Từ kết quả phản ứng ELISA gián tiếp cho
thấy rằng, kháng thể VHH có ái lực tốt với
kháng nguyên Ompa, và với hàm lượng Ompa
nhỏ nhất là 10 ng/giếng (0,01ng/µl) đã cho tín
hiệu ELISA dương tính. Tín hiệu ELISA tăng
dần khi tăng hàm lượng kháng nguyên Ompa
tăng lên. Giá trị OD450 bằng 1,21 khi tăng hàm
lượng kháng nguyên Ompa lên 40 ng, 80 ng và
ở hàm lượng 160 ng thì tín hiệu ELISA đạt cao
nhất là 3,7. Qua đây có thể một lần nữa khẳng
định rằng, kháng thể đơn chuỗi VHH kháng
Ompa được tạo ra là có ái lực tốt với kháng
nguyên Ompa của vi khuẩn gây bệnh vàng lá
gân xanh. Yuan và đồng tác giả (2016) cũng đã
nghiên cứu tạo kháng thể đơn chuỗi scFv kháng
các protein bề mặt của CLas, trong đó kháng thể
đơn chuỗi scFv kháng Ompa cho giá trị ELISA
cao nhất (Yuan et al., 2016). Trong nghiên cứu
của Yuan và đồng tác giả, khi sử dụng dòng
kháng thể scFc kháng Ompa thì cho giá trị
OD450 bằng 1,01 tại nồng độ kháng nguyên
Ompa bằng 50 µg/mL, tương ứng với hàm
lượng Ompa tinh sạch sử dụng trong phản ứng
ELISA là 5 µg, hàm lượng này là cao gấp 125
lần so với hàm lượng Ompa cần dùng trong
nghiên cứu của chúng tôi. Như vậy, dòng kháng
thể VHH kháng Ompa của chúng tôi tạo ra là có
ái lực với kháng nguyên Ompa tinh sạch tốt hơn
so với dòng kháng thể scFv của Yuan và đồng
tác giả. Điều này mở ra triển vọng ứng dụng
kháng thể đơn chuỗi VHH trong việc phát hiện
bệnh vàng lá gân xanh trên cây có múi. Những
nghiên cứu tiếp theo sẽ tập trung vào việc đánh
giá khả năng sử dụng kháng thể đơn chuỗi VHH
trong việc phát hiện bệnh vàng lá gân xanh trên
cây có múi bằng các phương pháp như ELISA,
dot-blot.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tạo kháng thể đơn chuỗi đặc hiệu kháng nguyên ompa của vi khuẩn gây bệnh vàng lá gân xanh trên cây có múi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 529-541, 2020
529
NGHIÊN CỨU TẠO KHÁNG THỂ ĐƠN CHUỖI ĐẶC HIỆU KHÁNG NGUYÊN
OMPA CỦA VI KHUẨN GÂY BỆNH VÀNG LÁ GÂN XANH TRÊN CÂY CÓ MÚI
Hồ Thị Thương1, Nguyễn Thị Thơm1 Nguyễn Thị Trà1, Trịnh Thái Vy1, Phạm Bích Ngọc1, Lê
Văn Sơn1, Nguyễn Thị Bích Ngọc2, Chu Hoàng Hà1,
1Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Viện Bảo vệ Thực vật, Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam
Người chịu trách nhiệm liên lạc. E-mail: chuhoangha@ibt.ac.vn
Ngày nhận bài: 08.11.2019
Ngày nhận đăng: 20.02.2020
TÓM TẮT
Bệnh vàng lá gân xanh hay còn gọi là HuangLongbing (HLB) được xem là một trong những bệnh
hại nguy hiểm nhất trên cây ăn quả có múi. Bệnh làm hạn chế việc sản xuất cây ăn quả có múi ở khắp
nơi trên thế giới. Phương pháp sản xuất kháng thể kháng protein Ompa của vi khuẩn Candidatus
Liberibacter asiaticus (CLas) để phát hiện bệnh vàng lá gân xanh đang được xem là hướng nghiên
cứu triển vọng. Trong nghiên cứu này, với mục đích sản xuất kháng thể đơn chuỗi kháng kháng
nguyên Ompa của vi khuẩn CLas, đầu tiên, chúng tôi sử dụng thư viện kháng thể nanobody (single
variable domain, VHH) của Lạc đà để sàng lọc các kháng thể đơn chuỗi VHH kháng kháng nguyên
Ompa bằng kỹ thuật bộc lộ phage M13 (phage-display). Tiếp đến, các dòng phage đơn 21, 33, 53, 56,
59 cho kết quả ELISA cao với kháng nguyên Ompa được lựa chọn để tách phagemid và đoạn gen mã
hóa các kháng thể VHH được giải trình tự. Đoạn gen mã hóa cho kháng thể 53-VHH có ái lực với
Ompa tốt nhất được lựa chọn và chèn vào vector biểu hiện pET-21a(+), sau đó nhân dòng trong chủng
E. coli DH5α và biểu hiện trong chủng BL21 (DE3). Kháng thể đơn chuỗi 53-VHH kháng Ompa
được tối ưu sự biểu hiện ở các nhiệt độ khác nhau (37 oC, 28 oC và 15 oC) với nồng độ cảm ứng IPTG
0,1 M. Kháng thể 53-VHH kháng Ompa được tinh sạch thành công dưới điều kiện biến tính, sau đó
tái cuộn gấp. Hoạt tính sinh học của kháng thể đơn chuỗi 53-VHH kháng kháng nguyên Ompa được
đánh giá bằng phản ứng ELISA gián tiếp. Kết quả cho thấy, kháng thể đơn chuỗi 53-VHH có tương
tác rất tốt với kháng nguyên Ompa. Điều này mở ra triển vọng ứng dụng kháng thể đơn chuỗi 53-
VHH trong việc phát hiện bệnh vàng lá gân xanh trên cây có múi.
Từ khóa: Bệnh vàng lá gân xanh, kháng thể đơn chuỗi VHH, thư viện Lạc Đà, kỹ thuật phage-
display, vi khuẩn Candidatus Liberibacter asiaticus.
GIỚI THIỆU
Bệnh vàng lá gân xanh hay còn gọi là
HuangLongbing (HLB) được xem là một trong
những bệnh hại nguy hiểm nhất trên cây ăn quả
có múi. Bệnh làm hạn chế việc sản xuất cây ăn
quả có múi ở khắp nơi trên thế giới (da Graca,
1991). Bệnh được do ba loài vi khuẩn
(Candidatus Liberibacter asiaticus (CLas),
Candidatus Liberibacter africanus (CLaf) và
Candidatus Liberibacter americanus (Clam))
sống trong mạch dẫn của cây gây ra (Bové,
2006). Trong đó, bệnh vàng lá gân xanh gây ra
do vi khuẩn CLas phân bố ở khắp nơi trên thế
giới. Vi khuẩn được lan truyền qua mắt ghép,
cành chiết và qua côn trùng môi giới là rầy chổng
cánh Diaphorina citri ở châu Á và rầy Trioza
erytreae ở châu Phi (Gottwald et al., 2007).
Trong quá trình rầy ăn và sinh sống trên cây có
múi, các tế bào vi khuẩn được đưa vào mạch rây
Hồ Thị Thương et al.
