Kết quả thuần hóa khả năng sử dụng thức ăn và thuần hóa các yếu tố môi trường cá
Ong bầu cho thấy:
- Cá tạp là loại thức ăn thích hợp nhất cho khả năng bắt mồi nhanh của cá Ong bầu.
Trong khi đó, cá Ong bầu sau 2 ngày mới thích nghi được khi sử dụng thức ăn công nghiệp.
Khả năng sử dụng hết thức ăn cá tạp của cá Ong bầu nhanh hơn so với thức ăn công nghiệp
lần lượt 5 ngày và 7 ngày.
- Ngưỡng nhiệt độ bắt đầu gây chết cá Ong bầu là 130C hoặc 370C. Đối với pH thì
ngưỡng giá trị trên và dưới gây chết cá là 9,5 và 4,5. Độ mặn thích hợp cho sự sinh trưởng và
phát triển của cá Ong bầu trong khoảng từ 5 ÷ 35‰, giá trị độ mặn 0‰ bắt đầu ghi nhận hiện
tượng chết ở cá
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 522 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu thuần hóa cá ong bầu (rhynchopelates oxyrhynchus temminck & schlegel, 1842) phục vụ sinh sản nhân tạo ở vùng đầm phá Thừa Thiên Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 2(2) - 2018 
759 
NGHIÊN CỨU THUẦN HÓA CÁ ONG BẦU (RHYNCHOPELATES 
OXYRHYNCHUS TEMMINCK & SCHLEGEL, 1842) PHỤC VỤ SINH SẢN 
NHÂN TẠO Ở VÙNG ĐẦM PHÁ THỪA THIÊN HUẾ 
Lê Minh Tuệ, Nguyễn Tử Minh, Trương Văn Đàn 
 Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế 
Liên hệ email: leminhtue@huaf.edu.vn 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu thuần hóa cá Ong bầu nhằm mục tiêu xác định ngưỡng điều kiện môi trường phục 
vụ cho việc thuần hóa cá bố mẹ Ong bầu đạt kết quả tốt. Thời gian thực hiện từ 5/1 – 8/5/2016. Cá Ong 
bầu phục vụ thí nghiệm được thu mua chủ yếu ở xã Quảng Công và thị trấn Thuận An. Các yếu tố môi 
trường theo dõi bao gồm nhiệt độ, hàm lượng oxy hoà tan (DO), pH, độ mặn và loại thức ăn ưa thích 
của cá. Kết quả cho thấy cá tạp là loại thức ăn ưa thích nhất cho cá Ong bầu, với tỷ lệ điểm đạt cao nhất 
vào ngày thứ 5, với thức ăn công nghiệp thì tỉ lệ điểm cao nhất đạt vào ngày thứ 7. Ngưỡng nhiệt độ 
chịu đựng của cá khá cao, dao động từ 16 ÷ 340C. Đối với pH môi trường nuôi thì ngưỡng giá trị trên 
và dưới gây chết cá là 4,5 và 9,5. Độ mặn thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cá Ong bầu trong 
khoảng từ 5 ÷ 35‰, hiện tượng cá chết được ghi nhận với độ mặn môi trường nuôi 0‰. 
Từ khóa: Cá Ong bầu, cá tạp, độ mặn, ngưỡng nhiệt độ, thuần hóa. 
