Nghiên cứu này đánh giá tình hình vận dụng CMKT
trên một tỉnh mang đặc thù kinh tế vùng tây nguyên. Các
DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai chủ yếu là hoạt động
thương mại phục vụ và gần gũi với công tác sản xuất các
loại cây đặc thù của vùng như tiêu, cà phê, cao su. Nghiên
cứu này là bước khởi đầu cho các nghiên cứu sâu và rộng
hơn về tình hình vận dụng và các nhân tố ảnh hưởng đến
việc vận dụng các CMKT tại các DNNVV trên địa bàn tỉnh
để đánh giá một cách toàn diện hơn, góp phần giúp các DN
minh bạch và rõ ràng hơn trong các thông tin tài chính mà
DN mình công bố, tạo niềm tin tốt tới cộng đồng và các tổ
chức liên quan.
4 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 555 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu thực trạng vận dụng chuẩn mực kế toán của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Gia Lai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 8(129).2018 37
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIA LAI
RESEARCH ON APPLICATION OF ACCOUNTING STANDARD AT SMALL AND MEDIUM
SIZED ENTERPRISES IN GIA LAI PROVINCE
Nguyễn Thị Cẩm Vân1, Lê Thị Minh Hằng2
1Trường Trung cấp Lâm nghiệp Tây Nguyên; camvan266@gmail.com
2Đại học Đà Nẵng; hangdhdn@yahoo.com
Tóm tắt - Chuẩn mực kế toán (CMKT) là tập hợp các nguyên tắc,
các yêu cầu cơ bản để hướng dẫn người làm kế toán nhận thức,
ghi chép và phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. CMKT tạo
ra một hệ thống quan điểm hành xử thống nhất cho tất cả các kế
toán viên trong các doanh nghiệp. Việc vận dụng đúng CMKT là
một vấn đề rất quan trọng trong công tác kế toán với cả doanh
nghiệp và các tổ chức liên quan. Nghiên cứu này được thực hiện
để đánh giá tình hình vận dụng CMKT của các doanh nghiệp nhỏ
và vừa trên địa bàn tỉnh Gia Lai bằng cách tiến hành việc điều tra
thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn trực tiếp. Nghiên cứu đã đánh
giá được mức độ vận dụng CMKT thường xuyên hay không
thường xuyên của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Abstract - Accounting Standard consists of rules and basic
requirements to guide accountants through recognizing, recording
and reflecting potential economic operation. Accounting Standard
creates a united viewpoint system for accountants in enterprises.
Application of Accounting Standard plays an important role in
accounting work for both enterprises and other related
organizations. This study is conducted to evaluate Accounting
Standard application in small and medium -sized Enterprises in Gia
Lai province. The study is run by investigation via questionnaire
and direct interview. The levels of Accounting Standard application
in enterprises have been assessed by the study.
Từ khóa - Chuẩn mực kế toán; hệ thống kế toán; báo cáo tài chính;
kiểm toán; doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Key words - Accounting Standard; Accounting system; Financial
Report; Audit; Small and Medium – sized Enterprises.
1. Đặt vấn đề
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang
dần thiết lập các khuôn khổ pháp lý theo thông lệ các nước
nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng thông tin báo cáo
tài chính (BCTC). Tuy nhiên, thực trạng việc áp dụng
chuẩn mực kế toán (CMKT) của các doanh nghiệp (DN)
Việt Nam còn nhiều bất cập. Điều này xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau bởi những yếu tố về môi trường
pháp lý, kinh doanh và văn hóa, bởi sự đan xen và thiếu
tính thống nhất giữa CMKT và Luật kế toán cũng như chế
độ kế toán. Kế toán Việt Nam cần có những cải tiến nhất
định nhằm tạo sự hài hòa để hướng đến sự đồng bộ mang
tính hệ thống.
Cùng với quá trình đổi mới hệ thống Kế toán Việt Nam,
Bộ Tài Chính (BTC) đã nỗ lực soạn thảo và công bố
26 CMKT từ năm 2001 đến nay. Tuy nhiên, thực tế việc áp
dụng CMKT của các DN Việt Nam còn những tồn tại. Điều
này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Việc ban hành CMKT
đến vận dụng các chuẩn mực này như thế nào là cả một quá
trình và luôn gặp nhiều rào cản do các đặc trưng về kinh tế,
hệ thống pháp lý, năng lực và thói quen của các kế toán
viên [4]. Trong điều kiện hệ thống pháp lý về kế toán Việt
Nam đang hoàn thiện, ngoài hệ thống CMKT còn có chế
độ kế toán DN, mà ở đó quy định cụ thể hơn phương pháp
kế toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, việc áp dụng các
CMKT chung có đảm bảo một khung pháp lý tương đối
thống nhất, thuận lợi cho công tác quản lý Nhà nước hay
không, điều này đã tác động đến kế toán viên, họ nên dựa
vào chế độ kế toán hay CMKT để triển khai vận dụng?
Thực tế họ đã vận dụng CMKT tại các doanh nghiệp nhỏ
và vừa (DNNVV) như thế nào trong thời gian qua? Gia Lai
là một trong những tỉnh có các DNNVV hoạt động chiếm
tỷ lệ chủ yếu trên địa bàn tỉnh (chiếm 96%) hoạt động trên
nhiều lĩnh vực. Việc vận dụng CMKT tại các DNNVV trên
địa bàn tỉnh Gia Lai trong thời gian qua như thế nào? Bài
viết này sẽ nghiên cứu cụ thể thực trạng vận dụng CMKT
tại các DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm đánh giá thực trạng vận dụng
CMKT trong các DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai, cụ thể:
- Đánh giá các chuẩn mực vận dụng thường xuyên/
không thường xuyên trong DN;
- Mức độ đo lường và mức độ công bố thông tin các
chuẩn mực vận dụng.
