Bàn luận về thời gian điều trịnội trú theo thủ thuật
Can thiệp qua da ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong tim mạch hiện đại, cùng với sự phát
triển của các phương pháp can thiệp như động mạch
vành, động mạch ngoại vi, các thủ thuật thay van
động mạch chủ qua da hoặc kẹp van hai lá góp phần
giúp bệnh nhân rút ngắn ngày điều trị và nâng cao
chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Nghiên cứu
của Wayangankar và cộng sự trên 13.389 bệnh nhân
can thiệp động mạch chủ qua da cho thấy 55,1%
bệnh nhân được ra viện trong vòng 72 giờ và 44,9%
bệnh nhân ra viện sau 72 giờ. Các tác giả ghi nhận
sự chậm trễ khi ra viện liên quan tới các biến chứng
trong bệnh viện [5]. Tại Viện Tim mạch Việt Nam,
chúng tôi cũng đã làm được một số ca can thiệp
động mạch chủ qua da, tuy nhiên chúng tôi chưa có
số liệu thống kê đầy đủ về số ngày điều trị nội trú
trung bình của các bệnh nhân này. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, thời gian điều trị nội trú trung bình
của các bệnh nhân chụp động mạch vành là 6,7 ngày.
Thời gian điều trị nội trú trung bình dài nhất
thuộc về các bệnh nhân được mở khí quản, những
bệnh nhân này ở Đơn vị chúng tôi thường là các
bệnh nhân có tai biến mạch máu não (xuất huyết
não hoặc nhồi máu não) trên nền bệnh lý tim mạch
(rung nhĩ, bệnh lý van tim do thấp hoặc bệnh lý cơ
tim ), những bệnh nhân này có thời gian điều trị
nội trú trung bình là 20,3 ngày.
Các bệnh nhân phẫu thuật cấp cứu của chúng
tôi thường là các bệnh nhân hở van hai lá cấp hoặc
hở van động mạch chủ cấp do viêm nội tâm mạc
nhiễm trùng hoặc các bệnh nhân tách thành động
mạch chủ Standford typ A hoặc tách thành động
mạch chủ Standford typ B có biến chứng. Việc phẫu
thuật cấp cứu được tiến hành tại Đơn vị Phẫu thuật
Tim mạch tại Viện chúng tôi. Các bệnh nhân này
là các bệnh nhân được xác định rất nặng từ khi vào
viện cho tới khi phẫu thuật và hậu phẫu, họ có số
ngày điều trị nội trú trung bình dài là 17,9 ngày.
Các bệnh nhân dẫn lưu màng tim do tràn dịch
màng ngoài tim có thời gian điều trị nội trú trung
bình là 10,6 ngày. Những bệnh nhân này sau khi dẫn
lưu dịch màng ngoài tim, chúng tôi thường chuyển
đi các đơn vị khác trong Viện Tim mạch để theo
dõi tiến triển của dịch màng tim, chẩn đoán nguyên
nhân tràn dịch màng tim.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu thời gian điều trị nội trú trung bình của đơn vị cấp cứu và hồi sức tích cực tim mạch - viện tim mạch Việt Nam, bệnh viện Bạch Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
74 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
Nghiên cứu thời gian điều trị nội trú trung bình
của Đơn vị Cấp cứu và Hồi sức tích cực Tim mạch -
Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai
Tạ Mạnh Cường*, Văn Đức Hạnh*, Khổng Nam Hương*, Phạm Minh Tuấn*,**
Đặng Minh Hải*, Nguyễn Thu Hương*, Bùi Vĩnh Hà*,**, Phùng Thị Lan Anh*
Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai*
Trường Đại học Y Hà Nội**
TÓM TẮT
Nghiên cứu thời gian điều trị nội trú trung bình
của các bệnh nhân có bệnh lý tim mạch nặng giúp
bố trí các nguồn lực để cải thiện khâu chẩn đoán và
điều trị.
Mục tiêu: Nghiên cứu thời gian điều trị của các
bệnh nhân nhập viện tại Đơn vị Cấp cứu và Hồi sức
tích cực Tim Mạch, Viện Tim mạch Việt Nam trong
năm 2016.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên
cứu mô tả cắt ngang 3075 lượt bệnh nhân nhập viện
tại Đơn vị Cấp cứu và Hồi sức tích cực Tim mạch,
Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai
trong thời gian từ 01/01/2016 đến 31/12/2016.