 Nhận bài: 13/04/2018 Hoàn thành phản biện: 25/05/2017 Chấp nhận bài: 02/06/2018 
1. MỞ ĐẦU 
 Cá Ong bầu (Rhynchopelates oxyrhynchus) là một trong 8 loài thuộc họ cá Căng 
Terapontidae được phát hiện ở Việt Nam ( Lê Thị Thu Thảo và cs., 2012), là loài cá có giá trị 
kinh tế, với kích thước nhỏ, nhưng thịt béo, có mùi vị thơm ngon, và là loài cá đặc sản của 
vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở Việt Nam, cá Ong bầu chỉ xuất hiện chủ yếu ở 2 khu 
vực Bình Trị Thiên và khu vực Hạ Long, Quảng Ninh (Nguyễn Nhật Thi, 2008). Cá Ong bầu 
tiêu thụ trên thị trường hiện chủ yếu được khai thác từ tự nhiên. Tuy nhiên, gần đây tình trạng 
khai thác thủy sản theo hình thức tận diệt đã khiến cho hệ sinh thái đầm phá Tam Giang bị ảnh 
hưởng và nhiều loài thủy sản cạn kiệt và mất dần (Báo VOV). Cá Ong bầu cũng không nằm 
ngoài quy luật này, khi sản lượng liên tục giảm mạnh trong thời gian gần đây. Hiện nay, nguồn 
giống cá Ong bầu chủ yếu được thu vớt ngoài tự nhiên nên chưa thể chủ động nguồn giống 
nhân tạo và nguồn giống cá Ong bầu bố mẹ trong tự nhiên rất khan hiếm không đủ đáp ứng 
nhu cầu sinh sản nhân tạo. Bên cạnh đó môi trường nước bị biến đổi lớn, nhiều vùng đầm, phá 
bị ngọt hóa làm loài cá này khó thành thục. Chính vì vậy việc thuần hóa cá bố mẹ trong môi 
trường nhân tạo nhằm chủ động hoạt động sản xuất giống loài cá có giá trị kinh tế cao này 
mang ý nghĩa thiết thực và rất quan trọng. 
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
Thời gian nghiên cứu: từ ngày 05/01 – 08/05/2016 
Địa điểm nghiên cứu: Viện Nghiên cứu Phát triển, Trường Đại học Nông Lâm Huế, 
thôn An Dương – xã Phú Thuận – huyện Phú Vang – tỉnh Thừa Thiên Huế. 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 2(2) - 2018 
760 
2.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm thuần hóa thức ăn 
Cá Ong bầu được thu mua ở vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, chủ yếu ở xã Quảng 
Công và thị trấn Thuận An, tỉnh Thừa Thiên Huế với trọng lượng trung bình là 50 – 60 
(gram/con). Cá sau khi được thu thập về được giữ trong bể có các yếu tố môi trường tương 
đồng với các yếu tố môi trường nơi thu thập cá (nhiệt độ, pH, độ mặn) trong vài ngày để 
thuần hóa cá. Sau đó, cá được bố trí vào các thí nghiệm với mật độ 5 con/m3 và lượng thức ăn 
5% trọng lượng thân trong thời gian thí nghiệm 7 ngày, mỗi ngày cho ăn 1 lần. Mỗi nghiệm 
thức thí nghiệm được thực hiện 3 lần lặp lại với 3 người quan sát, thí nghiệm được bố trí trong 
các bể có thể tích 1 m3. Thời gian cá thích nghi với các loại thức ăn bao gồm thức ăn cá tạp và 
thức ăn công nghiệp (TACN); môi trường sống mới được đánh giá thông qua khả năng bắt 
mồi của cá. 
Bảng 1. Bố trí thí nghiệm thuần hóa thức ăn 
Lần lặp Lô thí nghiệm Ghi chú 
1 CT1 CT2 
CT1: 100% TACN 
CT2: 100% Thức ăn cá tạp 
2 CT2 CT1 
3 CT1 CT2 
Bảng 2. Thang điểm đánh giá khả năng bắt mồi 
Số điểm 
Nguyên tắc cho điểm 
(trong 5 phút sau khi cho ăn) 
0 không có cá bắt mồi 
1 có > 25% số cá trong bể bắt mồi 
2 có > 50% số cá trong bể bắt mồi 
3 có > 75% số cá trong bể bắt mồi 
4 có > 90% số cá trong bể bắt mồi 
Cá trước khi đưa vào thí nghiệm thuần hóa nhiệt độ môi trường sống sẽ được đưa về 
mức 250C và được thuần hóa nhiệt độ lần lượt ở mức ± 30C, nhiệt độ sẽ được duy trì trong 1 
ngày sau đó tăng và giảm nhiệt độ cho đến khi thấy cá có hiện tượng chết. Nhiệt độ trong suốt 
quá trình thí nghiệm được nâng bằng gậy nâng nhiệt và giảm nhiệt độ bằng đá đông lạnh đã 
làm vệ sinh. 
