Hoạt độ cellulase của các khuẩn lạc tiềm
năng
Để chọn các khuẩn lạc có hoạt tính cellulase cao
nhất, 05 khuẩn lạc tiềm năng có giá trị HC cao
nhất (được liệt kê trong Bảng 2) được định lượng
hoạt độ CMCase và FPase bằng phương pháp
DNS. Hoạt độ CMCase và FPase của chủng thuần
T. koningiopsis VTCC 31435 và 05 khuẩn lạc
tiềm năng sinh ra trong quá trình nuôi cấy được
biểu diễn trên Hình 3.
Các kết quả của chúng tôi cho thấy cả 05 khuẩn
lạc (tạo được trong khoảng liều chiếu từ 700-1500
Gy) đều có hoạt độ CMCase và FPase cao hơn
chủng thuần. Hoạt độ CMCase ở các khuẩn lạc
tiềm năng cao hơn chủng thuần 1,51-2,48 lần.
Trong khi đó, hoạt độ FPase của chúng cao hơn
chủng thuần 1,20-1,87 lần. Khuẩn lạc VTCCI-1
tạo được ở liều chiếu 1500 Gy có hoạt độ CMCase đạt 2,753 U/ mL, cao hơn chủng gốc tới
2,48 lần và hoạt độ FPase đạt 0,365 U/mL, cao
hơn chủng gốc 1,87 lần. Khuẩn lạc VTCC I-3 tạo
được ở liều 700 Gy có hoạt độ CMCase và FPase
tương ứng là 1,987 U/mL và 0,284 U/mL, lần lượt
cao hơn chủng thuần là 1,78 và 1,45 lần. Kết quả
mà chúng tôi thu được tương đồng với với nghiên
cứu của Florencio và cộng sự khi đánh giá mối
tương gian giữa phương pháp bán định lượng
(trên môi trường PDA có bổ sung chỉ thị Congo đỏ) và định lượng hoạt độ cellulase (phương
pháp DNS) của chủng nấm Trichoderma. Nhóm
nghiên cứu cũng khẳng định cả hai phương pháp
này là phù hợp để đánh giá và sàng lọc các chủng
VSV có khả năng sinh cellulase cao [15].
Đánh giá tính bền chủng sau chiếu xạ hai chủng
VTCC-I-1 và VTCC-I-3, nhận thấy hai chủng
này ổn định ít nhất sau 4 thế hệ liên tiếp (4 lần
cấy truyền, mỗi lần cách nhau 01 tháng) (số liệu
không được trình bày trong báo cáo này). Hoạt
độ CMCase của chủng VTCC I-1 và VTCC I-3 ở
thế hệ đầu tiên và thế hệ thứ 4 cũng đã được kiểm
tra và xác nhận bởi Trung tâm Hóa sinh Công
nghiệp và Môi trường, Viện Công nghiệp Thực
phẩm.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tạo dòng Trichoderma sinh Cellulase cao bằng xử lý chiếu xạ Gamma, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
34 Số 65 - Tháng 12/2020
1. MỞ ĐẦU
Cellulose là hợp chất cao phân tử được trùng hợp
(polyme hóa) từ các gốc β-D-glucose bằng cầu
nối β-1-4-glucosid nhờ vào khả năng tự dưỡng
dưới ánh sáng mặt trời; do vậy, cellulose là hợp
chất phổ biến nhất trong tự nhiên [1, 2]. Để quá
trình thủy phân cellulose nhanh chóng và triệt để
phải có sự tham gia của phức hệ đa enzyme (cel-
lulosome) gồm ba loại enzyme cellulase là endo-
glucanase, exoglucanase và β-glucosidase. Cellu-
losome có khả năng tác động hiệp đồng giúp việc
phân cắt đồng thời và triệt để cả vùng vô định
hình và vùng tinh thể của phân tử cellulose trong
khoảng thời gian ngắn hơn so với tác động của
từng loại enzyme riêng rẽ [3, 4, 5].