530
của cây và nhân lên trong đó (Gottwald, 2010).
Vi khuẩn này gây ra sự xáo trộn sinh lý, làm tắc
nghẽn quá trình vận chuyển dinh dưỡng từ đó ảnh
hưởng đến sinh trưởng của cây. Cây bị bệnh sinh
trưởng rất còi cọc; bộ lá, đặc biệt lá non, bị biến
vàng; quả nhỏ, lệch, bị biến vàng phần cuống
trước khi chín, không có giá trị sử dụng.
Hiện nay, chưa có phương pháp hiệu quả để
cứu những cây bị nhiễm bệnh do CLas gây ra.
Các phương pháp pháp trừ bệnh chủ yếu dựa vào
việc sử dụng vật liệu sạch bệnh, loại bỏ sớm cây
bệnh, phòng chống vector và tạo giống kháng
bệnh. Tất cả các chiến lược trên đều yêu cầu một
kỹ thuật chẩn đoán chính xác nhưng chẩn đoán
dựa trên triệu chứng rất khó vì biểu hiện không
đặc trưng ở cây bị bệnh (Shen et al., 2013). Các
phương pháp để phát hiện cây bị nhiễm bệnh chủ
yếu dựa vào phản ứng PCR và Realtime-PCR
(Teixeira et al., 2008), tuy nhiên phương pháp
này tốn kém, chỉ sử dụng được trong phòng thí
nghiệm và bị ảnh hưởng bởi sự phân bố thấp và
không đồng đều của tế bào vi khuẩn CLas trong
cây bị nhiễm bệnh (Ding et al., 2015; Arredondo
Valdés et al., 2016). Như vậy, cần một phương
pháp thay thế để phát hiện trực tiếp CLas trong
cây có múi bị nhiễm bệnh vàng lá gân xanh.
Phương pháp dùng kháng thể để phát hiện
protein của tác nhân gây bệnh được sử dụng rộng
rãi trong chẩn đoán bệnh do hiệu quả cao và chi
phí thấp. Những nghiên cứu gần đây cho thấy,
kháng thể đa dòng kháng kháng nguyên Ompa
protein của vi khuẩn CLas đã phát hiện thành
công vi khuẩn CLas gây bệnh vàng lá gân xanh
(Ding et al., 2015, 2016, 2017). Ompa là một
protein màng ngoài chính của vi khuẩn, với trình
tự acid amin bảo thủ trong các loài C.
Liberibacter. Kháng thể kháng Ompa có thể phát
hiện tế bào CLas trong mô mạch rây sử dụng
phản ứng ‘tissue printing’ và cũng có thể được sử
dụng để làm giàu các tế bào CLas dựa vào tương
tác kháng nguyên-kháng thể để tăng cường độ
nhạy của PCR (Ding et al., 2017). Tuy nhiên,
kháng thể đa dòng tạo ra vẫn không thể phát hiện
được các tế bào CLas trong các cây bị nhiễm
bệnh vàng lá gân xanh bằng phương pháp ELISA
(Ding et al., 2016).
Việc sản xuất kháng thể đơn chuỗi sử dụng
thư viện kháng thể đơn chuỗi của Lạc đà được
đặc biệt quan tâm do chúng có nhiều ưu điểm như
cấu trúc đơn giản (có kích thước nhỏ ~ 75 kDa),
có tính ổn định cao, có khả năng tan tốt, dễ dàng
sử dụng các kỹ thuật sinh học phân tử để cải biến
theo các mục đích khác nhau, nhận biết được cả
epitope đặc thù không thông dụng và các epitope
bị che phủ, có khả năng liên kết vào vùng trung
tâm hoạt động của enzyme và dễ dàng sản xuất
trên quy mô lớn (Deffar et al., 2009). Cấu trúc
không gian của kháng thể đơn chuỗi của Lạc Đà
gồm ba vùng hình cầu bao gồm vùng siêu biến
VHH, vùng CH2, CH3. Cho đến nay, nhiều loại
kháng thể đơn chuỗi được sàng lọc bằng kỹ thuật
phage-display sử dụng thư viện kháng thể đơn
chuỗi của Lạc Đà. Công nghệ này đã được ứng
dụng rộng rãi trong chẩn đoán tác nhân gây bệnh
cây, chủ yếu là virus. Thông qua sàng lọc từ thư
viện kháng thể sẵn có, một loạt kháng thể (đoạn
scFv) đã được xác định và có thể ứng dụng chẩn
đoán nhiều tác nhân gây bệnh cây (Garnier et al.,
1991). Yuan và đtg (2016) đã sử dụng kháng thể
đơn chuỗi scFv kháng một số kháng nguyên của
vi khuẩn CLas, tuy nhiên chỉ có kháng thể đơn
chuỗi kháng kháng nguyên Ompa cho kết quả tốt
nhất trong việc phát hiện mẫu bệnh vàng lá gân
xanh bằng phản ứng ELISA. Tuy vậy, sự sai khác
của giá trị OD450 trong phản ứng ELISA giữa
mẫu bị nhiễm bệnh vàng lá gân xanh và mẫu
khỏe là chưa lớn (Yuan et al., 2016). Như vậy,
cần có các nghiên cứu khác để tối ưu hiệu quả
của kháng thể đơn chuỗi trong việc phát hiện
bệnh vàng lá gân xanh bằng kỹ thuật ELISA.
Vùng siêu biến ở kháng thể Lạc Đà (VHH) còn
gọi là nanobody rất được quan tâm nghiên cứu.
Nanobody gồm đoạn trình tự cấu trúc liên kết trực
tiếp với epitope kháng nguyên có kích thước nhỏ
nhất (15 kDa) cuộn xoắn thành cấu trúc hình cầu
với đường kính là 2,5 nm và dài khoảng 4 nm
(Cortez-Retamozo et al., 2004). Nanobody có
nhiều ưu điểm nổi bật nhờ rất bền với nhiệt, có độ
ổn định cao trong các chất tẩy, giữ được cấu trúc ổn
định ở nồng độ ure cao và tan rất tốt trong nước.
Nanobody đã được sản xuất thành công trong E.
coli, nấm sợi (Joosten, 2005; Olichon, 2007),
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 529-541, 2020
531
nấm men (Thomassen, 2002) và trong tế bào thực
vật và động vật (Rajabi 2007).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi trình
bày kết quả sản xuất kháng thể đơn chuỗi VHH
kháng kháng nguyên Ompa của vi khuẩn CLas
gây bệnh vàng lá gân xanh.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Vector, chủng khuẩn và protein tinh sạch sử
dụng
Thư viện bộc lộ phage M13 nhân tạo của Lạc
Đà chứa CDR1+CDR2+CDR3 ngẫu nhiên, có
nồng độ 4x108 cfu/mL được cung cấp bởi Viện
nghiên cứu di truyền thực vật và giống cây trồng,
Leibniz, CHLB Đức. Chủng vi khuẩn TG1 và
chủng vi khuẩn HB2151 (GE Healthcare, CHLB
Đức). Helper phage M13KO7 (GE Healthcare,
CHLB Đức). Vector biểu hiện pET21a (+) do
phòng Công nghệ Tế bào Thực vật, Viện Công
nghệ Sinh học cung cấp. Tế bào khả biến E. coli
chủng DH5 (α) và chủng BL21 (DE3) do Viện
Công nghệ Sinh học cung cấp. Protein Ompa tinh
sạch từ E. coli (500 ng/µL) được cung cấp bởi
Viện Bảo vệ Thực vật.