Bảng 3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm thuần hóa nhiệt độ 
Lần lặp 
Hạ nhiệt độ Đối chứng Nâng nhiệt độ 
Dãy 1 Dãy 2 Dãy 3 
1 130C 160C 190C 220C 250C 280C 310C 340C 370C 
2 130C 160C 190C 220C 250C 280C 310C 340C 370C 
3 130C 160C 190C 220C 250C 280C 310C 340C 370C 
Đối với thí nghiệm thuần hóa pH môi trường được thực hiện tương tự như nghiên cứu 
ảnh hưởng của nhiệt độ. Cá được đưa vào thí nghiệm đã được thuần hóa ở mức pH 7,5 trước 
khi tăng hay giảm pH lên mức cao nhất và mức thấp nhất. pH thay đổi ở mức ±1, và sẽ được 
tăng hay giảm sau 1 ngày. Trong quá trình thí nghiệm, pH được nâng bằng NAOH 1N và pH 
được giảm bằng HCl 1N. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 2(2) - 2018 
761 
Bảng 4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm thuần hóa pH 
Lần lặp 
Hạ pH Đối chứng Nâng pH 
Dãy 1 Dãy 2 Dãy 3 
Lần lặp 1 4,5 5,5 6,5 7,5 8,5 9,5 
Lần lặp 2 4,5 5,5 6,5 7,5 8,5 9,5 
Lần lặp 3 4,5 5,5 6,5 7,5 8,5 9,5 
Thí nghiệm thuần hóa cá với độ mặn được thực hiện ở nồng độ mặn 15‰ tương đương 
với độ mặn tại khu vực bắt cá trước khi tiến hành thí nghiệm. Độ mặn thay đổi ở mức ± 5‰, 
quá trình thay đổi độ mặn sẽ được thực hiện trong 1 ngày. Độ mặn được tăng hay giảm bằng 
NaCl hay nước ngọt đã qua xử lý. 
Bảng 5. Sơ đồ bố trí thí nghiệm thuần hóa độ mặn 
Lần lặp 
Ngọt hóa 5‰ Đối chứng Mặn hóa 5‰ 
Dãy 1 Dãy 2 Dãy 3 
1 0‰ 5‰ 10‰ 15‰ 20‰ 25‰ 30‰ 35‰ 
2 0‰ 5‰ 10‰ 15‰ 20‰ 25‰ 30‰ 35‰ 
3 0‰ 5‰ 10‰ 15‰ 20‰ 25‰ 30‰ 35‰ 
Các yếu tố môi trường nuôi được kiểm soát thường xuyên bao gồm nhiệt độ (0C) bằng 
nhiệt kế thủy ngân, nhiệt độ trong ngày được đo 2 lần vào 8h sáng và 14h chiều; các giá trị pH 
(pH meter, Mettler Toledo FE20, Thụy Điển) được đo vào 8h sáng hằng ngày, DO (DO meter, 
HQ40d, HACH, Mỹ), được đo vào 8h sáng hằng ngày và độ mặn được xác định bằng các máy 
đo đầu dò tự động (Salinity meter, Hanna HI931101, Mỹ), độ mặn được kiểm tra sau khi thay 
nước. Kết quả thí nghiệm được xử lý trên phần mềm Minitab 15 (2007). Xác định sai khác 
giữa các nghiệm thức với khoảng tin cậy 95%. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Khả năng thích nghi thức ăn công nghiệp và cá tạp của cá Ong bầu trong quá trình 
nuôi thuần hóa 
3.1.1. Sự biến động của các yếu tố môi trường nuôi thuần hóa 
Các yếu tố môi trường trong quá trình thuần hóa được theo dõi thường xuyên, chủ yếu là 
nhiệt độ, hàm lượng oxy hoà tan (DO), pH và độ mặn. Kết quả theo dõi các yếu tố môi trường 
được tổng hợp qua Bảng 6. 
Bảng 6. Biến động một số yếu tố môi trường nuôi trong quá trình thí nghiệm 
Yếu tố môi trường 
Công thức thức ăn 
CT1 CT2 
Min. Max. TB ± STD Min. Max. TB ± STD 
Nhiệt độ 
(oC) 
Sáng 17 24 21,4 ± 1,66 17 24,5 21,9 ± 1,94 
Chiều 18,5 25 23,1 ± 1,50 19 25,5 23,5 ± 1,75 
pH 7,4 8,4 7,91 ± 0,28 7,5 8,4 8,07 ± 0,22 
DO (mg/L) 4,0 5,5 4,77 ± 0,56 4,2 5,5 4,88 ± 0,58 
Độ mặn (‰) 20,5 27,8 24,2 ± 2,14 21 28,2 24,2 ± 1,99 
Ghi chú: TB, STD, Min, Max. lần lượt là giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị nhỏ nhất và giá trị lớn nhất. 