Trichoderma spp. là loại nấm sợi hiện diện gần
như trong tất cả các loại đất và trong nhiều môi
trường sống khác. Nhờ việc nuôi cấy dễ dàng,
không tốn kém cùng với khả năng tiết enzyme
cellulase hoạt tính cao gấp vài trăm lần so với
vi khuẩn mà các chủng Trichoderma đã thu hút
được sự quan tâm đặc biệt. Cellulase ngoại bào từ
một số chủng Trichoderma thường tồn tại dưới
dạng cellulosome nhờ vậy theo thống kê của Hiệp
hội Hóa Học (Current Opinion Green and Sus-
tainable Chemical) hiện nay, Trichoderma được
nghiên cứu và ứng dụng nhiều nhất trong sản
xuất cellulase công nghiệp [6].
Các tia X, g, tia notron có bước sóng ngắn nên có
khả năng ion hóa và khả năng xuyên sâu cao. Các
tia phóng xạ có thể gây đột biến bằng cách làm
đứt gãy ADN, thay đổi cấu trúc của ADN hoặc
hình thành các hợp chất có hoạt tính không ổn
định làm biến đổi ADN. Bức xạ ion hóa có thể
tạo ra đột biến tại những vị trí xác định nhờ đó
hoạt tính của vi sinh vật được cải thiện. Ngoài ra,
gây đột biến bằng bức xạ có nhiều ưu điểm như
phổ đột biến rộng, tần suất đột biến cao do đó
sẽ làm tăng khả năng chọn được đột biến mong
NGHIÊN CỨU TẠO DÒNG Trichoderma
SINH CELLULASE CAO
BẰNG XỬ LÝ CHIẾU XẠ GAMMA
Cellulase là một trong những enzyme công nghiệp quan trọng, được ứng dụng trong nhiều
lĩnh vực đời sống. Vi sinh vật, đặc biệt là chủng nấm Trichoderma là nguồn cung cấp cellulase chủ
yếu. Nghiên cứu này tạo dòng Trichoderma có khả năng sinh cellulase cao bằng xử lí chiếu xạ. Sau
chiếu xạ, tỷ lệ sống sót của Trichoderma và dải liều tối ưu tạo đột biến sinh cellulase cao được xác
định. Hoạt tính enzyme của chủng thuần và chủng sau chiếu xạ cũng được đánh giá bán định lượng
bằng phương pháp khuếch tán trên đĩa thạch và định lượng bằng phương pháp xác định hoạt độ cel-
lulase dựa vào lượng đường khử được tạo thành (DNS.)
Kết quả cho thấy tỷ lệ đột biến cao nhất đạt 12,33-14,25% ở khoảng liều 700-1500 Gy. Năm
(05) khuẩn lạc sau chiếu xạ sàng lọc được có khả năng sinh cellulase cao vượt trội và ổn định ít nhất
sau 4 thế hệ, hoạt độ - CMCase (thủy phân cơ chất CMC) và hoạt độ enzyme tổng số-FPase (thủy
phân giấy lọc Whatman số 1) của các khuẩn lạc này cao hơn chủng thuần tương ứng là 1,51-2,48 lần
và 1,2-1,87 lần. Như vậy, xử lý chiếu xạ gamma là phương pháp gây đột biến hiệu quả trong nâng cao
khả năng sinh cellulase của chủng Trichoderma.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
35Số 65 - Tháng 12/2020
muốn và rút ngắn thời gian sàng lọc [7].
Để cải thiện khả năng sinh cellulase của Tricho-
derma nhiều nghiên cứu gây đột biến chủng nấm
này bởi bức xạ tia gamma đã được thực hiện.
Trong nghiên cứu của Shahbazi và cộng sự, hoạt
tính cellulase của Trichoderma reesei đã được cải
thiện tăng 1,5-1,99 lần nhờ tác nhân gamma [8].
Trên cơ chất là bã mía, chủng Trichoderma viride
được xử lý chiếu xạ liều 20 krad 2 lần liên tiếp
có hoạt tính sinh cellulase tăng 253,5% thay vì
chỉ tăng 134,5% khi xử lý 1 lần ở cùng liều chiếu
[9]. Tamada và cộng sự khi đánh giá ảnh hưởng
của bức xạ gamma lên chủng Trichoderma reesei
nhận thấy tỷ lệ sống sót của chủng nấm giảm dần
theo sự tăng dần của liều chiếu. Đồng thời, chủng
đột biến thu được ở liều chiếu 2000 Gy có khả
năng sinh cellulase cao hơn chủng thuần 1,8 lần
[7].