Kết quả: Thời gian điều trị trung bình ± độ lệch
chuẩn: 7,1 ± 6,8 (ngày). Không có sự khác biệt về
thời gian điều trị nội trú trung bình giữa các nhóm
tuổi <50, từ 50 – 60 tuổi, 60 – 70 tuổi và ≥70 tuổi.
Những bệnh nhân điều trị nội trú dài ngày thường
là những bệnh nhân có bệnh lý tim mạch kèm
nhiễm trùng (viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, bệnh
tim mạch kèm viêm phổi, bệnh lý van tim do thấp)
hoặc các bệnh nhân cần làm thủ thuật hoặc phẫu
thuật (mở khí quản, phẫu thuật tim mạch cấp cứu).
Kết luận: Thời gian điều trị nội trú điều trị trung
bình của các bệnh nhân tại Đơn vị Cấp cứu và Hồi
sức tích cực Tim mạch khác nhau theo chẩn đoán
và thủ thuật. Các bệnh nhân có bệnh lý tim mạch
kèm nhiễm trùng, thủ thuật mở khí quản và phẫu
thuật cấp cứu có thời gian điều trị nội trú trung bình
dài hơn.
Từ khoá: Đơn vị Cấp cứu và Hồi sức tích cực
Tim mạch, thời gian điều trị nội trú.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiên cứu thời gian điều trị nội trú của các
bệnh nhân có bệnh lý tim mạch nặng cần nhập viện
tại Đơn vị Cấp cứu và Hồi sức tích cực Tim mạch
C1, Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai
giúp xác định các bệnh lý cần phải điều trị nội trú
lâu dài, từ đó giúp bệnh viện bố trí các nguồn lực để
tiếp cận chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời và rút ngắn
thời gian điều trị nội trú trong tương lai. Chưa có đề
tài nào tiến hành tìm hiểu thời gian điều trị nội trú
của các bệnh nhân nhập viện tại Đơn vị Cấp cứu và
Hồi sức tích cực Viện Tim mạch, Viện Tim mạch
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
75TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai về vấn đề này. Vì vậy,
chúng tôi tiến hành đề tài này với mục tiêu “Nghiên
cứu thời gian điều trị nội trú của các bệnh nhân vào
viện tại Đơn vị Cấp cứu và Hồi sức tích cực Tim
Mạch, Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch
Mai trong năm 2016”.
ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Là những bệnh nhân nhập viện tại Đơn vị Cấp
cứu và Hồi sức tích cực Tim mạch C1, Viện Tim
mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai trong thời
gian từ 01/01/2016 đến 31/12/2016.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được thu thập và xử lý bằng phần mềm
SPSS 20.0.
Các thuật toán được sử dụng gồm: trung bình,
độ lệch chuẩn, kiểm định t-test, kiểm định ANOVA.
Địa điểm nghiên cứu
Đơn vị Cấp cứu và Hồi sức tích cực tim mạch
C1, Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai.
Đạo đức nghiên cứu
Đề tài không vi phạm đạo đức trong khi tiến
hành và thực hiện nghiên cứu.
Các biến số nghiên cứu và phương pháp thu
thập số liệu
Các bệnh nhân nhập viện tại Đơn vị Cấp cứu
và Hồi sức tích cực Tim mạch C1, Viện Tim mạch
Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai được thu thập các
dữ liệu gồm: tuổi, giới tính, chẩn đoán khi ra viện
(nhồi máu cơ tim có đoạn ST chênh lên, nhồi máu
cơ tim không có đoạn ST chênh lên, đau thắt ngực
không ổn định, đau thắt ngực ổn định, suy tim, sốc
tim, rối loạn nhịp tim, thận nhân tạo chu kỳ, bệnh
tim mạch kèm viêm phổi, viêm nội tâm mạc nhiễm
khuẩn, tắc động mạch phổi, tắc tĩnh mạch sâu chi
dưới, bệnh lý van tim do thấp), các phương pháp
điều trị, thủ thuật (can thiệp động mạch vành, dẫn
lưu dịch màng ngoài tim cấp cứu, phẫu thuật tim
mạch cấp cứu, đặt nội khí quản cấp cứu).
Các bệnh nhân sau đó được tính thời gian điều
trị nội trú trung bình theo từng bệnh hoặc từng thủ
thuật.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ 01/01/2016 đến 31/12/2016,
có 3.075 lượt bệnh nhân nhập viện tại Đơn vị Cấp
cứu và Hồi sức tích cực Tim mạch, Viện Tim mạch
Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai.