Các cặp mồi sử dụng
Các cặp mồi sử dụng được trình bày trong
bảng 1.
Bảng 1. Các cặp mồi đặc hiệu nhân gen VHH.
STT Tên mồi Trình tự (5’-3’)
Mồi dùng để giải trình tự trong phagemid
1 PHEN ctatgcggccccattca
2 LMB3 gaccatgattacgccaag
Mồi dùng để gắn vào vector biểu hiện pET21a(+)
1 VHH-F ctgggatccatgggatctcaagttcagctt
2 VHH-R cgagagctcctagtggtggtggtggtggtgtgcggccccatt
Phương pháp
Phương pháp phage-display
Phương pháp phage-display được thực hiện
theo hướng dẫn của Manfred Gahrtz và Udo
Corad (2009). Quy trình cụ thể bao gồm các bước
sau:
Ngày 1: Đĩa 96 giếng Maxisorb được phủ với
100 µL kháng nguyên tái tổ hợp Ompa (10
ng/µL), sau đó ủ qua đêm ở 4oC. Môi trường
TYE (100 µg ampicillin/mL, 1% glucose) được
chuẩn bị trên đĩa BioAssay (243x243 mm).
Ngày 2: Một dòng khuẩn TG1 đã được nuôi
trên đĩa chứa môi trường tối thiểu M9 bổ sung
0,5 mg thiamin, được lựa chọn để nuôi lỏng trong
3 mL TY (2X) trong 2 h 30 min ở 37oC. Sau đó
môi trường được pha loãng với tỉ lệ 1:100 trong
TY (2X) cho tới khi OD đạt 0,4. Đĩa maxisorb
được rửa 3 lần với PBS. Đĩa được phủ với 200
µL PBS (2% BSA) trong 2 h tại nhiệt độ phòng.
Sau đó, đĩa được rửa 3 lần với PBS. Với mỗi ba
giếng cho 1012 tới 1013 trong thể tích 90 µl phage
vào đĩa, đĩa tiếp tục được ủ với 30 min lắc và 1 h
không lắc tại nhiệt độ phòng. Dịch không bám
được loại bỏ. Đĩa được rửa 3 lần bằng PBS-
Tween 20 (PBS-T). Các phage bám được thu lại
bằng cách thêm vào đĩa 90 µl Triethylamine (100
mM). Đĩa được ủ có lắc tại nhiệt độ phòng trong
10 min. Trong quá trình ủ, ống ly tâm 1,5 mL
chứa 135 µl Tris (1 M, pH 7,4) được chuẩn bị.
Các phage hòa tan từ 3 giếng (270 µl) được
chuyển sang ống ly tâm 1,5 mL để trung hòa. Các
phage đã trung hòa được chuyển từ ống 1,5 mL
sang ống 15 mL, sau đó bổ sung 9 mL khuẩn TG1
(OD 0,4-0,5), ủ tại 37 oC trong 30 min. Để thu
các phage còn lại trên đĩa, đĩa được bổ sung 5 µl
Tris (1M, pH 7,4), sau đó thêm 50 µl TG1, đĩa
được ủ 37 oC trong 30 min. Cả 2 dung dịch phage
được trộn lại với nhau. Hỗn hợp được ly tâm tại
3700 rpm/min trong 10 min, 4 oC loại bỏ gần hết
Hồ Thị Thương et al.
532
dịch nổi và giữ lại 1 mL để hòa tan lại tế bào.
Dung dịch được trải trên đĩa Bioassay đã chuẩn
bị từ ngày 1 và nuôi qua đêm tại 37 oC.
Ngày 3: Tế bào được rửa từ đĩa BioAssay với
7 mL TY (2X, 15% glycerol) sử dụng que trải.
50 µl dịch khuẩn được bổ sung vào 20 mL TY
(2X, 100 µg ampicillin, 1% glucose), dịch khuẩn
được nuôi trong 1 h đến 2 h để OD đạt 0,4. Phần
còn lại của dịch khuẩn sau khi rửa ở bước 1 được
giữ tại -80 oC. Với 10 mL môi trường nuôi trên,
bổ sung 5 µl helper phage (5 x 1010). Hỗn hợp
được ủ tại bể ổn nhiệt 37 oC trong 30 min không
lắc. Cặn được thu bằng ly tâm ở 3700 rpm/min
trong 10 min và hòa tan cặn trong 50 mL TY (2X,
100 µg ampicillin/mL, 50 µg kanamycin/mL).
Dung dịch được ủ qua đêm tại 30 oC có lắc. Để
tiếp tục các bước sàng lọc tiếp theo, thứ tự từ
ngày 1 sẽ được lặp lại như trên.
Ngày 4: Môi trường nuôi qua đêm được thu
bằng ly tâm ở 3700 rpm/min trong 15 min. Dịch
nổi (40 mL) được thu lại, sau đó được bổ sung
thêm 10 mL PEG/NaCl, trộn đều và cho dịch nổi
lên đá trong 1 h để tủa phage. Dịch nổi được loại
bỏ bằng ly tâm ở 3700 rpm/min trong 30 min.
Dịch nổi tiếp tục được loại bỏ bằng ly tâm lần
nữa. Cặn còn lại được hòa tan với 1 mL PBS và
tiếp tục được ly tâm ở 11000 rpm/min trong 10
min. Dịch nổi thu được là phage sẽ được sử dụng
cho bước sàng lọc tiếp theo. 400µl phage được
thêm thêm vào 200 µl PBS (6% BSA), bắt đầu 3
vòng sàng lọc tiếp theo.
Ngày 5 đến 7: Các bước sàng lọc tiếp theo
được thực hiện như miêu tả trên.
Ngày 8: Đĩa microtiter ở vòng sàng lọc 4
được sử dụng để phân lập các dòng phage đơn.
Các dòng khuẩn đơn được lựa chọn từ đĩa
microtiter trên và cho vào 100 µl TY (2X, 100 µg
ampicillin/mL, 1% glucose) trên đĩa microtiter
khác. Dung dịch được nuôi khuẩn qua đêm tại 37
oC với 500 rpm/min.
Ngày 9: 2 µl từ mỗi giếng microtiter được
chuyển sang đĩa microtiter sạch có chứa 200 µl
TY (2X, 100 µg ampicillin/mL, 1% glucose) mỗi
giếng, lắc 700 rpm/min tại 37 oC trong 1 h. 25 µl
môi trường TY (2X, 100 µg ampicillin/mL, 1%
glucose) chứa 109 helper phage được thêm vào
dung dịch. Hỗn hợp được ủ ở 37 oC trong 30 min
không lắc và sau đó 1 h có lắc (300 rpm/min).
Dịch nổi được loại bỏ bằng ly tâm tại 1500
rpm/min trong 10 min, sau đó cặn được hòa tan
với 200 µl TY (2X, 100 µg ampicillin/mL, 50 µg
kanamycin/mL), nuôi qua đêm 30 oC.
Ngày 10: Đĩa microtiter chứa dung dịch
phage được ly tâm tại 1500 v/p trong 10 min.