Với mục đích sử dụng bức xạ gamma tạo dòng
Trichoderma biến dị có khả năng sinh cellu-
lase cao, nghiên cứu này bước đầu khảo sát ảnh
hưởng của bức xạ gamma tới tỷ lệ sống sót và khả
năng sinh cellulase của chủng nấm Trichoderma
koningiopsis.
2. NỘI DUNG
2.1. Đối tượng và phương pháp
2.1.1. Vật liệu
Chủng Trichoderma koningiopsis VTCC 31435
có khả năng sinh tổng hợp cellulase ngoại bào cao
được cung cấp bởi Bảo tàng giống chuẩn Vi sinh
vật (VTCC), Viện Vi sinh và Công nghệ sinh học,
Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Môi trường nuôi cấy vi sinh vật: PDA (Potato
Dextrose Agar) do hãng Diffco cung cấp. Các hóa
chất: CMC (carboxymethyl cellulose) (Sigma),
Congo Red (Sigma), Agar (Việt Nam) đều đảm
bảo độ sạch phân tích.
Môi trường nuôi cấy lỏng được sử dụng gồm các
thành phần sau: CMC 2g, KH2PO4 4g; (NH4)2SO4
13,6g; CaCl2 0,8g; MgSO4 0,6g; pepton; yeast ex-
tract 0,1g; FeSO4.H2O 1mg; MnSO4.2H2O 0,32
mg; ZnSO4.7H2O 0,28mg; CoCl2.6H2O 0,4mg;
CuSO4.5H2O 0,25mg, nước cất vừa đủ 1000 mL.
2.1.2. Phương pháp
2.1.2.1. Bảo quản và giữ giống
Chủng giống thuần T. koningiopsis VTCC 31435
được bảo quản theo phương pháp cấy truyền trên
ống thạch nghiêng chứa môi trường PDA, nuôi
trong tủ ấm ở 28oC trong 72 giờ và được bảo quản
tối đa 30 ngày ở 4oC trước khi cấy truyền đợt tiếp
theo.
2.1.2.2. Xử lý chiếu xạ
Chủng T. koningiopsis VTCC 31435 được nuôi
cấy điểm trên đĩa petri chứa môi trường PDA ở
28oC. Sau 7 ngày, tiến hành gạt toàn bộ số bào tử
mọc trên bề mặt đĩa vào 100 mL dung dịch NaCl
0,9% có bổ sung Tween 80 theo tỷ lệ thể tích 1/99.
Dung dịch bào tử được pha loãng sao cho mật độ
tế bào khoảng 108-109 CFU/ mL.
Các ống nghiệm vô trùng có chứa 10 mL dung
dịch bào tử T. koningiopsis VTCC 31435 được
đem xử lý chiếu xạ trên nguồn gamma Co-60 ở
dải liều 0-2500 Gy (3 ống nghiệm lặp lại cho mỗi
liều). Liều kế Gammachrome YR được sử dụng
để đo liều hấp thụ.
2.1.2.3. Xác định số lượng bào tử
Dung dịch bào tử (trước và sau chiếu xạ) được
pha loãng theo dãy thập phân 0,1 mL mẫu ở các
độ pha loãng thích hợp được cấy vào đĩa petri
chứa môi trường PDA (3 đĩa petri/độ pha loãng).
Sử dụng que gạt vô trùng dàn đều dịch cấy trên
bề mặt thạch. Tiến hành đếm số khuẩn lạc sau 72
giờ nuôi cấy ở 28oC và tính số lượng bào tử (Mi)
trong 1 mL mẫu theo công thức [7]:
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
36 Số 65 - Tháng 12/2020
Mi (CFU/ mL) = Ai x Di/V
Trong đó: Ai là số khuẩn lạc trung bình/đĩa; Di là
độ pha loãng và V là thể tích dịch bào tử cấy vào
mỗi đĩa (mL)
2.1.2.4. Sàng lọc các đột biến sinh cellulase cao
Khả năng phân hủy cellulose của chủng T. kon-
ingiopsis được xác định định tính bằng phương
pháp khuếch tán trên đĩa thạch PDA có chứa cơ
chất CMC và chất chỉ thị Congo đỏ.
