tác nhân nhanh giống Địa hoàng chất lượng cao. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, auxin (IBA và NAA) không có tác dụng tạo củ in vitro. Các đơn chất BAP
và PP333 cho hiệu quả tạo củ kém. Tỷ lệ tạo củ đạt cao nhất (83,33%) trên môi trường có bổ sung tổ
hợp BAP (1,0 mg/L) và PP333 (0,3 mg/L) và số củ/cây là 5,58. Nồng độ đường sucrose tối ưu để tăng
đường kính và trọng lượng củ là 70g/L. 100% cây có bộ rễ củ sống sót ngoài vườn ươm, sinh trưởng
và phát triển tốt trên đồng ruộng.
Từ khóa: auxin, Địa hoàng, in vitro, PP333, Rehmannia glutinosa, tạo củ
ĐẶT VẤN ĐỀ
Địa hoàng (Rehmannia glutinosa (Gaertn.)
Libosch.) thuộc họ Hoa Mõm chó
(Scrophulariaceae) là cây thuốc quý được sử dụng
phổ biến trong y học cổ truyền. Cây được nhập nội
vào Việt Nam năm 1958 và được trồng phổ biến ở
một số tỉnh thuộc đồng bằng và trung du Bắc bộ
nhiều năm sau đó (Đỗ Huy Bích, 2004). Rễ củ Địa
hoàng là bộ phận được sử dụng làm thuốc dưới
dạng tươi, khô hoặc chế thành thục địa (cửu chưng,
cửu sái). Tác dụng chủ yếu của Địa hoàng là được
dùng làm thuốc bổ, tăng cường sinh lực, chống
viêm, chống thiếu máu và chữa bệnh tiểu đường...
(Zhang, 2008). Diện tích trồng Địa hoàng ngày
càng được mở rộng.
Nhân giống vô tính bằng cách cắt củ là biện
pháp nhân giống phổ biến đối với Địa hoàng. Vì
cây nhân vô tính nhanh được thu hoạch và hơn
nữa ở Việt Nam cây Địa hoàng có ra hoa nhưng
không kết hạt (Viện Dược liệu, 2004). Củ Địa
hoàng không có thời gian ngủ nghỉ, thường nảy
mầm ngay cả khi đang trồng trên đồng ruộng nếu
gặp ẩm (Phạm Văn Hiển, 1994). Ngoài ra, do
hàm lượng đường trong củ tương đối cao nên
việc bảo quản trong kho lạnh hoặc trong cát ẩm
dễ gây thối hỏng. Người dân thường phải trồng
thêm 1 vụ xuân hè để giữ giống. Tuy nhiên, vụ
này năng suất kém hoặc thậm chí là mất trắng
nếu thời tiết không thuận lợi (Phạm Văn Hiển,
1994). Gần đây, nhiều công trình trong nước và
Vũ Hoài Sâm et al.
508
quốc tế về nhân giống Địa hoàng bằng phương
pháp nuôi cấy mô đã được công bố. Hầu hết các
nghiên cứu đều tiến hành tái sinh in vitro qua
callus từ lá và từ rễ (Park, 2009). Hình thức tái
sinh này dễ gây ra các biến dị di truyền. Vi nhân
giống từ ngọn chồi cũng đã được nghiên cứu bởi
Ewelina với kết quả là 8,2 chồi/mẫu sau 4 tuần
nuôi cấy (Eweilia, 2015). Kết quả nghiên cứu của
Vũ Hoài Sâm và đồng tác giả (2018) đã xác định
được môi trường MS + 1,0 mg/L BAP + 50 g/L
sucrose là tối ưu để nhân nhanh Địa hoàng bằng
phương pháp nuôi cấy mô cho hệ số nhân nhanh
đạt 31,53 lần từ một lát cắt ban đầu sau 2 tháng
nuôi cấy (Vũ Hoài Sâm, 2018).
Hiệu quả của quá trình nhân giống in vitro ở
Việt Nam đối với hầu hết các đối tượng cây trồng
đều chưa được đánh giá cao là do tỷ lệ sống của
cây khi đưa ra ngoài đồng ruộng thường thấp.
Tạo củ in vitro đối với những cây thân rễ là kỹ
thuật khá phổ biến. Mục đích tạo củ nhằm nâng
cao khả năng sống sót của cây khi đưa ra điều
kiện ex vitro, vì cây đã được tích lũy chất dinh
dưỡng trong củ tạo được nên khả năng thích nghi
với điều kiện bên ngoài thuận lợi hơn. Địa hoàng
thuộc dạng cây có rễ củ, do vậy, mục đích thực
hiện nghiên cứu nhân giống Địa hoàng thông qua
tạo củ in vitro một mặt nhằm thăm dò khả năng
cung ứng giống Địa hoàng dưới dạng củ nhỏ
(tương tự như đối với khoai tây bi), mặt khác
nhằm nâng cao tỷ lệ sống của cây khi đưa ra đồng
ruộng.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Vật liệu
Ngọn chồi và đốt thân, có chiều dài 0,5 - 1,0
cm chứa ít nhất một chồi ngủ của giống Địa
hoàng tuyển chọn (Rehmannia glutinosa
(Gaernt) Libosch.) (Vũ Hoài Sâm, 2018).
Thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của các
chất điều hòa sinh trưởng
Mẫu cấy được nuôi trên nền môi trường
1/4MS + 50 g/L đường sucrose có bổ sung auxin
(IBA hoặc NAA) ở nồng độ 0 mg/L, 0,5 mg/L,
1,0 mg/L; PP333 hoặc BAP ở các nồng độ 0 mg/L,
0,5 mg/L, 1 mg/L, 1,5 mg/L, 2 mg/L và tổ hợp
BAP với auxin/ PP333, tùy từng thí nghiệm để xác
định được nồng độ và loại chất điều hòa sinh
trưởng thực vật thích hợp nhất đến khả năng tạo
củ in vitro đối với Địa hoàng.
Thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của nồng
độ đường sucrose
Mẫu được cấy trên nền môi trường chứa 1/4
MS + chất điều hòa sinh trưởng tốt nhất từ kết
quả thí nghiệm trên với các mức nồng độ đường
là 50 g/L, 70 g/L và 90 g/L.
Đánh giá hiệu quả của việc tạo củ in vitro
Hiệu quả tạo củ được đánh giá thông qua các
chỉ tiêu đường kính củ (mm), khối lượng củ
(mg), tỷ lệ nảy mầm của củ (%) và tỷ lệ sống của
cây có rễ củ (%) ở vườn ươm.
Môi trường nuôi cấy được điều chỉnh pH đến
5,8, hấp trong bình tam giác 250 mL, có đậy nút
bông, ở 1210C trong 20 phút. Phòng nuôi được
duy trì ở điều kiện nhiệt độ trung bình là 25 ±
20C, thời gian chiếu sáng 16h/ngày bằng đèn
huỳnh quang với cường độ ánh sáng khoảng
2000 lux, độ ẩm trung bình từ 75 - 80%.
Xử lý số liệu
Số liệu được phân tích sau 60 ngày nuôi cấy.
Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần, mỗi lần 30
mẫu. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS và được
trình bày trong bảng kết quả dưới dạng (Mean ±
SD và Duncan’s Test).
KẾT QUẢ
Ảnh hưởng của các chất điều hòa sinh trưởng
tới khả năng tạo củ Địa hoàng in vitro
Ảnh hưởng của auxin (IBA, NAA)
Auxin có vai trò quan trọng trong việc phát
sinh hình thái rễ của cây in vitro. Củ Địa hoàng
là một loại rễ bên đã biến đổi thành, vì thế chúng
tôi nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ IBA và
NAA tới khả năng hình thành củ nhỏ trên nền
môi trường. Kết quả theo dõi sau 8 tuần được thể
hiện ở Bảng 1.
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 507-516, 2020
509
Bảng 1. Ảnh hưởng của nồng độ IBA và NAA đến tạo củ nhỏ in vitro.
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự khác nhau có ý nghĩa (α = 0,05)
Kết quả cho thấy, rễ ở công thức đối chứng
(ĐC) dài nhưng mảnh và yếu. Cả IBA và NAA ở
các nồng độ 0,5 mg/L và 1,0 mg/L không hiệu
quả trong việc tạo củ in vitro cây Địa hoàng. Sau
8 tuần nuôi cấy, ở tất cả các công thức trong thí
nghiệm 100% mẫu cấy đều phát sinh rễ. Tuy
nhiên, rễ hình thành đều là rễ chùm và không
công thức nào có sự hình thành củ (Hình 1).
Ảnh hưởng của PP333
Do cây Địa hoàng nuôi trong môi trường in
vitro phát sinh hình thái phân đốt, khác so với
bên ngoài (lá mọc xít nhau quanh gốc), nên
chúng tôi sử dụng PP333 để ức chế sự phát triển
của thân, lá và rễ cây trong ống nghiệm. Để tiến
hành thí nghiệm này, chúng tôi thực hiện 5 công
thức với các nồng độ khác nhau trong khoảng 0 -
2 mg/L. Kết quả sau 8 tuần nuôi cấy được thể
hiện ở Bảng 2.
Kết quả cho thấy, không giống kết quả thử
nghiệm với auxin, tỷ lệ tạo rễ và trạng thái rễ khi
được nuôi cấy trên các môi trường có bổ sung
PP333 có sự khác biệt rõ rệt. Trong thí nghiệm
này, lóng thân có xu hướng mập chắc và ngắn lại.