 Kết quả nghiên cứu cho thấy nhiệt độ môi trường nuôi dao động từ 17 - 25,50C. Nhiệt 
độ nước phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ của không khí nên vào những ngày ảnh hưởng bới không 
khí lạnh nhiệt độ nước thường thấp hơn những ngày nắng. Mặc dù nhiệt độ có sự biến động 
khá lớn nhưng các lần lặp lại của các công thức thí nghiệm được tiến hành cùng một thời gian 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 2(2) - 2018 
762 
nên cùng chịu tác động như nhau bởi các yếu tố môi trường. Giá trị pH trong bể thí nghiệm có 
sự biến động tương đối lớn trong khoảng 7,4 - 8,4. Trong đó, pH có sự chênh lệch buổi sáng 
và buổi chiều tương đối vì lượng phân thải và thức ăn thừa, tạo điều kiện cho phiêu sinh vật 
và vi tảo phát triển, quá trình hô hấp và quang hợp của chúng là nguyên nhân chính làm thay 
đổi pH. Sự biến động này cũng được ghi nhận đối với yếu tố độ mặn trong khoảng 20,5 – 
28,2‰ do phụ thuộc vào nguồn nước cấp trực tiếp từ biển. Khác với các yếu tố nhiệt độ, pH 
và độ mặn, giá trị hàm lượng oxy hòa tan ghi nhận được ở các nghiệm thức của thí nghiệm 
tương đối đồng nhất và biến động từ 4,0 - 5,5 mg/L. Như vậy, nhìn chung các yếu tố môi 
trường đều nằm trong ngưỡng giới hạn, hòan toàn thích hợp cho quá trình sinh trưởng và phát 
triển của cá Ong bầu. 
3.1.2. Đánh giá khả năng bắt mồi của cá Ong bầu trong quá trình thuần hóa 
Sự sinh trưởng và phát triển cá phụ thuộc rất nhiều vào khả năng sử dụng nguồn thức 
ăn được cung cấp trong quá trình sống. Qua đó, thời gian cá thích nghi với các loại thức ăn và 
môi trường sống mới được đánh giá thông qua tỷ lệ bắt mồi của cá. 
Bảng 7. Tỷ lệ cá bắt mồi ở các loại thức ăn khác nhau 
 Công thức 
 Ngày 
CT1 CT2 
TB ± STD (%) TB ± STD (%) 
1 0,0a ± 0,00 1,33b ± 0,57 
2 0,0a ± 0,00 2,00b ± 1,00 
3 1,00a ± 0,33 2,33b ± 0,57 
4 1,67a ± 1,00 3,33b ± 0,57 
5 3,00a ± 1,00 4,00a ± 0,00 
6 3,67a ± 0,57 4,00a ± 0,00 
7 4,00a ± 0,00 4,00a ± 0,00 
Chú thích: TB, STD, Min., Max. lần lượt là giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị nhỏ nhất và giá trị lớn nhất. 
Các giá trị trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
Kết quả từ Bảng 7 cho thấy, cá Ong bầu có khả năng thích nghi rất nhanh đối với 
nghiệm thức cho ăn cá tạp (CT2). Ở ngày đầu tiên và ngày thứ 2 cá ở CT1 không bắt mồi, 
trong khi đó cá ở CT2 đạt trung bình 1,33 (điểm), so sánh về mặt thống kê cho thấy có sự sai 
khác giữa các CT (p<0,05). Tỷ lệ cá bắt mồi ở CT2 tăng khá nhanh đạt 2,33 (điểm) vào ngày 
thứ 3, trong khi đó cá ở CT1 mới bắt đầu ăn thức ăn công nghiệp, đạt tỉ lệ 1,00 (điểm), so sánh 
về mặt thống kê giữa các CT cho thấy có sự sai khác (p < 0,05). Sang ngày thứ 5 tỷ lệ bắt mồi 
ở CT1 đã có sự thay đổi khá nhanh, khi tỷ lệ bắt mồi tăng gần gấp đôi so với ngày thứ 4 đạt 
lần lượt 3,00 (điểm) và 1,67 (điểm), trong khi đó tỷ lệ cá bắt mồi ở CT2 đạt điểm tuyệt đối vào 
ngày thứ 5 đạt 4,00 (điểm), tuy nhiên khi so sánh về mặt thống kê giữa các CT lại không có 
sự sai khác (p > 0,05). Cho đến ngày thứ 7 thì tỷ lệ bắt mồi ở 2 công thức đạt điểm tuyệt đối, 
so sánh về mặt thống kê không cho thấy sự sai khác (p > 0,05). 