Sau khi chiếu xạ, dung dịch bào tử T. koningiop-
sis ở các liều khác nhau ngay lập tức được cấy trải
lên môi trường PDA có bổ sung CMC và congo
đỏ. Đĩa sau khi cấy được ủ ở 28oC trong 24 giờ.
Sau 24 giờ nuôi cấy, nhiệt độ ủ sẽ được nâng lên
37oC trong 3 đến 5 ngày nhằm hạn chế sự lan
rộng của khuẩn lạc và thu vòng phân giải CMC
tối đa. Khả năng thủy phân cellulose được đánh
giá thông qua chỉ số HC (Hydrolysis Capacity)
theo công thức [10]:
HC = Đường kính vòng phân giải/ Đường kính
khuẩn lạc
Những khuẩn lạc có chỉ số HC lớn hơn 10% so
với chỉ số HC của chủng thuần đều được coi là
các khuẩn lạc đột biến có khả năng sinh cellulase
cao.
2.1.2.5. Phương pháp DNS (axit 3,5 dinitrosali-
cylic)
Hoạt độ cellulase do các chủng Trichoderma sinh
ra trong quá trình nuôi cấy được định lượng theo
TCVN 12104:2018 [11] bằng phương pháp DNS.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá hai loại
hoạt độ enzyme endoglucanase - CMCase (thủy
phân cơ chất CMC) và hoạt độ enzyme tổng số-
FPase (thủy phân giấy lọc Whatman số 1).
Xác định hoạt độ thủy phân CMC và giấy lọc
(Whatman số 1) bằng cách xác định lượng đường
khử được tạo thành khi cho 0,1 mL cellulase tác
dụng với cơ chất CMC và giấy lọc ở pH 4,8 và
nhiệt độ 50oC trong 20 phút đối với CMC và 60
phút với giấy lọc. Lượng đường khử sinh ra phản
ứng với thuốc thử DNS, cường độ màu (màu lục)
của hợp chất tạo thành sau phản ứng được đo
bằng máy quang phổ UV-2450 Shimadzu ở bước
sóng 540 nm.
Một đơn vị hoạt độ của enzyme được định nghĩa
là lượng enzyme có khả năng xúc tác chuyển
hóa 1 µmol glucose trong 1 phút ở điều kiện thí
nghiệm [11].
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Ảnh hưởng của chiếu xạ lên sống sót của
chủng nấm T. koningiopsis VTCC 31435
Tác động của bức xạ gamma tới sự phát triển của
chủng T. koningiopsis VTCC 31435 được chúng
tôi xác định thông qua số khuẩn lạc sống sót sau
xử lí chiếu xạ liều từ 100 đến 2500 Gy. Hình 1
biểu diễn mối tương quan giữa Logarit số lượng
bào tử nấm sống sót (CFU/ mL) và liều xạ. Kết
quả cho thấy, số lượng bào tử sống sót phụ thuộc
vào liều chiếu. Số lượng bào tử giảm mạnh trong
khoảng liều từ 100 đến 1200 Gy, ở các liều cao
hơn số lượng bào tử ít có sự chênh lệch hơn.
Hình 1. Mối tương quan giữa số lượng bào tử T.
koningiopsis VTCC 31435 sống sót trong dịch bào
tử và liều xạ
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
37Số 65 - Tháng 12/2020
Sau các lần chiếu xạ, tính toán tỉ lệ sống sót chủng
T. koningiopsis VTCC 31435, chúng tôi nhận thấy
số lượng tế bào sống sót còn khoảng 10% khi xử lý
chiếu xạ dung dịch bào tử ở khoảng liều 400 Gy.
Giá trị D10 trong nghiên cứu Trandafir và cộng
sự trên T. viride trong khoảng từ 450 đến 500 Gy
[12]. Nghiên cứu ảnh hưởng của chiếu xạ gamma
tới đặc điểm hình thái và tính đối kháng của T.
viride với nấm gây bệnh M. phaseona, Baharvand
và cộng sự nhận thấy, tỷ lệ sống sót của T. viride
là 9,7% ở liều chiếu 400 Gy và nhóm tác giả đã
không quan sát được bất cứ sự nảy mầm nào của
các bào tử nấm ở liều 450 Gy [13]. Những khác
biệt trong các kết quả nghiên cứu nêu trên có thể
được giải thích khi cho rằng các yếu tố như chủng
giống, giai đoạn sinh trưởng, nhiệt độ, bản chất
của môi trường dạng khí, thành phần hóa học
của môi trường nuôi cấy cũng như điều kiện
sinh lý và khả năng tự sửa chữa của tế bào nấm đã
ảnh hưởng đến sự tồn tại của chúng sau chiếu xạ.