Rễ tạo thành ở các công thức PP1-PP3 có dạng
rễ củ có màu vàng, rễ chắc khỏe, chóp rễ tròn,
đường kính lớn (Hình 2b, 2c và 2d). Nhưng tỷ lệ
tạo rễ dạng này có xu hướng giảm khi nồng độ
PP333 tăng từ 0,5 mg/L đến 1,5 mg/L. Kết quả
Bảng 2 cho thấy, ở công thức có bổ sung 0,5
mg/L PP333 tỷ lệ tạo rễ củ đạt cao nhất (73,33%).
Ở nồng độ PP333 cao hơn (công thức PP4), rễ hình
thành tuy mập chắc hơn so với đối chứng, nhưng
lại có dạng sợi dài, chóp nhọn, màu trắng như
dạng rễ thông thường, không phải dạng củ (Hình
2e).
Như vậy, công thức PP1 chứa 1/4 MS +
50g/L sucrose + 0,5 mg/L PP333 là công thức tốt
nhất trong thí nghiệm này, đem lại tỷ lệ tạo củ là
73,77%, chiều dài củ là 1,05 cm.
Bảng 2. Ảnh hưởng của nồng độ PP333 tới khả năng hình thành củ nhỏ.
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự khác nhau có ý nghĩa (α = 0,05).
Công
thức
NAA
(mg/L)
IBA
(mg/L)
Tỷ lệ tạo
củ (%)
Tỷ lệ tạo rễ
(%)
Chiều dài rễ/củ
(cm)
Trạng thái rễ/củ
ĐC 0 0 0 100 2,34 ± 0,12d Rễ chùm, rễ mảnh
AX1 0,5 - 0 100 3,62 ± 0,11a Rễ chùm, không rõ số rễ
AX2 1 - 0 100 2,86 ± 0,17c Rễ chùm, không rõ số rễ
AX3 - 0,5 0 100 3,26 ± 0,17b Rễ chùm, không rõ số rễ
AX4 - 1 0 100 2,65 ± 0,08c Rễ chùm, không rõ số rễ
STT PP333
(mg/L)
Tỷ lệ tạo
rễ (%)
Tỷ lệ tạo
củ (%)
Chiều dài rễ/củ
(cm)
Trạng thái rễ/củ
ĐC 0 100 - 2,34 ± 0,12b Rễ mảnh, dài, dạng chùm
PP1 0,5 26,67 73,33 1,05±0,07c Rễ củ, dạng chùm
PP2 1,0 46,67 53,33 0,97±0,98c Rễ củ, dạng chùm
PP3 1,5 70,00 30,00 0,46±0,04d Rễ củ, dạng chùm
PP4 2,0 100 - 2,72±0,09a Rễ chùm, sợi rễ mập chắc
Vũ Hoài Sâm et al.
510
Ảnh hưởng của BAP
BAP là một loại cytokinin có khả năng kích
thích chồi rất mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
nhiều kết quả nghiên cứu đã chứng minh với
nồng độ thích hợp BAP dùng đơn lẻ hay kết hợp
có tác động tích cực đến quá trình hình thành củ
trong điều kiện in vitro. Do đó, chúng tôi tiến
hành thí nghiệm về ảnh hưởng của BAP trên các
dải nồng độ 0 - 2 mg/L. Kết quả nghiên cứu sau
8 tuần được trình bày ở Bảng 3.
Kết quả Bảng 3 cho thấy, mẫu vừa tạo rễ vừa
tạo củ sau 8 tuần nuôi cấy tùy theo nồng độ BAP.
Khi nồng độ BAP là 0 - 0,5 mg/L, mẫu cấy không
tạo củ. Với nồng độ BAP là 1 mg/L,
23,33% mẫu cấy có xuất hiện củ ở gốc (Hình 3c).
Khi nồng độ BAP tăng lên mức 1,5 mg/L thì tỷ lệ
tạo củ giống như vậy giảm xuống, chỉ còn 6,67%.
Kết quả cho thấy, khi nồng độ BAP bổ sung vào
môi trường nuôi cấy vượt quá ngưỡng 1,0 mg/L,
mẫu cấy không còn xuất hiện rễ sợi. Theo nhận
định của chúng tôi, mẫu cấy Địa hoàng khá nhạy
cảm với mức nồng độ BAP trong môi trường nuôi
cấy. Ở mỗi mức nồng độ, mẫu cấy có sự phát sinh
hình thái khác nhau. Trong thí nghiệm này, nồng
độ BAP từ 1,5 mg/L - 2,0 mg/L, mẫu cấy phát sinh
dạng cụm chồi (Hình 3d, 3e). Như vậy, công thức
tốt nhất trong thí nghiệm này để tạo củ Địa hoàng
in vitro là 1/4 MS + 50 g/L sucrose + 1 mg/L BAP.