Dịch nổi thu được sẽ dùng cho phản ứng ELISA.
Đĩa maxisorb được phủ với 100 µl kháng nguyên
tái tổ hợp Ompa (10 ng/µl).
Ngày 11: Dịch chứa kháng nguyên trong đĩa
maxisorb được loại bỏ, bổ sung 200 µl với 3%
BSA trong PBS để phủ đĩa, đĩa được ủ trong 2 h
ở nhiệt độ phòng. Dung dịch phủ được loại bỏ,
sau đó thêm 100 µl phage (từ ngày 10) được pha
loãng tỷ lệ 1+1 với 2% BSA trong PBS và ủ 1 h
ở nhiệt độ phòng. Dung dịch phage được loại bỏ
ra khỏi đĩa và đĩa được rửa 5 lần với PBS-T. 100
µl anti-M13-HRP được pha loãng trong PBS (1%
BSA) với tỷ lệ 1:5000 được bổ sung vào đĩa và ủ
đĩa tại 37 oC trong 1 h. Đĩa được rửa 5 lần với
PBS-T và được bổ sung 100 µl dung dịch cơ chất
TMB, chờ trong 15 min đến khi xuất hiện màu
xanh. Phản ứng được dừng bằng cách bổ sung 50
µl sulphuric acid (1 M), màu xanh trên đĩa
chuyển sang màu vàng. Kết quả ELISA được đọc
ở bước sóng OD450.
Giải trình tự đoạn gen mã hóa kháng thể đơn
chuỗi kháng Ompa
Các dòng kháng thể có ái lực tốt với kháng
nguyên sẽ được lựa chọn để tách phagemid.
Đoạn gen mã hóa các dòng kháng thể kháng
Ompa được nhân lên và giải trình tự Sanger với
cặp mồi PHEN/ LMB3. Trình tự đoạn DNA thu
nhận được sau khi giải trình tự sẽ được xử lý và
phân tích bằng phần mềm DNAstar và Bioedit.
Thiết kế vector biểu hiện mang gen mã hóa
kháng thể đơn chuỗi VHH kháng kháng
nguyên Ompa
Để gắn các đoạn gen mã hóa kháng thể kháng
Ompa vào vector biểu hiện pET21a(+), các đoạn
gen mã hóa kháng thể Ompa đã được nhân lên
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 529-541, 2020
533
bằng phản ứng PCR với các cặp mồi VHH-
F/VHH-R có thêm các trình tự enzyme giới hạn
BamHI/SacI. Sản phẩm PCR sau đó được tinh
sạch và xử lý bằng BamHI và SacI và gắn vào
vector biểu hiện pET21a(+) đã được xử lý
enzyme cắt giới hạn tương ứng trước đó. Sản
phẩm gắn được biến nạp vào E. coli DH5α và trải
trên đĩa môi trường LB có bổ sung ampicillin 50
mg/mL. Để kiểm tra các plasmid tái tổ hợp,
chúng tôi tiến hành phản ứng colony-PCR sử
dụng cặp mồi VHH-F/VHH-R và phản ứng cắt
với BamHI và SacI. Plasmid tái tổ hợp sau đó
được biến nạp vào dòng tế bào khả biến E. coli
BL21 (DE3) để biểu hiện kháng thể.
Biểu hiện kháng thể đơn chuỗi VHH kháng
kháng nguyên Ompa
Để biểu hiện kháng thể đơn chuỗi kháng
kháng nguyên Ompa, một khuẩn lạc chứa
plasmid tái tổ hợp được nuôi trong 4 mL môi
trường LB có bổ sung kháng sinh ampicillin 50
mg/mL ở 37 oC, nuôi lắc 200 rpm/min qua đêm.
2 mL dịch khuẩn được chuyển sang 200 mL môi
trường LB có bổ sung kháng sinh ampicillin 50
mg/mL, nuôi ở 37 oC đến khi OD600 đạt 0,4-0,6.
Bình nuôi được bổ sung với 0,1 mM IPTG và
nuôi lắc ở 200 rpm/min trong 5 h ở các điều kiện
nhiệt độ khác nhau: 37 oC, 28 oC, 15 oC. Cặn
khuẩn được thu lại bằng ly tâm 6000 rpm, 20
min. Cặn khuẩn được bảo quản ở tủ -80oC.
Kiểm tra sự biểu hiện của kháng thể đơn chuỗi
VHH kháng kháng nguyên Ompa bằng SDS-
PAGE và Western blot
Để kiểm tra sự biểu hiện của kháng thể đơn
chuỗi kháng kháng nguyên Ompa, cặn khuẩn từ
2 mL dịch khuẩn BL21 (DE3) tái tổ hợp trước và
sau khi cảm ứng bằng IPTG được thu lại bằng ly
tâm 10000 rpm, 2 min. Cặn khuẩn sau đó được
bổ sung lysozyme 1 mg/mL, ủ trên đá trong 30
min, sau đó cặn khuẩn được siêu âm trong 10 min
(42 kHz, 135 W). Dịch tan và pha cặn được phân
tách bằng ly tâm 10000 rpm, 2 min. Protein từ
các pha tan và pha cặn này được biến tính trong
đệm SDS (50 mM Tris-HCl, pH 6,8, 2% SDS,
0,1% (w/v), Bromophenolblue, 10% (v/v)
Glycerol), ở 95 oC, 10 min. 30 µg protein được
phân tách bằng điện di SDS-PAGE (10%
polyacrylamide), sau đó protein được chuyển lên
màng nitrocellulose bằng máy chuyển màng Fast
blotter (Thermoscientific) ở 25V, 1,3A trong 20
min. Phản ứng Western blot được tiến hành theo
phương pháp của Conrad và đtg (2011). Sau khi
màng được khóa bằng sữa tách béo 5% pha trong
PBS qua đêm, màng được ủ với kháng thể kháng
cmyc trong 2 h. Tiếp đến màng được rửa ba lần
với sữa 0.5% pha trong PBS, mỗi lần cách nhau
5 min. Sau đó màng được phủ với kháng thể
chuột kháng IgG cộng hợp HRP trong 1 h. Sau
đó, màng tiếp tục được rửa ba lần sữa 0.5% pha
trong PBS, mỗi lần cách nhau 5 min và lần cuối
với PBS. Sự có mặt của kháng thể kháng Ompa
gắn cmyc trong mẫu được phát hiện nhờ phản
ứng hiện màu bằng cơ chất DAB dưới sự có mặt
của 0.04% H2O2.
Tối ưu tinh sạch kháng thể VHH đặc hiệu
kháng nguyên Ompa bằng phương pháp IMAC
ở điều kiện biến tính
Cặn khuẩn chứa kháng thể được hòa tan
trong đệm hòa tan (20mM NaH2PO4, 500 mM
NaCl, 40 mM Imidazole, Urea 8M pH 7.4 GE),
sau đó tiếp tục siêu âm 10 min (3s bật, 3s tắt).