3.2. Ảnh hưởng chiếu xạ tới khả năng sinh cel-
lulase của chủng T. koningiopsis VTCC 31435
Các khuẩn lạc đơn kháng xạ sẽ được lựa chọn
ngẫu nhiên (50 khuẩn lạc cho mỗi liều chiếu) để
đánh giá khả năng thủy phân cellulose thông qua
chỉ số HC. Những khuẩn lạc có chỉ số HC lớn
hơn 10% so với chỉ số HC của chủng thuần đều
được coi là các khuẩn lạc kháng xạ và có khả năng
sinh cellulase cao.
Bảng 1. Khả năng thủy phân cellulose ở các
khuẩn lạc T. koningiopsis xử lý chiếu xạ liều
khác nhau
Kết quả trong Bảng 1 cho thấy, khuẩn lạc sinh cel-
lulase xuất hiện ở tất cả các liều chiếu xạ với vòng
phân giải CMC bao quanh các khuẩn lạc trên môi
trường sàng lọc có chỉ thị Congo đỏ. Tuy nhiên,
số lượng khuẩn lạc có chỉ số HC cao hơn chủng
thuần là khác nhau ở mỗi liều chiếu xạ.
Kết quả trong Bảng 1 cũng cho thấy khoảng liều
chiếu từ 700 đến 1500 Gy thu được nhiều hơn các
khuẩn lạc T. koningiopsis có chỉ số HC cao hoặc
có chỉ số HC cao vượt trội so với các liều xử lý còn
lại. Điều này được thể hiện rõ ở giá trị HC trung
bình, giá trị này là 2,05; 2,21; 2,17 và 2,06 tương
ứng với các liều 700, 1000, 1200 và 1500 Gy. Tại
các liều chiếu xạ này, chúng tôi cũng thu được các
khuẩn lạc có giá trị HC lớn nhất là 2,48; 2,38; 2,41
và 2,62, trong khi đó giá trị này ở chủng thuần
là 1,74. So sánh giá trị HC trong nghiên cứu của
chúng tôi với các nghiên cứu trên thế giới, nhận
thấy: Damaso và cộng sự đặt ngưỡng cho giá trị
HC là 1,0 [14], giá trị HC do Florencio và cộng
sự đề xuất là 1,5 [15], trong khi giá trị HC trong
nghiên cứu của Sazci và cộng sự lên tới đến 2,5
[16]. Như vậy giá trị HC trong nghiên cứu của
chúng tôi tương đồng với các nghiên cứu khác
trên thế giới.
Tỷ lệ đột biến thường liên quan tới liều chiếu xạ
[17]. Kết quả cho thấy đột biến sinh cellulase cao
xuất hiện ở tất cả các liều xạ, tỷ lệ đột biến dường
như cao hơn trong khoảng liều từ 700 đến 1500
Gy so với các liều khảo sát còn lại. Dựa vào đường
cong sống sót phụ thuộc liều chiếu xạ của chủng
T. koningiopsis VTCC 31435 (Hình 1), chúng tôi
nhận thấy đột biến sinh cellulase cao hơn chủng
thuần thu được nhiều hơn khi số lượng TB sống
sau chiếu xạ giảm từ 103 đến 105 lần (3-5 đơn vị
Log) so với dạng thuần không chiếu xạ.