Bảng 3. Ảnh hưởng của nồng độ BAP tới khả năng hình thành củ nhỏ.
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự khác nhau có ý nghĩa (α = 0,05)
Ảnh hưởng của tổ hợp BAP + PP333
PP333 và BAP đơn chất có tác động rõ rệt đến
hệ rễ in vitro cây Địa hoàng, tuy nhiên hiệu quả
tạo củ chưa cao. Vì vậy, để xác định môi trường
tối ưu tạo củ nhỏ Địa hoàng in vitro, chúng tôi tiếp
tục bố trí trên môi trường 1/4 MS có bổ sung 1
mg/L BAP, kết hợp với PP333 với các nồng độ thay
đổi trong khoảng 0 - 1 mg/L. Sau 8 tuần theo dõi,
kết quả được thể hiện ở Bảng 4.
Kết quả Bảng 4 cho thấy, các nồng độ PP333
khác nhau thì các chỉ số các chỉ tiêu theo dõi về
khả năng tạo củ nhỏ Địa hoàng in vitro cũng khác
nhau. Tỷ lệ tạo củ tăng dần khi nồng độ PP333
tăng từ 0 - 0,3 mg/L, mức cao nhất đạt 83,33% ở
công thức BP2 (1,0 mg/L BAP + 0,3 mg/L PP333).
Khi nồng độ PP333 cao trên mức 0,3 mg/L, tỷ lệ
tạo củ có xu hướng giảm và ở công
thức BP4 (1 mg/L PP333) bộ rễ của mẫu cấy
không hình thành củ (Hình 4e). Công thức BP2
và BP3 là 2 công thức có hình thái củ tốt nhất
(dạng củ đơn, mập) (Hình 4c, 4d).
Từ kết quả trên đây, chúng tôi kết luận, tổ
hợp BAP (1,0 mg/L) và PP333 (0,3 mg/L) là tổ
hợp chất điều hòa sinh trưởng tốt nhất để tạo củ
in vitro cây Địa hoàng do thu được tỷ lệ tạo củ
cao nhất (83,33%).
Ảnh hưởng của nồng độ sucrose tới khả năng
tạo củ Địa hoàng in vitro
Để nâng cao chất lượng củ tạo thành, thí
nghiệm nghiên cứu hàm lượng sucrose với các
nồng độ đường 50 g/L, 70 g/L, 90 g/L, 120 g/L
được thực hiện. Sau 8 tuần nuôi cấy, kết quả
được thể hiện ở Bảng 5.
STT Nồng độ
BAP (mg/l)
Tỷ lệ tạo
củ (%)
Tỷ lệ tạo
rễ (%)
Chiều dài
rễ/củ (cm)
Số củ/cây
(củ)
Trạng thái rễ/củ
ĐC 0 - 100 2,34 ± 0,12a - Rễ mảnh, dài
BA1 0,5 - 46,67 2,05 ± 0,10b - Rễ chùm, chắc
BA2 1 23,33 - 0,97 ± 0,03c 2,02 ± 0,03a Rễ dạng củ, nhỏ
BA3 1,5 6,67 - 0,53 ± 0,08d 1,13 ± 0,13b Rễ dạng củ, nhỏ
BA4 2 - - - - Không tạo rễ
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 507-516, 2020
511
Hình 1. Rễ Địa hoàng in vitro trên các công thức auxin. Trên công thức đối chứng ĐC (a); Công thức AX1(b);
Công thức AX2(c); Công thức AX3 (d); Công thức AX4(e)
Hình 2. Ảnh hưởng của nồng độ PP333 tới khả năng hình thành củ nhỏ. Trên công thức đối chứng ĐC (a); Công
thức PP1 (b); Công thức PP2 (c); Công thức PP3 (d); Công thức PP4 (e).
Hình 3. Ảnh hưởng của nồng độ BAP tới khả năng hình thành củ nhỏ. Trên công thức đối chứng ĐC (a); Công
thức BA1 (b); Công thức BA2 (c); Công thức BA3 (d) Công thức BA4 (e).
Hình 4. Ảnh hưởng của tổ hợp BAP và PP33 đến khả năng tạo củ nhỏ. Trên công thức đối chứng ĐC (a); Công
thức BP1 (b); Công thức BP2 (b); Công thức BP3 (c); Công thức BP4 (d); Công thức BP5 (e).
Vũ Hoài Sâm et al.
512
Bảng 4. Ảnh hưởng của tổ hợp BAP và PP333 đến khả năng tạo củ nhỏ.
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự khác nhau có ý nghĩa (α = 0,05)
Bảng 5. Ảnh hưởng của hàm lượng sucrose đến tạo củ Địa hoàng in vitro.