Sự khác biệt về khả năng sử dụng các loại thức ăn khác nhau này được giải thích là 
do cá Ong bầu là loài cá dữ, ngoài tự nhiên thức ăn của chúng là các loài cá nhỏ nên cá không 
mất nhiều thời gian để thích nghi với thức ăn thí nghiệm là cá tạp. Ngược lại, trong thời gian 
nuôi ban đầu cá chưa quen sử dụng thức ăn công nghiệp nên phải mất tới 2 ngày để thích nghi. 
Như vậy, khi nuôi vỗ béo cá Ong bầu trong điều kiện nhân tạo, sử dụng thức ăn công nghiệp, 
trong 2 ngày đầu chỉ sử dụng một lượng nhỏ thức ăn cá làm quen, tránh dư thừa lãng phí và 
gây ô nhiễm nguồn nước. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 2(2) - 2018 
763 
3.2. Khả năng thích nghi của cá Ong bầu đối với sự biến đổi môi trường nuôi 
3.2.1. Khả năng thích nghi của cá Ong bầu với sự thay đổi về nhiệt độ môi trường nuôi 
Kết quả trình bày ở Bảng 8 cho thấy trong khoảng nhiệt độ từ 16 – 340C, hạ nhiệt độ 
và nâng nhiệt độ ở mức 30C không ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của cá Ong bầu, do 
đó tỷ lệ chết là 0%. Từ đó cho thấy cá Ong bầu là loài rộng nhiệt có thể chịu đựng nhiệt độ 
trong điều kiện thời tiết của tỉnh Thừa Thiên Huế, dao động trong khoảng 16 – 340C, cá vẫn 
sống tốt. Tuy nhiên, khi giảm nhiệt độ xuống 130C và lên 370C thì tỷ lệ chết xuất hiện với tỷ 
lệ lần lượt là 33,33% và 26,67%. 
Bảng 8. Khả năng chịu đựng của cá Ong bầu với sự thay đổi nhiệt độ 
Lô thí nghiệm Tỷ lệ chết (%) 
Hạ nhiệt độ (30C) 
130C 33,33b± 11,547 
160C 0,00a ± 0,000 
190C 0,00a ± 0,000 
220C 0,00a ± 0,000 
Đối chứng 250C 0,00a ± 0,000 
Nâng nhiệt độ (30C) 
280C 0,00a ± 0,000 
310C 0,00a ± 0,000 
340C 0,00a ± 0,000 
370C 26,67b± 11,547 
Ghi chú: Các giá trị thể hiện trên bảng là giá trị trung bình và độ lệch chuẩn. Các giá trị trong cùng một cột có 
các chữ cái khác nhau thì sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 
Các ghi nhận về cá ở nhiệt độ 340C như sau: màu sắc cá bình thường, màu sáng bóng, 
không có hiện tượng biến đổi màu; cá vẫn hoạt động bình thường, nhận thấy các lược mang 
hô hấp mạnh hơn. Có thể lý giải, khi nhiệt độ tăng tốc độ bão hòa HbO2 càng giảm, nhưng 
cường độ trao đổi chất tăng, làm cho hô hấp của cá tăng (Phạm Tân Tiến, 2010) 
Các ghi nhận về cá ở nhiệt độ 160C: màu sắc nhạt hơn so với bình thường, tuy nhiên 
cơ thể vẫn sáng bóng; cá bơi lội có vẻ chậm hơn so với bình thường, ngoài ra cũng trao đổi hô 
hấp ít lại. 