Dịch trong được thu bằng ly tâm 13000 rpm, 15
min. Dịch trong được ủ với Ni-sepharose (GE
Healthcare, CHLB Đức) trong 2 h ở 4oC và
được tinh sạch theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Toàn bộ hỗn hợp dịch được chuyển lên cột. Cột
được rửa với 150 mL đệm rửa (20mM
NaH2PO4, 500 mM NaCl, Urea 8M, pH 7,4, GE
Healthcare, CHLB Đức) với các nồng độ
Imidazole 60 mM. Protein được hòa tan trong
đệm ly giải cột (20mM NaH2PO4, 500 mM
NaCl, 500 mM Imidazole, Urea 8M, pH 7,4, GE
Healthcare, CHLB Đức). Dung dịch chứa
protein tinh sạch sau đó được thẩm tích trong
đệm PBS + 0.5M Urea + 1mM EDTA + 10%
glycerol trong 2 h. Dung dịch tiếp tục thẩm tích
qua đêm trong PBS + 10% glycerol + L-
arginine. Protein tinh sạch trong túi thẩm tích
được làm sạch lần nữa bằng ly tâm ở 10000 rpm,
3 min, sau đó toàn bộ dịch trong được chuyển
lên cột cut off 9KDa, cột được ly tâm trong 2 h
ở 4oC. Protein tinh sạch được bảo quản trong
glycerol 50% ở tủ -80oC.
Hồ Thị Thương et al.
534
Kiểm tra ái lực của kháng thể VHH kháng
kháng nguyên Ompa sau tinh sạch bằng phản
ứng ELISA gián tiếp
Phản ứng ELISA gián tiếp được tiến hành
theo quy trình sau được mô tả như sau: 100 µl
kháng thể VHH được phủ trên đĩa (50 ng/giếng)
qua đêm ở 4 oC. Đĩa được rửa 10 lần bằng PBS
bổ sung 0.05% Tween20 (PBS-T). Các giếng
được khóa bằng sữa 5% pha trong PBS pH 7,4
trong 2 h. Đĩa tiếp tục được rửa 10 lần trong PBS-
T. Bổ sung 100µL/giếng kháng nguyên Ompa
(có gắn đuôi his-tag) với các nồng độ khác nhau
(10 ng, 20 ng, 40 ng, 80 ng, 160 ng/giếng) ở 4 oC,
qua đêm. Đĩa tiếp tục được rửa 10 lần bằng PBS-
T. Kháng thể kháng his-tag được pha loãng 1000
lần trong sữa 5% pha trong PBS, 2 h. Rửa đĩa 10
lần bằng PBS-T. Kháng thể chuột kháng IgG
cộng hợp HRP được pha trong sữa 5% PBS và
bổ sung vào giếng, ủ đĩa trong 1 h. Đĩa được rửa
10 lần bằng 0,5% sữa PBS-T. Đĩa tiếp tục được
rửa 5 lần bằng 0,5% sữa trong PBS.100 µl TMB
được bổ sung vào đĩa, sau đó đĩa được ủ trong
vòng 15-20 min trong tối. Phản ứng được dừng
lại khi bổ sung 100 µl H2SO4 1M. Kết quả được
đo ở bước sóng OD450.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Sàng lọc các dòng kháng thể VHH kháng
kháng nguyên Ompa bằng kỹ thuật phage-
display
Thư viện phage Lạc đà VHH có chứa các
đoạn kháng thể tổng hợp được tạo nên từ các
vùng biến đổi của chuỗi nặng (VH). Các đoạn
VHH được dung hợp với protein vỏ pIT1 của
thực khuẩn thể M13 để tạo thành thư viện các
đoạn kháng thể VHH bộc lộ trên phage. Đầu tiên,
kháng nguyên được cố định trong giếng. Tiếp
theo, các dòng phage tái tổ hợp (phagemid), được
tạo ra bằng cách nhiễm phage hỗ trợ (heper
phage) vào các dòng vi khuẩn từ thư viện, được
cố định vào giếng. Ở bước này, chỉ các dòng
phage tái tổ hợp mang kháng thể đặc hiệu kháng
nguyên mới liên kết với kháng nguyên tương
ứng. Các phage tái tổ hợp thừa bị loại bỏ qua
bước rửa. Thông qua lặp lại các bước sàng lọc
(thông thường 3-5 vòng), các phage tái tổ hợp
đặc hiệu sẽ được thu thập. Khả năng gắn kết của
hỗn hợp phage với kháng nguyên đích Ompa sau
mỗi vòng sàng lọc được đánh giá bằng kỹ thuật
ELISA.
Để sàng lọc các dòng phage đơn, hỗn hợp
phage sau vòng sàng lọc 3 được xâm nhiễm vào
E. coli chủng TG1, sau đó các khuẩn lạc đã được
chọn được để thu phagemid. Phage thu được từ
các khuẩn lạc riêng rẽ này dưới dạng từng dòng
riêng biệt và được sử dụng cho thí nghiệm xác
định khả năng gắn kết với kháng nguyên Ompa
bằng phương pháp ELISA. Kháng nguyên Ompa
được cố định trên khay ELISA 96 giếng, ủ mỗi
giếng với dung dịch phage riêng biệt đã thu được.
Các dòng phage sẽ gắn với tế bào đích thông qua
đoạn kháng thể bộc lộ trên nó. Theo lý thuyết,
dòng phage càng gắn tốt với kháng nguyên Ompa
thì tín hiệu sẽ càng cao. Do đó, bằng kỹ thuật
ELISA có thể định tính được độ nhạy của dòng
phage thu được với kháng nguyên Ompa dựa trên
số đo mật độ quang học. Kháng thể có khả năng
gắn kết cao với kháng nguyên Ompa sẽ cho giá
trị OD450 cao hơn và ngược lại. Hơn 100 dòng
phage đơn được chọn lọc để đánh giá ái lực với
kháng nguyên Ompa bằng phản ứng ELISA.
Hình 1 thể hiện kết quả của 16 dòng khuẩn lạc
đại diện sau khi đánh giá ái lực tương tác bằng
phản ứng ELISA.
Kết quả nhận được cho thấy tất cả 16 dòng
phage được chọn đều thể hiện khả năng gắn với
kháng nguyên Ompa qua phản ứng ELISA.
Trong đó, có 11 dòng phage đơn có giá trị OD450
trên 10. Đặc biệt, các dòng phage đơn 21, 33, 53,
56, 59 tín hiệu ELISA cao vượt trội so với các
dòng phage đơn còn lại với giá trị OD450 trung
bình sau 3 lần lặp lại lần lượt là 1,52; 1,98; 3,53;
2,58; 1,75. Trong số đó, dòng phage đơn 53 có
giá trị OD450 cao nhất đạt 3,53. Từ kết quả trên,
các dòng phage đơn 21, 33, 53, 56, 59 được tiến
hành tách chiết phagemid phục vụ cho mục đích
giải trình tự.
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 529-541, 2020
535
Hình 1. Kết quả của phản ứng ELISA đánh giá ái lực của hỗn hợp 16 dòng phage và dòng đối chứng sau vòng
sàng lọc 3.