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cùng một cột thể hiện sự khác nhau có ý nghĩa (α = 0,05).
Kết quả Bảng 5 cho thấy hàm lượng
sucrose trong môi trường nuôi cấy không
những có tác động đến tỷ lệ tạo củ Địa hoàng
in vitro mà nó còn tác động mạnh đến chỉ số số
củ/cây và chất lượng củ tạo thành. Số củ trên
cây tỷ lệ nghịch với nồng độ đường sucrose
trong môi trường nuôi cấy, hàm lượng đường
sucrose trong môi trường càng cao thì số
củ/cây càng giảm. Số củ/cây cao nhất là 5,52
củ thu được ở công thức SR1 chứa 50 g/L
đường sucrose và giảm mạnh chỉ còn 2,76 củ ở
công thức SR4 chứa 120 g/L sucrose. Tỷ lệ
hình thành củ, đường kính củ và khối lượng củ
ở công thức SR2 (70 g/L sucrose) tỏ ra vượt
trội hơn so với các công thức khác trong thí
nghiệm, với các chỉ số tương ứng 93,33%, 3,78
mm và 0,225 mg củ/cây. Tỷ lệ tạo củ ở các
nồng độ đường sucrose cao hơn (90 g/L và 120
g/L) có xu hướng giảm. Ở 2 mức hàm lượng
này, chiều dài củ có xu hướng dài ra và đường
kính củ thì nhỏ lại (Hình 6c, 6d). Như vậy, hàm
lượng sucrose tốt nhất để tạo củ in vitro Địa
hoàng là 70 g/L. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Xue (2012), trong đó tác giả đã
nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ đường đến
sự tạo thành rễ củ in vitro và đưa ra kết luận về
nồng độ đường tối ưu là 7%.
Đánh giá hiệu qua tạo củ in vitro ngoài vườn
ươm
Theo dõi khả năng sống sót của 2 loại sản
phẩm từ quá trình tạo củ in vitro là cây con có bộ
rễ củ và củ nhỏ tạo thành.
Đánh giá tỷ lệ sống của củ tạo thành trong in
vitro trên giá thể cát: Tribat (3:1, v/v) cho thấy tỷ
lệ nẩy mầm còn rất thấp và thời gian lâu (5 tuần
sau ươm mới bật mầm) (Hình 6).
STT BAP
(mg/L)
PP333
(mg/L)
Tỷ lệ tạo
củ (%)
Chiều dài
rễ/củ (cm)
Số củ/cây
(củ)
Trạng thái rễ/củ
ĐC 1 0 23,33 0,72 ± 0,17c 2,52 ± 0,28c Dạng củ, nhỏ
BP1 1 0,1 33,33 1,02 ± 0,02b 2,39 ± 0,14c Dạng củ, nhỏ
BP2 1 0,3 83,33 1,21 ± 0,14b 5,58 ± 0,33b Dạng củ, mập
BP3 1 0,5 46,67 1,27 ± 0,19b 7,52 ± 0,25a Dạng củ, mập
BP4 1 1 - 2,22 ± 0,19a - Dạng rễ chùm, sợi rễ
mập
STT Hàm
lượng
sucrose
(g/L)
Tỷ lệ
tạo củ
(%)
Chiều dài
rễ/củ
(cm)
Số củ/cây
(củ)
Đường kính
củ
(mm)
Khối lượng
củ/cây
(g)
Trạng thái
rễ/củ
SR1 50 83,33 1,29 ± 0,09a 5,52 ± 0,26a 3,18 ± 0,21b 0,172 ± 0,01b Củ TB
SR2 70 93,33 1,25 ± 0,06a 4,94 ± 0,17b 3,78 ± 0,18a 0,225 ± 0,01a Củ mập, chắc
SR3 90 66,67 0,87 ± 0,18b 4,02 ± 0,11c 2,89 ± 0,13c 0,139 ± 0,02c Củ nhỏ, không
đồng đều
SR4 120 26,67 0,54 ± 0,05c 2,76 ± 0,10d 2,14 ± 0,02d 0,079 ± 0,00d Củ nhỏ, nhiều
rễ
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 507-516, 2020
513
Hình 5. Ảnh hưởng của nồng độ đường đến khả năng hình thành củ nhỏ. Cây và củ trên công thức SR1 (a);
Cây và củ trên công thức SR2 (b); Cây và củ trên công thức SR3 (c); Cây và củ trên công thức SR4 (d).
Hình 6. Củ Địa hoàng in vitro ngoài vườn ươm.
Hình 7. Cây Địa hoàng có bộ rễ dạng củ ngoài vườn ươm. A: Cây mới giâm; B, C: Sau 2 tháng giâm; D: Phát
sinh củ sau 2 tháng trong vườn ươm.
Vũ Hoài Sâm et al.