3.2.2. Khả năng thích nghi của cá Ong bầu với sự thay đổi về pH môi trường nuôi 
Bảng 9. Khả năng chịu đựng của cá Ong bầu với sự thay đổi pH 
Thí nghiệm Tỷ lệ chết (%) 
Hạ pH (1 giá trị) 
pH = 4,5 13,33b ± 11,547 
pH = 5,5 0,00a ± 0,000 
pH = 6,5 0,00a ± 0,000 
Đối chứng pH = 7,5 0,00a ± 0,000 
Nâng pH (1 giá trị) 
pH = 8,5 0,00a ± 0,000 
pH = 9,5 6,67c ± 11,577 
Ghi chú: Các giá trị thể hiện trên bảng là giá trị trung bình và độ lệch chuẩn. Các giá trị trong cùng một cột có 
các chữ cái khác nhau thì sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
Số liệu được trình bày ở Bảng 9 cho thấy, khi nâng hay giảm pH 1 đơn vị thì cá vẫn 
sống tốt trong ngưỡng pH từ 5,5 - 8,5. Tuy nhiên, ở pH = 4,5 và pH = 9,5 xuất hiện hiện tượng 
cá chết với tỷ lệ lần lượt là 13,33% và 6,67%. Như vậy, có thể kết luận ngưỡng chịu đựng pH 
của cá Ong bầu từ 5,5 - 8,5. 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 2(2) - 2018 
764 
Kết quả thí nghiệm cho thấy ở mức pH = 4,5 ghi nhận các hiện tượng về hình thái bên 
ngoài cá bao gồm một số vùng trên da trở nên đỏ, đồng thời làm giảm khả năng đề kháng của 
cá, mang tiết dịch nhầy ảnh hưởng lên chức năng mang và hoạt động của cá khiến cá giảm bơi 
lội, cá có hiện tượng bơi lờ đờ sau đó chết. Những quan sát về ảnh hưởng của mức pH thấp 
tương đồng với nhận định Phạm Tân Tiến (2010), khi pH quá thấp khiến cá tiết chất nhầy bám 
trên bề mặt mang làm ngăn cản quá trình trao đổi khí giữa máu và nước, và cá không còn khả 
năng hô hấp. 
Trong khi đó ở mức pH = 9,5, cá gia tăng tiết dịch nhầy và tổn thương mắt, mờ mắt; 
cá bơi lờ đờ và hô hấp mạnh hơn. Điều này được giải thích là do giá trị pH vượt ngưỡng có 
ảnh hưởng rõ rệt ở mất cân bằng áp suất thẩm thấu, suy giảm khả năng trao đổi khí ở mang 
làm tổn thương da vây, mang, khiến cho cá bị stress khi pH thay đổi quá cao (Nguyễn Phú 
Hòa, 2012) 
So sánh với các kết quả nghiên cứu đã được công bố cho thấy giá trị pH thấp gây chết 
của cá Ong bầu tương đương với cá Chép Cyprinus carpio (4,2 - 4,5) (Nguyễn Văn Kiểm, 
2004), nhưng lại cao hơn so với cá Sặc Rằn Trichogaster pectoralis (pH = 2,4) (Lê Phú Khởi, 
2010). Ngưỡng pH cao gây chết cá Ong bầu (pH = 9,5 - 10,5) tương đương với cá Chép (9,5 
- 10,8) (Nguyễn Văn Kiểm, 2004). Tuy nhiên, nếu so sánh với ngưỡng pH cao gây chết của cá 
Rô đồng (pH gây chết phôi là 11) và cá Sặc rằn (pH = 11,8) (Lê Phú Khởi, 2010) thì ngưỡng 
giá trị pH cao gây chết của cá Ong bầu thấp hơn rất nhiều. 
3.2.3. Khả năng thích nghi của cá Ong bầu với sự thay đổi về độ mặn môi trường nuôi 
Bảng 10. Khả năng chịu đựng của cá Ong bầu với sự thay đổi độ mặn 
Lô thí nghiệm Tỷ lệ chết (%) 
Ngọt hóa 5‰ 
0‰ 6,67b ± 11,547 
5‰ 0,00a ± 0,000 
10‰ 0,00a ± 0,000 
Đối chứng 15‰ 0,00a ± 0,000 
Mặn hóa 5‰ 
20‰ 0,00a ± 0,000 
25‰ 0,00a ± 0,000 
30‰ 0,00a ± 0,000 
35‰ 0,00a ± 0,000 
Ghi chú: Các giá trị thể hiện trên bảng là giá trị trung bình và độ lệch chuẩn. Các giá trị trong cùng một cột có 
các chữ cái khác nhau thì sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
Kết quả ghi nhận từ Bảng 10 cho thấy, trong ngưỡng độ mặn từ 5 ÷ 35‰, nếu thay đổi 
độ mặn 5‰, cá Ong bầu thích nghi và sống tốt với tỷ lệ chết 0%. Tuy nhiên, khi giảm độ mặn 
đến 0‰, cá Ong bầu đã bắt đầu có hiện tượng chết với tỷ lệ 6,67%. 