Thời gian điều trị nội trú trung bình ± độ lệch
chuẩn: 7,1 ± 6,8 (ngày).
Thời gian điều trị nội trú trung bình theo nhóm
tuổi
Hình 1. Số ngày điều trị nội trú trung bình theo nhóm tuổi
Nhận xét: thời gian điều trị nội trú trung bình
của các nhóm tuổi không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
Thời gian điều trị nội trú trung bình theo chẩn
đoán
Bảng 1. Thời gian điều trị nội trú trung bình theo chẩn
đoán bệnh
Bệnh
Số lượt
bệnh nhân
(n = 3075)
Thời gian điều
trị nội trú trung
bình (ngày)
Suy tim cấp 1243 8,5 ± 7,6
Rối loạn nhịp tim 1085 7,3 ± 6,2
NMCT có ST chênh
lên
531 6,5 ± 5,9
6,9 ± 6,4
Tuổi
N
gà
y
20
0
< 50 50 - 60 60 - 70 ≥ 70
7,1 ± 7,1 7,2 ± 7,3 7,4 ± 6,4
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
76 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
NMCT không ST
chênh lên
179 7,1 ± 7,4
Đau ngực không ổn
định
336 5,8 ± 4,5
Đau ngực ổn định 34 7,2 ± 5,9
Bệnh tim mạch kèm
viêm phổi
445 10,0 ± 9,1
Rối loạn đông máu 284 6,9 ± 7,6
Phình động mạch chủ 158 6,0 ± 8,1
Sốc tim 93 6,5 ± 8,4
Viêm cơ tim 45 8,7 ± 5,2
Thận nhân tạo chu kỳ 48 7,8 ± 6,1
Viêm nội tâm mạc
nhiễm trùng
28 13,9 ± 11,8
Tắc động mạch phổi 18 9,1 ± 8,2
Tắc động mạch chi 47 5,2 ± 5,6
Bệnh van tim do thấp 405 8,9 ± 8,9
Nhận xét: Những bệnh nhân có thời gian điều
trị nội trú trung bình dài nhất là các bệnh nhân có
bệnh lý lây nhiễm như viêm nội tâm mạc nhiễm
trùng (13,9 ngày), bệnh tim mạch kèm viêm phổi
(10,0 ngày), bệnh lý van tim nặng do thấp (8,9
ngày). Các bệnh nhân có bệnh lý không lây nhiễm
thường có thời gian điều trị nội trú trung bình ít hơn:
suy tim cấp 8,5 ngày, nhồi máu cơ tim (NMCT) có
đoạn ST chênh lên 6,5 ngày.
Thời gian điều trị nội trú trung bình theo thủ thuật
Bảng 2. Thời gian điều trị nội trú trung bình theo thủ thuật
Bệnh lý
Số lượt
bệnh
nhân
Thời gian
điều trị nội
trú trung bình
(ngày)
Nhồi máu cơ tim phải can
thiệp động mạch vành
1136 6,7 ± 5,5
Đặt nội khí quản 849 7,9 ± 6,1
Kẹt van hai lá 5 9,4 ± 5,3
Dẫn lưu dịch màng tim 97 10,6 ± 8,8
Phẫu thuật cấp cứu 61 17,9 ± 12,7
Mở khí quản 29 20,3 ± 19,4
Nhận xét: Thời gian điều trị nội trú trung bình
dài nhất khi bệnh nhân được mở khí quản (20,3
ngày), phẫu thuật cấp cứu (17,9 ngày), dẫn lưu
màng tim (10,6 ngày). Thời gian điều trị nội trú
trung bình của nhóm bệnh nhân được can thiệp
động mạch vành là 6,7 ngày, của bệnh nhân đặt nội
khí quản là 7,9 ngày.
BÀN LUẬN
Bàn luận thời gian điều trị nội trú trung bình
theo nhóm tuổi
Đơn vị Cấp cứu và Hồi sức tích cực Tim mạch
C1 thuộc Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện
Bạch Mai được thành lập vào năm 2012, Đơn vị có
nhiệm vụ chăm sóc và điều trị tích cực cho các bệnh
nhân có bệnh lý tim mạch nặng, đe doạ tử vong.