514
Tuy vậy, theo đánh giá của chúng tôi, tỷ lệ
sống ngoài vườn ươm của cây con có bộ rễ dạng
củ tăng vượt trội so với cây con in vitro có bộ rễ
thông thường. Cây đưa ra ngoài có bộ rễ dạng củ
không cần chăm sóc tỉ mỉ, cầu kì mà vẫn có tỷ lệ
sống đạt xấp xỉ 100%, cây sinh trưởng và phát
triển tốt, bộ rễ củ phát triển thành củ sau 2 tháng
ở vườn ươm (Hình 7).
THẢO LUẬN
Trong sự phát triển và tăng trưởng của thực
vật, nitrogen có vai trò chung là nguyên liệu để
tổng hợp nên các amino acid, nucleotide,
hormone và coenzyme. Tuy nhiên, trong sự hình
thành và phát triển củ, nitrogen lại có tác động
như một chất ức chế quá trình tạo củ và tăng
trưởng củ. Ở giai đoạn tạo củ, nếu nitrogen hiện
diện ở hàm lượng cao sẽ làm tăng nồng độ GA
nội sinh trong thực vật vì GA ức chế quá trình tạo
củ (Xue, 2002). Hơn nữa, khi nitrogen hiện diện
ở nồng độ cao sẽ tạo thành nhiều NH3 trong lá,
từ đó tổng hợp nên các amino acid là những hợp
chất rất cần cho sự tăng trưởng của các cơ quan
sinh dưỡng hơn là tạo củ (Hoàng Xuân Chiến,
2011). Nồng độ các chất khoáng trong môi
trường MS cũng đóng vai trò quan trọng đến sinh
trưởng của cây trong điều kiện in vitro, cũng như
quá trình sinh tổng hợp và tích lũy các chất
chuyển hóa do nó tác động đến sự thay đổi cường
độ ion và áp suất thẩm thấu của môi trường. Vì
vậy, môi trường giảm hàm lượng khoáng luôn tỏ
ra thích hợp ở giai đoạn tạo rễ hoặc tạo củ đối với
nhiều loại cây trồng. Từ các kết quả nghiên cứu
trước đây, chúng tôi tiến hành tạo củ trên nền môi
trường môi trường 1/4 MS (Vũ Hoài Sâm, 2018).
Sau giai đoạn cảm ứng củ, cơ quan tiền tạo
củ thực vật bắt đầu phân chia và gia tăng kích
thước tế bào đồng thời tích trữ chất dự trữ. Lúc
này, thông thường auxin có vai trò rất quan
trọng trong việc kích thích sự phân chia và tăng
rộng của các tế bào vùng tượng tầng, tạo không
gian tích trữ chất dự trữ. Đồng thời, auxin còn
giúp cho tế bào tập trung chất dinh dưỡng, thu
hút chất dinh dưỡng và gia tăng áp suất thẩm
thấu trong tế bào.
Trong nghiên cứu này, tác động của auxin
(NAA và IBA) ở các nồng độ thí nghiệm đã
không theo quy luật trên, không có sự phát sinh
hình thái dạng rễ củ đối với Địa hoàng. Nhiều
kết quả nghiên cứu tạo củ in vitro trước đây cho
thấy cytokinin có hoạt tính kích thích tạo củ
mạnh hơn auxin và có vai trò quan trọng trong
tạo củ ở các loài thực vật có củ (Hoàng Xuân
Chiến, 2011). Điều này được giải thích là do
cytokinin kích thích tổng hợp enzyme tổng hợp
tinh bột (starch synthase) hay UDPG-
udophosphoglyco, đồng thời ức chế hoạt tính của
enzyme phân giải tinh bột.
PP333 (Paclobutrazole) là chất điều hòa sinh
trưởng có tác dụng hạn chế tăng trưởng mầm lá,
đẩy nhanh quá trình hình thành và phân hóa mầm
hoa, là một chất đối kháng với gibberellin, vì vậy
có tác dụng ức chế chiều cao của cây. Nhiều
nghiên cứu đã chứng minh khi bổ sung
paclobutrazol vào môi trường nuôi cấy, có thể có
ảnh hưởng đến tác động của các phytohormone
khác như ABA, ethylene, cytokinin và auxin.
PP333 cũng đã được chứng minh là có tác dụng
tạo củ in vitro ở nhiều loại cây trồng. Theo
Simko, nồng độ PP333 từ 0,01 -1,0 mg/L là tối ưu
để tạo củ khoai tây in vitro (Simko, 1994); PP333
cũng là nhân tố chính và quan trọng (chỉ sau
đường sucrose) tác động đến sự tạo củ gừng
trong điều kiện in vitro theo công bố của Xue và
đồng tác giả (2007). Môi trường có bổ sung
0,1mg/L PP333 cũng được xác định là môi trường
thích hợp để tạo củ Hoài sơn (Li, 2014). Đối với
Địa hoàng, Tao Xue (2012) đã chứng minh vai
trò quan trọng của PP333 trong việc cảm ứng củ
in vitro, nồng độ thích hợp để bổ sung vào môi
trường nuôi cấy là 1,0 mg/L.