Giải trình tự gen mã hóa kháng thể đơn chuỗi
VHH kháng kháng nguyên Ompa
Để giải trình tự đoạn gen mã hóa kháng thể
VHH đặc hiệu kháng nguyên Ompa, phagemid
của các dòng phage đơn trên được sử dụng làm
khuôn cho phản ứng PCR với cặp mồi PHEN/
LMB3. Kết quả điện di sản phẩm PCR với cặp
mồi trên cho sản phẩm có kích thước khoảng 600
bp đúng với kích thước lý thuyết (597 bp) (Hình
2A). Sản phẩm PCR được tinh sạch và tiến hành
giải trình tự bằng phương pháp Sanger. Sau khi có
kết quả giải trình tự, chúng tôi chọn dòng
phagemid 53 để tiếp tục nghiên cứu. Trình tự
amino acid của kháng thể VHH bao gồm các vùng
CDR1, CDR2, CDR3 lần lượt được thể hiện bằng
màu đỏ, màu xanh và màu tím ở Hình 2B.
Thiết kế vector biểu hiện mang gen mã hóa
kháng thể VHH kháng kháng nguyên Ompa
Đoạn gen mã hóa kháng thể 53-VHH được
nhân lên và chèn vào vector biểu hiện pET21(a+)
tại vị trí BamHI và SacI. Kết quả trên Hình 3 cho
thấy xuất hiện băng ở vị trí 500 bp tương ứng với
gen mã hóa VHH kháng kháng nguyên Ompa,
điều này chứng tỏ rằng đoạn gen mã hóa kháng
thể 53-VHH đã được gắn thành công vào vector
tái tổ hợp pET21(a+) tại vị trí enzyme cắt giới
hạn BamHI và SacI. Các dòng E. coli tái tổ hợp
tiếp tục được kiểm tra bằng phản ứng colony-
PCR và xử lý bằng enzyme cắt giới hạn.
Kết quả phản ứng colony-PCR cho thấy,
đoạn gen mã hóa cho kháng thể VHH đặc hiệu
kháng nguyên Ompa đã được nhân lên đặc hiệu
trong dòng tế bào E.coli DH5α với đúng kích
thước tính toán lý thuyết (Hình 3A). Sự có mặt
của gen mã hóa kháng thể VHH trong plasmid
tái tổ hợp số 1 và số 2 được kiểm tra bằng cách
xử lý với XhoI và EcoRV. Kết quả điện di sản
phẩm cẳt cho thấy, cả hai dòng plasmid sau khi
xử lý với enzyme cắt giới hạn đều cho ra hai
băng có kích thước tương ứng là khoảng 4 kb và
1,7 kb tương ứng với kích thước tính toán lý
thuyết (Hình 3B). Điều này chứng tỏ các
plasmid được chọn đã mang gen VHH mong
Hồ Thị Thương et al.
536
muốn. Như vậy, vector biểu hiện pET-21a(+)
mang gen mã hóa kháng thể đặc hiệu kháng
nguyên Ompa của vi khuẩn gây bệnh vàng lá
gân xanh đã được thiết kế thành công.
Hình 2. Kết quả điện di sản phẩm PCR nhân gen mã hóa kháng thể kháng Ompa với cặp mồi PHEN/LMB3. 21,
33, 53, 56, 59: các dòng phage đơn, (-): đối chứng âm, (+): đối chứng dương sử dụng khuôn là phage đơn chứa
VHH tái tổ hợp kháng RRSV (A) và trình tự acid amin của kháng thể đơn chuỗi kháng Ompa (B).màu đỏ: CDR1,
màu xanh:CDR2, màu tím: CDR3
Hình 3. Kết quả thiết kế vector biểu hiện mang gen mã hóa kháng thể VHH kháng kháng nguyên Ompa (A) Kết
quả colony-PCR với cặp mồi VHH-F/VHH-R. 1, 2, 3: các dòng khuẩn lạc, (-): đối chứng âm (B). Kết quả xử lý
enzyme giới hạn XhoI và EcoRV. 1, 2: các plasmid tái tổ hợp.
Biểu hiện kháng thể đơn chuỗi VHH kháng
kháng nguyên Ompa
Trong vector biểu hiện pET-21a(+), hoạt
động mã hóa kháng thể VHH được điều khiển
bởi operon lac với cơ chế kiểm soát chặt chẽ bởi
chất cảm ứng IPTG. Để kiểm tra khả năng biểu
hiện tạo protein tái tổ hợp của chủng vi khuẩn
mang gen bgc, một khuẩn lạc E. coli BL21 (DE3)
mang gen mã hóa kháng thể đơn chuỗi VHH
kháng kháng nguyên Ompa được đem nuôi lắc
qua đêm trong môi trường LB lỏng có bổ sung
ampicillin 100mg/mL ở 37 oC. Sau đó tế bào
được làm mới bằng cách chuyển sang bình nuôi
cấy khác chứa môi trường LB- có bổ sung
ampicillin 100mg/mL sao cho OD600 ban đầu
chỉ đạt 0,1 và nuôi lắc ở cùng điều kiện đến khi
OD600 đạt từ 0,6 thì bổ sung IPTG đến nồng độ
cuối cùng là 0,1 mM và cảm ứng trong 5 h trong
điều kiện nuôi lắc ở 37 oC, 28 oC, 15 oC với tốc
độ lắc 200 rpm/min để tổng hợp kháng thể VHH.
Dòng đối chứng âm được chọn là vector
pET21a(+) không mang gen cũng được nuôi cấy
song song cùng điều kiện. Sau 5 h nuôi cấy,
chúng tôi tiến hành ly tâm thu sinh khối tế bào
sau đó đưa các mẫu về cùng OD600= 10 và thực
hiện phá vỡ tế bào bằng siêu âm. Tiếp theo mẫu
protein được biến tính bằng đệm biến tính và điện
di kiểm tra trên gel SDS-PAGE 12%.
Kết quả ở hình 4 cho thấy sự xuất hiện băng
protein có kích thước khoảng 20kDa, cao hơn so
với tính toán lý thuyết là 17,54 KDa, điều này
được giải thích vì trong phân tử protein VHH có 1
vị trí glycosyl hóa giữa CDR1 và CDR3, do vậy
điều này ảnh hưởng đến sự di chuyển của protein
trong quá trình phân tách bởi điện di SDS-PAGE.
Trong khi đó ở đường chạy đối chứng là chủng
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 529-541, 2020
537
không mang gen lại không xuất hiện băng protein
này, điều này chứng tỏ kháng thể VHH đã được
biểu hiện trong chủng E. coli BL21 (DE3) tái tổ
hợp. Tuy nhiên, khi thử biểu hiện kháng thể VHH
ở các nhiệt độ khác nhau như 37oC, 28oC và thậm
chí hạ nhiệt độ biểu hiện xuống là 15oC thì kháng
thể VHH chủ yếu tập trung ở pha không tan. Sự
biểu hiện của kháng thể VHH mạnh nhất là ở
37oC.
Trong nghiên cứu này đoạn gen mã hóa VHH
được thiết kế gắn đuôi c-myc để thuận tiện cho
phản ứng lai Western blot kiểm tra sự có mặt của
kháng thể VHH. Đồng thời đoạn gen mã hóa
VHH còn được gắn thêm 6xHis ở đầu 5’ để tiện
cho thí nghiệm tinh sạch. Kết quả kiểm tra sự
biểu hiện của kháng thể VHH kháng Ompa bằng
phản ứng Western blot sử dụng kháng thể kháng
c-myc được thể hiện trong hình 4B. Băng vạch
thu được trong Western blot có kích thước tương
tự như băng vạch được xác định trong Coomassie
blue. Từ kết quả trên ta nhận thấy, cả hai kháng
thể VHH đã được biểu hiện thành công trong
dòng tế bào E.coli BL21 (DE3) tái tổ hợp. Đồng
thời chúng tôi nhận thấy, kháng thể VHH chủ yếu
biểu hiện ở pha không tan, nên tiến hành tinh
sạch kháng thể VHH trong điều kiện biến tính
với Urea 8M.