Sau quá trình sàng lọc này, 05 khuẩn lạc tiềm
năng nhất đã được lựa chọn. Giá trị HC của 05
khuẩn lạc sau sàng lọc được trình bày trong Bảng
2, vòng phân giải CMC của một số khuẩn lạc tiềm
năng sau chiếu xạ được biểu diễn ở Hình 2.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
38 Số 65 - Tháng 12/2020
Bảng 2. Giá trị HC của 05 khuẩn lạc T. koningi-
opsis có khả năng sinh cellulase cao nhờ chiếu xạ
Hình 2. Vòng phân giải CMC của một số khuẩn lạc
T. koningiopsis sau nuôi cấy 28oC trong 24 giờ và ủ
ở 37oC trong 5 ngày
3.3. Hoạt độ cellulase của các khuẩn lạc tiềm
năng
Để chọn các khuẩn lạc có hoạt tính cellulase cao
nhất, 05 khuẩn lạc tiềm năng có giá trị HC cao
nhất (được liệt kê trong Bảng 2) được định lượng
hoạt độ CMCase và FPase bằng phương pháp
DNS. Hoạt độ CMCase và FPase của chủng thuần
T. koningiopsis VTCC 31435 và 05 khuẩn lạc
tiềm năng sinh ra trong quá trình nuôi cấy được
biểu diễn trên Hình 3.
Hình 3. Hoạt độ CMCase và FPase của 05 khuẩn
lạc T. koningiopsis có khả năng sinh cellulase cao
tạo được bằng chiếu xạ.
Các kết quả của chúng tôi cho thấy cả 05 khuẩn
lạc (tạo được trong khoảng liều chiếu từ 700-1500
Gy) đều có hoạt độ CMCase và FPase cao hơn
chủng thuần. Hoạt độ CMCase ở các khuẩn lạc
tiềm năng cao hơn chủng thuần 1,51-2,48 lần.
Trong khi đó, hoạt độ FPase của chúng cao hơn
chủng thuần 1,20-1,87 lần. Khuẩn lạc VTCCI-1
tạo được ở liều chiếu 1500 Gy có hoạt độ CM-
Case đạt 2,753 U/ mL, cao hơn chủng gốc tới
2,48 lần và hoạt độ FPase đạt 0,365 U/mL, cao
hơn chủng gốc 1,87 lần. Khuẩn lạc VTCC I-3 tạo
được ở liều 700 Gy có hoạt độ CMCase và FPase
tương ứng là 1,987 U/mL và 0,284 U/mL, lần lượt
cao hơn chủng thuần là 1,78 và 1,45 lần. Kết quả
mà chúng tôi thu được tương đồng với với nghiên
cứu của Florencio và cộng sự khi đánh giá mối
tương gian giữa phương pháp bán định lượng
(trên môi trường PDA có bổ sung chỉ thị Con-
go đỏ) và định lượng hoạt độ cellulase (phương
pháp DNS) của chủng nấm Trichoderma. Nhóm
nghiên cứu cũng khẳng định cả hai phương pháp
này là phù hợp để đánh giá và sàng lọc các chủng
VSV có khả năng sinh cellulase cao [15].
Đánh giá tính bền chủng sau chiếu xạ hai chủng
VTCC-I-1 và VTCC-I-3, nhận thấy hai chủng
này ổn định ít nhất sau 4 thế hệ liên tiếp (4 lần
cấy truyền, mỗi lần cách nhau 01 tháng) (số liệu
không được trình bày trong báo cáo này). Hoạt
độ CMCase của chủng VTCC I-1 và VTCC I-3 ở
thế hệ đầu tiên và thế hệ thứ 4 cũng đã được kiểm
tra và xác nhận bởi Trung tâm Hóa sinh Công
nghiệp và Môi trường, Viện Công nghiệp Thực
phẩm.
4. KẾT LUẬN
Tỷ lệ sống sót của chủng nấm sợi Trichoderma
koningiopsis VTCC 31435 giảm dần theo sự
tăng dần liều chiếu. Liều D10 khoảng 400 Gy và
khoảng liều 700-1500 Gy là phù hợp để sàng lọc
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
39Số 65 - Tháng 12/2020
các chủng sau chiếu xạ có khả năng sinh cellulase
cao. Sau chiếu xạ, đã sàng lọc được 05 khuẩn lạc
có khả năng sinh cellulase cao vượt trội, hoạt độ
CMCase và FPase của các khuẩn lạc này cao hơn
chủng thuần tương ứng là 1,51-2,48 lần và 1,2-
1,87 lần; trong đó 2 chủng VTCC-I-1 và VTCC-
I-3 có hoạt tính cellulase ổn định ít nhất sau 4 thế
hệ. Các kết quả nghiên cứu đã chứng minh bức xạ
gamma là tác nhân hiệu quả trong việc nâng cao
khả năng sinh cellulase của chủng nấm T. konin-
giopsis.