Trong môi trường thay đổi về độ mặn cá không có biến đổi về màu sắc, cơ thể vẫn 
duy trì độ sáng bóng ở mức độ mặn 5 – 35‰; đồng thời cá hoạt động bình thường không có 
hiện tượng lạ hay đột ngột chết. Kết quả cá vẫn hoạt động bình thường ở mức độ mặn 5 – 35‰ 
và ngọt hóa 0‰ thì có hiện tượng chết. Từ đó có thể nhận thấy cá Ong bầu là loài rộng muối 
có khả năng chịu đựng độ mặn từ 5 – 35‰ mà không chết; có khả năng sống ở độ mặn thấp 
và cao mà không có các hiện tượng đặc biệt. 
So sánh các nghiên cứu về mức độ mặn gây chết trên với các đối tượng cá khác cho 
thấy khả năng chịu đựng của cá Ong bầu về ngưỡng độ mặn cao hơn với cá Tai tượng 
Osphronemus goramy (11 – 13‰) (Nguyễn Trọng Quyền, 2011), cá Sặc rằn Trichogaster 
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 2(2) - 2018 
765 
pectogalis (3 – 9‰), (Lê Thị Phương Mai và cs., 2016), cá Mè trắng Hypophthalmichthys 
molitrix (9‰) (Oertzen, 1985) và cá Trắm cỏ Ctenopharyngodon idella (9,75‰), (Chervinski, 
1997). Theo Nguyễn Văn Thường (2010), độ mặn từ 5‰ đến 8‰ là độ mặn sinh lý chung của 
đa số thủy sinh vật. Như vậy, khả năng chịu đựng của cá Ong bầu cao hơn so với độ mặn sinh 
lý chung của đa số loài cá khác. Từ đó, có thể kết luận đây là loài có khả năng chịu đựng được 
điều kiện sống trong nước ngọt và sự biến đổi sốc của độ mặn trong thời gian ngắn. 
4. KẾT LUẬN 
Kết quả thuần hóa khả năng sử dụng thức ăn và thuần hóa các yếu tố môi trường cá 
Ong bầu cho thấy: 
- Cá tạp là loại thức ăn thích hợp nhất cho khả năng bắt mồi nhanh của cá Ong bầu. 
Trong khi đó, cá Ong bầu sau 2 ngày mới thích nghi được khi sử dụng thức ăn công nghiệp. 
Khả năng sử dụng hết thức ăn cá tạp của cá Ong bầu nhanh hơn so với thức ăn công nghiệp 
lần lượt 5 ngày và 7 ngày. 
- Ngưỡng nhiệt độ bắt đầu gây chết cá Ong bầu là 130C hoặc 370C. Đối với pH thì 
ngưỡng giá trị trên và dưới gây chết cá là 9,5 và 4,5. Độ mặn thích hợp cho sự sinh trưởng và 
phát triển của cá Ong bầu trong khoảng từ 5 ÷ 35‰, giá trị độ mặn 0‰ bắt đầu ghi nhận hiện 
tượng chết ở cá. 
LỜI CẢM ƠN 
Bài báo này là kết quả của đề tài NCKH cấp tỉnh được ngân sách nhà nước Thừa Thiên Huế 
đầu tư. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Tài liệu tiếng Việt 
Nguyễn Phú Hòa. (2012). Giáo trình Quản lý chất lượng nước trong nuôi trồng thủy sản. NXB Nông 
nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. 
Lê Phú Khởi. (2010). Ảnh hưởng của độ mặn, pH đến sự phát triển phôi và cá bột Rô đồng (Anabas 
testudineus). Luận văn cao học. Khoa Thủy Sản, trường Đại học Cần Thơ. 