Hình 4. Kết quả kiểm tra sự biểu hiện của kháng thể đơn chuỗi VHH kháng nguyên Ompa ở các nhiệt độ nuôi
cấy khác nhau bằng SDS-PAGE (A) và bằng Western blot (B). ở 37oC; B. ở 2 oC; C. ở 15oC. TS: protein tổng
số; T: protein pha tan; KT: protein pha không tan. Đối chứng (-): không cảm ứng IPTG.
Tinh sạch các kháng thể đơn chuỗi VHH
kháng kháng nguyên Ompa
Các kháng thể đơn chuỗi VHH kháng Ompa
được tinh sạch bằng sắc kí ái lực dựa vào His-tag
trong điều kiện biến tính. Kết quả tinh sạch được
kiểm tra bằng điện di SDS-PAGE, nhuộm
coomassie blue cho thấy đã tinh sạch thành công
các kháng thể VHH kháng Ompa ở điều kiện
biên tính (Hình 5A).
Quá trình tinh sạch kháng thể VHH kháng Ompa
cũng được xác nhận lại bằng phản ứng lai miễn
dịch Western blot sử dụng kháng thể kháng c-
myc (Hình 5B). Kết quả lai Western blot cho
thấy, kháng thể VHH kháng Ompa đã được tinh
sạch thành công, protein thu được có độ tinh sạch
khá cao, không lẫn các protein nền khác.
Kiểm tra độ nhạy của kháng thể đơn chuỗi
VHH kháng Ompa bằng các phản ứng ELISA
Độ nhạy của kháng thể VHH kháng kháng
nguyên Ompa của vi khuẩn gây bệnh vàng lá gân
xanh được kiểm tra bằng phản ứng ELISA gián
tiếp. Kháng nguyên Ompa của vi khuẩn gây bệnh
được pha loãng về các nồng độ 10 ng, 20 ng, 40
ng, 60 ng, 80 ng, 160 ng/giếng. Kết quả của phản
ứng ELISA gián tiếp được thể hiện ở hình 6.
Hồ Thị Thương et al.
538
Hình 5. Kết quả tinh sạch kháng thể đơn chuỗi VHH kháng kháng nguyên Ompa ở điều kiện biến tính. A. Kết
quả điện di SDS-PAGE, nhuộm Coomassie blue kiểm tra quá trình tinh sạch các kháng thể VHH kháng kháng
nguyên Ompa ở điều kiện biến tính. Các phân đoạn trong quá trình tinh sạch TS: protein tổng số, T: Protein hòa
tan, KTB: Protein ở pha cặn trước khi bổ sung 8M Urea, KTU: Protein ở pha cặn sau khi được bổ sung 8M Urea,
FT: protein không bám Ni-sepharose (GE), W1, W2: Pha rửa chảy qua cột, P: Protein tinh sạch thu được trong
8M Urea. B. Kết quả lai Western blot kiểm tra protein sau khi tinh sạch bằng kháng thể anti-cmyc. KTU: Protein
pha cặn sau khi bổ sung 8M Urea, FT: dịch chảy qua không bám Ni-NTA; W1, W2: Dịch chảy qua cột khi rửa;
P: Protein tinh sạch
Hình 6. Kết quả kiểm tra độ nhạy của các kháng thể VHH với các kháng nguyên vi khuẩn gây bệnh HLB bằng
phản ứng ELISA gián tiếp. Giá trị thực được tính sau khi trừ giá trị OD450 của sữa 5% trong PBS.
Từ kết quả phản ứng ELISA gián tiếp cho
thấy rằng, kháng thể VHH có ái lực tốt với
kháng nguyên Ompa, và với hàm lượng Ompa
nhỏ nhất là 10 ng/giếng (0,01ng/µl) đã cho tín
hiệu ELISA dương tính. Tín hiệu ELISA tăng
dần khi tăng hàm lượng kháng nguyên Ompa
tăng lên. Giá trị OD450 bằng 1,21 khi tăng hàm
lượng kháng nguyên Ompa lên 40 ng, 80 ng và
ở hàm lượng 160 ng thì tín hiệu ELISA đạt cao
nhất là 3,7. Qua đây có thể một lần nữa khẳng
định rằng, kháng thể đơn chuỗi VHH kháng
Ompa được tạo ra là có ái lực tốt với kháng
nguyên Ompa của vi khuẩn gây bệnh vàng lá
gân xanh. Yuan và đồng tác giả (2016) cũng đã
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 529-541, 2020
539
nghiên cứu tạo kháng thể đơn chuỗi scFv kháng
các protein bề mặt của CLas, trong đó kháng thể
đơn chuỗi scFv kháng Ompa cho giá trị ELISA
cao nhất (Yuan et al., 2016). Trong nghiên cứu
của Yuan và đồng tác giả, khi sử dụng dòng
kháng thể scFc kháng Ompa thì cho giá trị
OD450 bằng 1,01 tại nồng độ kháng nguyên
Ompa bằng 50 µg/mL, tương ứng với hàm
lượng Ompa tinh sạch sử dụng trong phản ứng
ELISA là 5 µg, hàm lượng này là cao gấp 125
lần so với hàm lượng Ompa cần dùng trong
nghiên cứu của chúng tôi. Như vậy, dòng kháng
thể VHH kháng Ompa của chúng tôi tạo ra là có
ái lực với kháng nguyên Ompa tinh sạch tốt hơn
so với dòng kháng thể scFv của Yuan và đồng
tác giả. Điều này mở ra triển vọng ứng dụng
kháng thể đơn chuỗi VHH trong việc phát hiện
bệnh vàng lá gân xanh trên cây có múi. Những
nghiên cứu tiếp theo sẽ tập trung vào việc đánh
giá khả năng sử dụng kháng thể đơn chuỗi VHH
trong việc phát hiện bệnh vàng lá gân xanh trên
cây có múi bằng các phương pháp như ELISA,
dot-blot...
KẾT LUẬN
Như vậy, trong nghiên cứu này, chúng tôi đã
thành công trong quá trình sàng lọc, thiết kế
vector biểu hiện và đánh giá hoạt tính của kháng
thể đơn chuỗi VHH kháng kháng nguyên Ompa
của vi khuẩn gây bệnh vàng lá gân xanh. Kháng
thể đơn chuỗi VHH tạo ra có ái lực tốt với kháng
nguyên Ompa. Điều này mở ra triển vọng ứng
dụng kháng thể đơn chuỗi VHH trong việc phát
hiện bệnh vàng lá gân xanh trên cây có múi.