Nguyễn Thị Thơm, Hoàng Đăng Sáng,
Trần Xuân An, Nguyễn Văn Bính,
Trần Băng Diệp
Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Gardner K.H., Blackwell J., The structure of native
cellulose. Biopolymers, 13: 1975-2001, 1974.
[2] Jarvis M., 2003, Cellulose stacks up, Nature,
426(6967), pp. 611–612, 2003.
[3] Gupta P., Samant K., Sahu A., Isolation of cellu-
lose- degrading bacteria and determination of their
cellulolytic potential. International Journal of Micro-
biology, 6, pp. 1-5, 2012.
[4] Bayer E.A., Belaich J.-P., Shoham Y., Lamed R., The
cellulosomes: multienzyme machines for degradation
of plant cell wall polysaccharides, Annu Rev Micro-
biol, 58, pp. 521–554,2004.
[5] Miklaszewska B., Macko D., Kłosowski G., Mi-
kulski D., Application of semi-quantitative and
quantitative methods for the selection of cellulolytic
filamentous fungi isolated from pulp mill materials,
BioTechnologia, 3, pp. 169–178, 2016.
[6] Xu, F., Wang, J., Chen, S., Qin, W., Yu, Z., Zhao,
H., Xing, X., Li, H, Strain Improvement for enhanced
production of cellulose in Trichoderma viride. Ap-
plied Biochemistry and Microbiology, Vol. 47, 1, 2011.
[7] Tamada M., Kasai N., and Kaetsu I., Effects of gam-
ma-ray irradiation on cellulase secretion of Tricho-
derma reesei, J Ferment Technol 65(6), pp. 703–705,
1987.
[8] Shahbazi S., Ispareh K., Karimi M., Askari H.,
Ebrahimi M. A., Gamma and UV radiation induced
mutagenesis in Trichoderma reesei to enhance cellu-
lases enzyme activity. International Journal of Farm-
ing and Allied Sciences. 3 (5): 543-554, 2014.
[9] El-Zawahry, Y.A., Mostafa, I.Y., Effect of gamma
irradiation on the production of cellulase enzyme by
some fungal isolates. Isotope and Radiation Research,
Vol. 19, 1, 43-50, 1991.
[10] Pratima, G., Kalpana S., Avinash S., Isolation of
cellulose-degrading bacteria and determination of
their cellulolytic potential. International Journal of
Microbiology, Vol. 2012, Article ID 578925, 2011.
[11] TCVN 12104: 2018, Xác định hoạt độ xenlulaza
trong vi sinh vật phân giải xenlulo, 2018.
[12] Blakely W.F., Introduction: Chromosome aberra-
tion induced by radiation, Lecture of regoninal train-
ing course on biological radiation dosimetry, Seoul,
Korea, 2007.
[13] Trandafir T., Florina L.Z., Mioara A., Mihaele E.,
Mihai C., Alexandru A., Ovidiu I., oRdica I.S., Radi-
oresistance of biodegradation in estabshing the de-
contamination dose, ICAMS 2014 – 5 th International
Conference on Advanced Materials and Systems,
2012.
[14] Damaso M.C.T., Terzi S.D.C, Farias A.X., Oveira
A.C.P.D, Fraga M.E, Couri S., Selection of cellulolytic
fungi isolated from diverse substrates, Braz. Arch.
Biol. Technol, 55(4), pp. 513-520, 2012.
[15] Florencio C., Couri S., Farinas C.S., Correlation
between agar plate screening and sod-state fermen-
tation for the prediction of cellulase production by
Trichoderma strains. Enzyme Res, pp.1-7, 2012.
[16] Sazci A., Radford A., Erenle K., Detection of cel-
lulolytic fungi by using Congo red as an indicator a
comparative study with the dinitrosalicylic acid rea-
gent method, Journal of Apped Bacteriology 61, pp.
559-562, 1986.
[17] Satoh K., Oono Y., Studies on application of ion
beam breeding to industrial microorganisms at TI-
ARA, Quantum Beam Sci, 3(2), pp. 1-16, 2019.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_tao_dong_trichoderma_sinh_cellulase_cao_bang_xu_l.pdf