Trong nghiên cứu này, nuôi cấy tạo củ trên
môi trường có chứa BAP hay PP333 đơn chất có
hiện tượng phát sinh hình thái dạng rễ củ, nhưng
không rõ ràng hoặc tỷ lệ còn thấp. Nghiên cứu
ảnh hưởng của tổ hợp BAP và PP333, chúng tôi
đã xác định được tổ hợp 1,0 mg/L BAP + 0,3
mg/L PP333 là thích hợp nhất để tạo củ in vitro
cây Địa hoàng.
Trong chu trình tăng trưởng và phát triển của
thực vật, quá trình quang hợp tạo các sản phẩm
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 507-516, 2020
515
đồng hóa. Một phần tham gia vào cấu trúc tăng
trưởng thực vật, một phần được tích lũy trong các
cơ quan dự trữ như trái, hột, thân hoặc củ (do tự
tích lũy chất đồng hóa) (Nguyễn Du Sanh, 1998).
Những cấu trúc củ đặc biệt này mang một hoặc
hai chức năng sinh học. Trước hết, chúng là cơ
quan dự trữ carbon và nitrogen, cung cấp dinh
dưỡng cho cây khi cần thiết. Chức năng thứ hai,
chúng đóng vai trò là cơ quan sinh sản. Với vai
trò là cơ quan sinh sản, củ sẽ tích trữ đầy đủ
lượng sinh dưỡng cần thiết cho nhu cầu sống độc
lập của cây sau này.
Vai trò của đường đối với sự hình thành củ
đã được nghiên cứu trên nhiều đối tượng cây
trồng. Kết quả cho thấy, đường là nguồn carbon
cần thiết trong môi trường nuôi cấy và đồng thời
là nguồn nguyên liệu quan trọng trong việc tích
lũy tinh bột dẫn đến sự tạo củ và sự phình to của
củ in vitro. Đường sucrose được hấp thụ nhanh
hơn và tập trung ở rễ nhiều hơn, thích hợp cho sự
tạo củ hơn các loại đường khác. Sucrose có vai
trò điều chỉnh lượng GA nội sinh trong cây thân
củ (Xu, 1998). Hàm lượng đường cao có ảnh
hưởng tích cực đến sự hình thành và sinh trưởng
phát triển của củ (Staikidou, 2005). Hàm lượng
thích hợp cho phản ứng tạo củ in vitro đối với
nhiều loại cây trồng thường dao động từ 9 - 12%.
Tuy nhiên, đối với Địa hoàng hàm lượng sucrose
thích hợp để tạo củ in vitro trong nghiên cứu này
được xác định là 70 g/L. Đây cũng là nồng độ
đường tối ưu theo kết quả nghiên cứu của Xue và
đồng tác giả (2012) đối với Địa hoàng.
Kết quả nghiên cứu đã thiết lập thành công quy
trình tạo củ Địa hoàng in vitro. Cây có bộ rễ củ có
tỷ lệ sống 100% khi đưa ra vườn ươm và cây sinh
trưởng và phát triển tốt ngoài đồng ruộng.
KẾT LUẬN
Đã xác định được môi trường thích hợp để
tạo củ in vitro cây Địa hoàng là 1/4MS + 1,0
mg/L BAP + 0,3 mg/L PP333. Nồng độ đường
sucrose tối ưu để tạo củ Địa hoàng in vitro là 70
g/L, cho hệ số tạo củ đạt 4,94 lần. Cây được tạo
củ trong in vitro cho tỷ lệ sống đạt 100% khi đưa
ra vườn ươm và sinh trưởng, phát triển tốt.
Lời cảm ơn: Công trình được hoàn thành với sự
hỗ trợ kinh phí của đề tài cơ sở Viện Dược liệu:
“Tuyển chọn và nhân nhanh giống Địa hoàng
cho năng suất và hàm lượng catalpol cao”.
Nhóm thực hiện xin trân trọng cảm ơn Ban Giám
đốc và Hội đồng Khoa học Viện Dược liệu đã phê
duyệt nội dung, cấp kinh phí thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hoàng Xuân Chiến, Ngô Thanh Tài, Nguyễn Bá Trực,
Trần Xuân Tỉnh, Lâm Bích Thảo, Trần Công Luận,
Dương Tấn Nhựt (2011) Nghiên cứu một số yếu tố tạo
củ Sâm ngọc linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.)
in vitro và xác định hàm lượng saponin trong cây tạo
từ củ trồng thử nghiệm ở núi Ngọc Linh. Tạp chí Công
nghệ Sinh học 9(3): 317-331.