Lời cảm ơn: Kết quả nghiên cứu này thuộc đề tài
“Nghiên cứu sản xuất KIT chẩn đoán bệnh vàng lá
greening và bệnh tàn lụi (CTV) trên cây có múi”,
thời gian thực hiện: 2017-2020, thuộc Chương trình
Công nghệ sinh học Nông nghiệp – Thuỷ sản, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Arredondo VR, Delgado OJC, Beltrán BM, Anguiano
CJ, Cerna CE, Rodríguez PY, Ochoa FYM (2016) A
review of techniques for detecting Huanglongbing
(greening) in citrus. Can J Microbiol 62: 803–811.
Bové JM (2006) Huanglongbing: Adestructive,
newly-emerging, century-old disease of citrus. JPP
88: 7–37.
Conrad U, Plagmann I, Malchow S, Sack M, Floss
DM, Kruglov AA, Nedospasov SA, Rose-John S,
Scheller J (2011) ELPylated anti-human TNF
therapeutic single-domain antibodies for prevention
of lethal septic shock. Plant Biotechnol J 9: 22–31.
Cortez-Retamozo V, Backmann N, Senter PD,
Wernery U, De BP, Muyldermans S, Revets H (2004)
Efficient cancer therapy with a nanobody-based
conjugate. Cancer Res 64: 2853–2857.
Da Graca JV (1991) Citrus greening disease. Annu
Rev Phytopathol 29: 109-136.
Deffar K, Shi H, Li L, Wang X, Zhu X (2009)
Nanobodies-the new concept in antibody engineering.
Afr J Biotechnol l8: 2645–2652.
Ding F, Duan Y, Paul C, Brlansky RH, Hartung JS
(2015) Localization and distribution of “Candidatus
Liberibacter asiaticus” in citrus and periwinkle by
direct tissue blot immuno assay with an Anti-Ompa
polyclonal antibody. PLOS ONE 10: e0123939.
Ding F, Duan Y, Yuan Q, Shao J, Hartung JS (2016)
Serological detection of ‘Candidatus Liberibacter
asiaticus’ in citrus, and identification by GeLC-
MS/MS of a chaperone protein responding to cellular
pathogens. Sci Rep 6: 29272.
Ding F, Paul C, Brlansky R, Hartung JS (2017)
Immune tissue print and immune capture-PCR for
diagnosis and detection of Candidatus Liberibacter
asiaticus. Sci Rep 7: 46467.
Garnier M, Gao SJ, He YL, Villechanoux S, Gandar
J, Bové JM (1991) Study of the Greening Organism
(GO) with Monoclonal Antibodies: Serological
Identification, Morphology, Serotypes and
Purification of the GO. IOCV, Riverside, California.
Gottwald TR (2010) Current epidemiological
understanding of citrus huanglongbing. Annu Rev
Phytopathol 48: 119–139.
Gottwald TR, da Gracia JV, Bassanezi RB (2007)
Citrus huanglongbing: the pathogen, its
epidemiology, and impact. Plant Health Progress.
Joosten V, Roelofs MS, van den Dries N, Goosen T,
Verrips CT, van den Hon-del CA, Lokman BC (2005)
Hồ Thị Thương et al.
540
Production of bifunctional proteins by Aspergillus
awamori: llama variable heavy chain antibody
fragment (VHH) R9 coupled to Arthromyces ramosus
peroxidase (ARP). J Biotechnol 120: 347–359.
Manfred G, Udo C (2009) Immunomodulation of
Plant Function by In Vitro Selected Single-Chain Fv
Intrabodies. Methods in Molecular Biology,
Recombinant Proteins From Plants, vol. 483 ©
Humana Press, a part of Springer Science+ Business
Media, LLC 2009.
Olichon A, Schweizer D, Muyldermans S, de Marco
A (2007) Heating as a rapid purification method for
recovering correctly-folded thermotolerant VH and
VHH domains. BMC Biotechnol 7: 83–94.
Rajabi BM, Rasaee MJ, Foruzandeh M, Rahimpour
A, Kiani J, Rahbarizadeh F, Alirezapour B,
Mohammad M (2007) Production of chimeric
recombinant single domain antibody-
greenfluorescent fusion protein in Chinese hamster
ovarycells. Hybridoma 26: 1–9.
Shen W, Halbert SE, Dickstein E, Manjunath KL,
Shimwela MM, van Bruggen AHC (2013)
Occurrence and in-grove distribution of citrus
Huanglongbing in North Central Florida. J Plant
Pathol 95: 361–371.
Teixeira DC, Saillard C, Couture C, Martins EC,
Wulff NA, Eveillard JS, Yamamoto PT, Ayres AJ,
Bové JM (2008) Distribution and quantification of
Candidatus Liberibacter americanus, agent of
huanglongbing disease of citrus in São Paulo State,
Brasil, in leaves of an affected sweet orange tree as
determined by PCR. Mol Cell Probes 22: 139–150.
Thomassen YE, Verkleij AJ, Boonstra J, Verrips CT
(2005) Specific produc-tion rate of VHH antibody
fragments by Saccharomyces cerevisiaeis correlated
with growth rate, independent of nutrient limitation. J
Biotechnol 118: 270–277.
Yuan Q, Jordan R, Brlansky RH, Minenkova O,
Hartung J (2016) Development of single chain
variable fragment (scFv) antibodies against surface
proteins of Ca. Liberibacter asiaticus. J Microbiol
Methods 122: 1-7.
PRODUCTION OF VHH ANTIBODY AGAINST OMPA PROTEIN OF
CANDIDATUS LIBERIBACTER ASIATICUS CAUSING CITRUS GREENING
DISEASE
Ho Thi Thuong1, Nguyen Thi Thom1, Nguyen Thi Tra1, Trinh Thai Vy1, Pham Bich Ngoc1, Le
Van Son1, Nguyen Thi Bich Ngoc2, Chu Hoang Ha1
1Institute of Biotechnology, Vietnam Academy of Science and Technology
2Plant Protection Research Institute. Vietnam Academy of Agricultural Sciences
SUMMARY
Citrus Greening, also known as HuangLongbing (HLB), is considered one of the most dangerous
citrus diseases, and limiting the production of citrus trees all over the world. Production of antibodies
against Ompa protein of Candidatus Liberibacter asiaticus (CLas) for detection of citrus greening
disease is considered as promising research direction. In this study, for the purpose of producting
antibodies against Ompa of CLas, we firstly used the camel VHH antibody library for screening VHH
antibodies against Ompa using phage-display technique. Next, phages which had strong interaction
with Ompa as shown in ELISA were selected for phagemid isolation and the DNA fragments
encoding VHH antibodies were sequenced. The DNA fragment encoding the best VHH antibody was
then selected and inserted into the expression vector pET-21a (+), then cloned in Ecoli DH5α strain
and expressed in BL21 (DE3) strain. The expression of VHH antibodies against Ompa was optimized
at different temperatures with an inductive concentration of 0.1 M IPTG. Anti-Ompa VHH antibodies
were purified under denatured conditions then re-folded. The biological activity of the VHH antibody
with Ompa antigen was assessed by indirect-ELISA reaction. Results indicated that the VHH
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(3): 529-541, 2020
541
antibody had a very strong interaction with the Ompa antigen. This opens up the prospect of applying
VHH antibody in the detection of citrus greening disease.
Keywords: Citrus greening disease, VHH antibody, Camel library, phage-display technique,
Candidatus Liberibacter asiaticus.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_tao_khang_the_don_chuoi_dac_hieu_khang_nguyen_omp.pdf