Nguyễn Văn Kiểm. (2004). Một số đặc trưng hình thái, sinh thái – sinh hóa và di truyền ba loại hình 
cá Chép (Chép vàng, Chép trắng và Chép hung) ở đồng bằng sông Cửu Long. Luận án tiến sĩ 
Nông nghiệp. Trường đại học Cần Thơ. 
Lê Thị Phương Mai, Võ Nam Sơn, Đỗ Thị Thanh Hương, Dương Văn Ni và Trần Ngọc Hải. (2016). 
Đánh giá ảnh hưởng của độ mặn lên cá Sặc rằn (Trichogaster pectogalis) và khả năng nuôi cá 
ở tỉnh Hậu Giang trong điều kiện xâm nhập mặn do biến đổi khí hậu. Tạp chí khoa học, Trường 
Đai học Cần Thơ, 133 - 142. 
Lê Thị Thu Thảo, Nguyễn Phi Uy Vũ, Võ Văn Quang. (2012). Danh sách các loài cá Móm (Gerreidae), 
cá Lượng (Nemipteridae) và cá Căng (Teraponidae) ở vùng biển Việt Nam. Tuyển tập nghiên 
cứu biển, 119 - 126. 
Nguyễn Nhật Thi. (2008). Cá biển Việt Nam. NXB Khoa học kỹ thuật. 
Nguyễn Văn Thường. (2000). Giáo trình sinh thái thủy sinh vật. Trường Đại học Cần Thơ, 92 trang 
Phạm Tân Tiến. (2010). Cơ sở sinh lý cá và những ứng dụng vào thực tế sản xuất. NXB giáo dục, 219 
trang 
Báo VOV. (2018/4/ 14). Nhức nhối tình trạng đánh bắt bằng xung điện trên phá Tam Giang. Khai thác 
từ vov.vn/xa-hoi/nhuc-nhoi-tinh-trang-danh-bat-bang-xung-dien-tren-pha-tam-giang-623918.vov. 
2. Tài liệu tiếng nước ngoài 
Chervinski J. (1977). Note on the adaptability of silver carp (Hypophthalomichthys molitrix) and grass 
carp (Ctenopharyngodon idella) to various saline concentrations. Aquaculture, 179 - 182. 
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 2(2) - 2018 
766 
Oertzen J. (1985). Resistance and capacity adaptation of juvenile silver carp (Hypophthalmichthys 
molitrix), to temperature and salinity. Aquaculture, 321 - 332. 
STUDY ON DOMESTICATING BROODSTOCK RHYNCHOPELATES 
OXYRHYNCHUS (TEMMINCK & SCHLEGEL, 1842) FOR ARTIFICIAL 
REPRODUCTION IN THUA THIEN HUE PROVINCE 
Le Minh Tue, Nguyen Tu Minh, Truong Van Dan 
 Hue University – University of Agriculture and Forestry 
Contact email: leminhtue@huaf.edu.vn 
ABSTRACT 
The experimental domestication of (Rhynchopelates oxyrhynchus Temminck & Schlegel, 
1842) to determine threshold environmental conditions, serving domestication broodstock fish have a 
good result. The period time of experiments conducted 5/1- 8/5/2016. Broodstock fish collected from 
two main areas (Quang Cong commune and Thuan An town). The monitor environmental factors 
including temperature, dissolved oxygen, pH, salinity and favourable feed. The results showed that trash 
fish was the favourable feed of Rhynchopelates oxyrhynchus, with the highest score peaked at day 5. 
Smilarly, artificial pellet was reached highest score at day 7. The temperature threshold was wide with 
a range of 16 ÷ 340C, meanwhile the values for pH was recorded at 4.5 ÷ 9.5. The favourable salinity 
for the growth of Ong bau ranged from 5 to 35‰. Noticeably, the mortal phenomenon of Ong bau 
started at 0‰ of salinity. 
Key words: Ong bau, trashfish, salinity, temperature threshold, domestication. 
Received: 13th April 2018 Reviewed: 25th May 2018 Accepted: 2nd June 2018 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nghien_cuu_thuan_hoa_ca_ong_bau_rhynchopelates_oxyrhynchus_t.pdf nghien_cuu_thuan_hoa_ca_ong_bau_rhynchopelates_oxyrhynchus_t.pdf