Trong năm 2016, có 3.075 lượt bệnh nhân nhập
viện và điều trị nội trú tại Đơn vị chúng tôi, thời gian
điều trị nội trú trung bình của các bệnh nhân này là
7,1 ± 6,8 (ngày). Nghiên cứu của Maniou M tại Hy
Lạp năm 2012 thấy thời gian điều trị nội trú trung
bình của các bệnh nhân tim mạch là 5,3 ngày. [1].
Thời gian điều trị nội trú của các bệnh nhân trong
nghiên cứu của Maniou M ngắn hơn thời gian điều
trị nội trú trung bình của các bệnh nhân chúng tôi.
Nguyên nhân có thể là do tuổi trung bình của bệnh
nhân trong nghiên cứu của Maniou M (60,2 tuổi) ít
hơn tuổi trung bình của bệnh nhân chúng tôi (63,4
tuổi), ngoài ra cũng có thể do hệ thống Y tế Hy Lạp
khác Việt Nam, sau khi điều trị tại các Đơn vị Hồi
sức, các bác sỹ Hy Lạp sẽ chuyển bệnh nhân đến các
cơ sở y tế gần nhà hoặc chăm sóc tại nhà để theo
dõi tiếp, còn ở Việt Nam, chúng tôi thường điều trị
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
77TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
người bệnh tương đối ổn định trước khi ra viện, do
Việt Nam chưa phát triển mạnh hệ thống chăm sóc
tại nhà, đặc biệt cho các bệnh nhân nặng.
Chúng tôi nhận thấy thời gian điều trị nội trú
trung bình tại Đơn vị của chúng tôi không có sự
khác biệt theo các nhóm <50 tuổi, 50 – 60 tuổi,
60 – 70 tuổi và ≥70 tuổi. Nguyên nhân có thể do
tại Đơn vị chúng tôi, các bệnh nhân tương đối trẻ
thường nhập viện vì các bệnh lý van tim do thấp
hoặc viêm cơ tim, trong khi các bệnh nhân cao tuổi
hơn thường nhập viện vì bệnh tim mạch kèm viêm
phổi hoặc thận nhân tạo chu kì. Đây là những bệnh
lý có thời gian điều trị nội trú tương đối dài (xem
bảng 1). Vì vậy, chúng tôi không thấy có sự khác
biệt về thời gian điều trị nội trú trung bình giữa các
nhóm tuổi (p>0,05).
Bàn luận về thời gian điều trị nội trú theo chẩn
đoán bệnh
Nghiên cứu về thời gian điều trị nội trú trung
bình theo chẩn đoán bệnh, chúng tôi nhận thấy
những bệnh lý tim mạch nhiễm trùng có xu hướng
điều trị nội trú dài hơn so với các bệnh lý tim mạch
không nhiễm trùng. Cụ thể thời gian điều trị nội
trú trung bình của các bệnh nhân viêm nội tâm
mạc nhiễm trùng là 13,9 ngày, bệnh tim mạch kèm
viêm phổi là 10,0 ngày và bệnh lý van tim nặng do
thấp là 8,9 ngày. Trong khi các bệnh nhân có bệnh
lý không lây nhiễm như nhồi máu cơ tim (NMCT)
có ST chênh lên, NMCT không ST chênh lên, đau
ngực không ổn định, đau ngực ổn định hoặc suy
tim cấp có thời gian điều trị nội trú trung bình từ
5,8 – 8,5 ngày.
Đối với các bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm
trùng, trừ các trường hợp phải mổ cấp cứu (nhiễm
khuẩn không kiểm soát được bằng nội khoa, suy
tim không kiểm soát được bằng nội khoa, nhiễm
nấm), các bệnh nhân khác thường được điều
trị bằng kháng sinh trong thời gian tương đối dài
để kiểm soát chặt chẽ nhiễm khuẩn cũng như suy
tim trước khi bệnh nhân được gửi đi phẫu thuật. Vì
vậy thời gian điều trị nội trú của các bệnh nhân này
tương đối dài (trung bình là 13,9 ngày).
Đối với bệnh nhân bệnh tim mạch kèm viêm
phổi, đặc biệt là viêm phổi thở máy hoặc viêm phổi
bệnh viện, thời gian điều trị kéo dài do ban đầu bệnh
nhân thường phải dùng kháng sinh phổ rộng kết hợp
(kháng sinh kinh nghiệm), sau đó chờ kết quả kháng
sinh đồ để chỉnh kháng sinh, do đó thời gian điều trị
nội trú tương đối dài (trung bình 10,0 ngày).