Phạm Văn Hiển (1994) Nghiên cứu một số biện pháp
nâng cao chất lượng và số lượng giống cây Địa hoàng
(Rehmannia glutinosa Libosch.) ở dồng bằng và trung
du Bắc bộ. Luận án Phó tiến sĩ, Trường Đại học Nông
nghiệp I.
Viện Dược liệu (2004) Cây thuốc và động vật làm
thuốc ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật.
Tập 1: 774-781.
Vũ Hoài Sâm, Nguyễn Thị Xuyên, Dương Thị Ngọc
Anh, Hoàng Thị Như Nụ, Nguyễn Thị Hương, Lê
Xuân Thảo, Ngô Thị Mai Anh, Phan Thúy Hiền
(2018) Nghiên cứu nhân giống in vitro cây Địa hoàng
(Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Libosch.). Tạp chí
Dược liệu 23(6): 374-380.
Ewelina P, Łukasz K, Przemysław S, Halina W
(2015) Shoot organogenesis, molecular analysis and
secondary metabolite production of micropropagated
Rehmannia glutinosa Libosch. Plant Cell Tis Org
Cult 120(2): 539-549.
Li M., Li J, Liu W, Liu L, Lu J, Niu J, Liu X, Yang Q
(2014) A protocol for in vitro production of
microtubers in Chinese yam (Dioscorea opposita).
Biosci Biotechnol Biochem 78(6): 1005-1009.
Park SU, Kim YK, Lee SY (2009) Improved in vitro
plant regeneration and micro propagation of Rehmannia
glutinosa L. J Med Plant Res 3(1): 031-034.
Xue JP, Huang YQ, Zhang AM (2007) Study on
technique of inducing microrhizome in Zingiber
officinale. Zhongguo Zhong Yao Za Zhi 32(16): 1621-4.
Xue JP, Xue T, Guo L, hu YF, Lu HD, Zhang AM,
Vũ Hoài Sâm et al.
516
Sheng W (2012) Study on optimization of induction
system of test-tube tuberous roots from leaves of
Rehmannia glutinosa. Zhongguo Zhong Yao Za Zhi
37(24): 3812-4.
Xue JP, Shi LY, Zhang AM (2002) Microtuber
induction in vitro from Rehmannia glutinosa.
Zhongguo Zhong Yao Za Zhi 27(11):824-7
Zhang RX, Li MX, Jia ZP (2008) Rehmannia
glutinosa: review of botany, chemistry and
pharmacology. J Ethnopharmacol 117:199–214
STUDY ON TUBERIZATION OF REHMANNIA GLUTINOSA (GAERTN.)
LIBOSCH.
Vu Hoai Sam1, Nguyen Thi Xuyen1, Nguyen Thi Huong1, Nguyen Minh Tuyen1, Nguyen Duy
Phuong2, Phan Thuy Hien1
1National Institute of Medicinal Materials, Ministry of Health
2Agricultural Genetics Institute, Vietnam Academy of Agricultural Sciences
SUMMARY
Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Libosch. is an herbal plant, which belongs to the Srcophulariaceae
family, containing the main active ingredients such as catalpol and verbacoside in its root tubers. In
traditional medicine, R. glutinosa tubers have been used in the fresh or dried tuber root or the prepared
rehamannia root. They not only possess the comprehensive pharmacological actions in the blood
system, endocrine system but also used mainly for anti-tumor treament, immune-enhancement, anti-
diabetes, treament for concretion in the urinary tract, etc. R. glutinosa is naturally distributed in China,
Korea and Japan. This species was introduced into Viet Nam since 1958 and then planted widely in
many the Northern plain and midland provinces. In Vietnam, R. glutinosa produces flowers without
seeds, therefore the plant has been mainly propagated by slicing tubers. In this work, we investigated
the effect of some plant hormones and sucrose contents on the ability to producing microtubers of R.
glutinosa. Experiments were establishmented on the 1/4 MS medium supplemented with 50g/L
sucrose. Results showed that auxin (IBA, NAA) had no effect on the in vitro tuber formation of R.
glutinosa. The efficiency of using the single BAP or PP333 was low. The highest in vitro tuberization
rate of R. glutinosa obtained on the medium supplemented with the combination of BAP (1.0 mg/L)
and PP333 (0.3 mg/L), reached 83.33% and the number of tubers/plant was 5.58. The optimal sucrose
concentration for increasing the diameter and weight of microtubers was 70 g/L. 100% of plants with
tuber-roots survived in the nursery and thrived on the field.
Keywords: Rehmannia glutinosa, auxin, in vitro, microtuber, PP333, tuberization.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_tao_cu_in_vitro_cay_dia_hoang_rehmannia_glutinosa.pdf