Nghiên cứu của Zhang Z. và cộng sự trên các
bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn phải nằm tại các đơn vị
điều trị tích cực cho thấy những bệnh nhân có thời
gian điều trị nội trú kéo dài tại các đơn vị cấp cứu sẽ
có nguy cơ tử vong cao hơn [2].
Nghiên cứu của Every NR. và cộng sự đánh giá
số ngày điều trị nội trú trung bình của 11.932 bệnh
nhân NMCT tại 19 bệnh viện từ năm 1988 đến
năm 1994 cho thấy thời gian điều trị nội trú trung
bình giảm 29% trong quãng thời gian này. Cụ thể,
năm 1988 thời gian điều trị nội trú trung bình là
8,5 ngày thì đến năm 1994 thời gian điều trị nội trú
trung bình chỉ còn 6,0 ngày. Các tác giả nhận thấy
thời gian điều trị nội trú dài hơn ở những bệnh nhân
nữ giới, nhồi máu cơ tim thành trước, đang có suy
tim, đang bị đột quỵ hoặc tái NMCT trong bệnh
viện. Mặt khác những bệnh nhân được can thiệp
động mạch vành hoặc tiêu sợi huyết thì thời gian
điều trị nội trú trung bình ngắn hơn [3].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các bệnh nhân
suy tim cấp có thời gian điều trị nội trú trung bình là
8,5 ngày. Tác giả Juarez-Leon và cộng sự định nghĩa
thời gian điều trị nội trú trên 15 ngày được gọi là
điều trị nội trú kéo dài ở các bệnh nhân suy tim kèm
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Tác giả này
nghiên cứu 3.251 bệnh nhân COPD có tuổi trung
bình là 75,6 kết quả cho thấy tỷ lệ suy tim ở bệnh
nhân COPD là 5,5%, có 27,5% những bệnh nhân
COPD kèm suy tim có thời gian điều trị nội trú kéo
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
78 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
dài. Các tác giả nhận thấy những bệnh nhân điều
trị nội trú kéo dài có tỷ lệ bị tắc đông mạch phổi
cao hơn [4].
Bàn luận về thời gian điều trị nội trú theo thủ thuật
Can thiệp qua da ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong tim mạch hiện đại, cùng với sự phát
triển của các phương pháp can thiệp như động mạch
vành, động mạch ngoại vi, các thủ thuật thay van
động mạch chủ qua da hoặc kẹp van hai lá góp phần
giúp bệnh nhân rút ngắn ngày điều trị và nâng cao
chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Nghiên cứu
của Wayangankar và cộng sự trên 13.389 bệnh nhân
can thiệp động mạch chủ qua da cho thấy 55,1%
bệnh nhân được ra viện trong vòng 72 giờ và 44,9%
bệnh nhân ra viện sau 72 giờ. Các tác giả ghi nhận
sự chậm trễ khi ra viện liên quan tới các biến chứng
trong bệnh viện [5]. Tại Viện Tim mạch Việt Nam,
chúng tôi cũng đã làm được một số ca can thiệp
động mạch chủ qua da, tuy nhiên chúng tôi chưa có
số liệu thống kê đầy đủ về số ngày điều trị nội trú
trung bình của các bệnh nhân này. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, thời gian điều trị nội trú trung bình
của các bệnh nhân chụp động mạch vành là 6,7 ngày.
Thời gian điều trị nội trú trung bình dài nhất
thuộc về các bệnh nhân được mở khí quản, những
bệnh nhân này ở Đơn vị chúng tôi thường là các
bệnh nhân có tai biến mạch máu não (xuất huyết
não hoặc nhồi máu não) trên nền bệnh lý tim mạch
(rung nhĩ, bệnh lý van tim do thấp hoặc bệnh lý cơ
tim), những bệnh nhân này có thời gian điều trị
nội trú trung bình là 20,3 ngày.
Các bệnh nhân phẫu thuật cấp cứu của chúng
tôi thường là các bệnh nhân hở van hai lá cấp hoặc
hở van động mạch chủ cấp do viêm nội tâm mạc
nhiễm trùng hoặc các bệnh nhân tách thành động
mạch chủ Standford typ A hoặc tách thành động
mạch chủ Standford typ B có biến chứng. Việc phẫu
thuật cấp cứu được tiến hành tại Đơn vị Phẫu thuật
Tim mạch tại Viện chúng tôi. Các bệnh nhân này
là các bệnh nhân được xác định rất nặng từ khi vào
viện cho tới khi phẫu thuật và hậu phẫu, họ có số
ngày điều trị nội trú trung bình dài là 17,9 ngày.
Các bệnh nhân dẫn lưu màng tim do tràn dịch
màng ngoài tim có thời gian điều trị nội trú trung
bình là 10,6 ngày. Những bệnh nhân này sau khi dẫn
lưu dịch màng ngoài tim, chúng tôi thường chuyển
đi các đơn vị khác trong Viện Tim mạch để theo
dõi tiến triển của dịch màng tim, chẩn đoán nguyên
nhân tràn dịch màng tim.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu thời gian điều trị nội trú trung
bình của 3075 lượt bệnh nhân nhập viện tại Đơn vị
Cấp cứu và Hồi sức tích cực Tim mạch, chúng tôi có
một số kết luận:
- Thời gian điều trị nội trú trung bình ± độ lệch
chuẩn: 7,1 ± 6,8 (ngày).
- Không có sự khác biệt về thời gian điều trị nội
trú trung bình giữa các nhóm tuổi < 50, 50 – 60
tuổi, 60 – 70 tuổi và ≥ 70 tuổi.
- Các bệnh nhân có số ngày điều trị nội trú trung
bình là khác nhau giữa các bệnh lý. Những bệnh
nhân điều trị nội trú dài ngày thường là những bệnh
nhân có bệnh lý tim mạch nhiễm trùng như viêm
nội tâm mạc nhiễm trùng, bệnh tim mạch kèm
viêm phổi, bệnh lý van tim do thấp hoặc các bệnh
nhân cần làm thủ thuật mở khí quản hoặc các bệnh
nhân cần phẫu thuật tim mạch cấp cứu.
ABSTRACT
RESEARCH ON THE AVERAGE LENGTH OF HOSPITAL STAY AT ACUTE CARDIOVASCULAR
CARE UNIT IN VIETNAM NATIONAL HEART INSTITUTE, BACHMAI HOSPITAL
The average length of hospital stay for serious cardiovascular diseases at Acute Cardiovascular Care Unit
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
79TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
(ACCU) was researched in order to logically arrange various resources and improve treatment strategies.
Object: To investigate the average length of hospital stay for cardiovascular diseases at ACCU in
Vietnam National Heart Institute, Bachmai Hospital.
Methodology: A cross-sectional study was held on 3,075 patients at ACCU from 1st January to 31st
December, 2016.
Results: the average length of hospital stay was 7.1 ± 6.8 days. No significant differences were found
between age groups. Long length of hospital stay was witnessed in patients with infectious diseases (infective
endocarditis, rheumatic valvular diseases and cardiovascular disease concomitant with pneumonia) or
endotracheal intubation and emergency heart operation.
Conclutions: The average length of stay for cardiovascular disease patients was different from groups
and depended on diagnosis and treatment therapies. Long length of stay was observed in cardiovascular
disease patients with infective heart diseases, tracheostomy and emergency operation.
Keywords: Acute Cardiovascular Care Unit, length of hospital stay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Maniou M. Measurement of patients’ admissions to an intensive care unit of Crete. Health Science
Journal (2012). Volume 6, issue 3: 469-478.
2. Zhang Z, Bokhari F, Guo Y, et al. Prolonged length of stay in the emergency department and increased
risk of hospital mortality in patients with sepsis requiring ICU admission. Emerg Med J 2018;0:1–6.
doi:10.1136/emermed-2018-208032.
3. Every NR et al. Length of hospital stay after acute myocardial infarction in the Myocardial Infarction
Triage and Intervention (MITI) Project Registry. J Am Coll Cardiol (1996). Aug 28: 287293.
4. Juarez-Leon JE, Santellano-Juearez B, Orea-Tejeda A et al. Prolonged length of hospital stay associated
with the type of heart failure in patients with chronic obstructive pulmonary disease. European Respiratory
Journal 2016 48: PA1132; DOI: 10.1183/13993003.congress-2016.PA1132.
5. Wayangankar SA, Elgendy IY, Xiang Q et al. Length of Stay After Transfemoral Transcatheter Aortic
Valve Replacement. An Analysis of the Society of Thoracic Surgeons/American College of Cardiology
Transcatheter Valve Therapy Registry. J Am Coll Cardiol Intv 2019;12:422–30.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_thoi_gian_dieu_tri_noi_tru_trung_binh_cua_don_vi.pdf