Trên cơ sở đó, đánh giá những nguyên nhân chủ yếu chi
phối đến việc vận dụng CMKT trong các DNNVV trên địa
bàn tỉnh.
2.2. Phương pháp thu thập số liệu và thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu này dựa hoàn toàn vào số liệu sơ cấp. Để
thu thập được các dữ liệu cần thiết, nhóm tác giả đã thiết
kế một bảng câu hỏi điều tra có cấu trúc và tiến hành điều
tra để thu thập thông tin bằng cách phỏng vấn trực tiếp kế
toán trưởng hoặc kế toán viên của DN [1].
Tác giả sử dụng kỹ thuật phân tích định tính và các
thống kê mô tả căn bản để phân tích dữ liệu điều tra. Theo
cách thiết kế nghiên cứu, tác giả đã tiến hành khảo sát 340
DNNVV (tương ứng 340 phiếu), thu về 330 phiếu (đạt tỷ
lệ 97,06% trên số phiếu phát ra). Số phiếu hợp lệ 320 phiếu
(đạt tỷ lệ 96,97% phiếu thu về). Nội dung của bảng câu hỏi
liên quan đến một số vấn đề lớn:
- Những chuẩn mực nào được sử dụng trong DN;
- Vấn đề đo lường và công bố thông tin đối với những
38 Nguyễn Thị Cẩm Vân, Lê Thị Minh Hằng
chuẩn mực mà DN sử dụng thường xuyên;
- Những nhân tố tác động đến việc vận dụng CMKT.
Thời gian tiến hành khảo sát: từ 10/2/2017 đến 15/5/2017.
Thông tin chi tiết về mẫu nghiên cứu được mô tả trong
bảng sau :
Bảng 1. Số lượng DN điều tra theo ngành
Ngành Số lượng
Phần trăm
(%)
Phần trăm lũy
kế (%)
Sản xuất 53 16,56 16,56
Thương mại 168 52,50 69,06
Dịch vụ 60 18,75 87,81
Kết hợp 39 12,19 100
Tổng cộng 320 100
3. Kết quả nghiên cứu và bình luận
3.1. Tình hình vận dụng các CMKT
Thông qua yêu cầu người trả lời cho ý kiến ‘Có’ hay
‘Không’ [2] sử dụng các chuẩn mực trong 19 danh mục các
chuẩn mực áp dụng cho DNNVV. Qua kết quả khảo sát cho
thấy, tất cả các DNNVV đều vận dụng CMKT. Tuy nhiên,
mức độ vận dụng không giống nhau, dao động từ 26,3% -
89,5% nghĩa là DN vận dụng ít chuẩn mực nhất chỉ ở mức
26,3% trong khi DN vận dụng nhiều chuẩn mực nhất đạt
89,5%. Không có DN nào vận dụng 100% CMKT dùng cho
DNNVV trên địa bàn tỉnh. Dùng chỉ số thống kê Index
𝐼 = ∑ VAS19𝑖=1 /19 để tính mức độ vận dụng CMKT. Theo
thông tư 133/2016/TT – BTC – chế độ kế toán cho DNNVV
thì 19/26 chuẩn mực được vận dụng trong DNNVV tùy theo
đặc điểm của DN. Trong số 19 chuẩn mực đó, DN vận dụng
chuẩn mực nào, chuẩn mực nào không vận dụng. DN nào có
chỉ số index càng cao thì chứng tỏ DN đó vận dụng nhiều
chuẩn mực và ngược lại. Kết quả phân tích thống kê mô tả
cho thấy, tỉ lệ vận dụng các chuẩn mực không đồng đều, cụ
thể thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2. Tình hình vận dụng nhóm chuẩn mực trong DNNVV
CMKT N
Số lượng DN
vận dụng
Tỷ lệ DN có
vận dụng (%)
Chuẩn mực chung 320 281 87,8
Chuẩn mực hàng tồn kho 320 299 93,4
Chuẩn mực TSCĐ hữu hình 320 316 98,7
Chuẩn mực TSCĐ vô hình 320 317 99,0
Bất động sản đầu tư 320 164 51,3
Thuê Tài sản 320 170 53,1
Kế toán các khoản đầu tư
vào CTLK
320 46 14,3
Báo cáo bộ phận 320 1 0,31
Ảnh hưởng của việc thay
đổi TGHĐ
320 1 0,31
CM Doanh thu và Thu nhập
khác
320 310 96,8
Hợp đồng xây dựng 320 130 40,6
Chi phí đi vay 320 198 61,8
Thuế thu nhập DN 320 210 65,6
Các khoản dự phòng, nợ
tiềm tàng
320 97 30,3
Trình bày BCTC 320 315 98,4
Các sự kiện PS sau ngày kết
thúc KKT
320 169 52,8
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 320 127 39,7
Thông tin về các bên liên
quan
320 131 40,9
Thay đổi chính sách KT và
các sai sót
320 119 37,2
Qua kết quả phân tích cho thấy, trong 19 CMKT Việt Nam
áp dụng cho DNNVV thì mức độ vận dụng của các chuẩn
mực không đồng đều, cụ thể nhóm chuẩn mực mà các DN sử
dụng phổ biến nhất là những chuẩn mực liên quan đến các
hoạt động kinh doanh hằng ngày như chuẩn mực chung, mua
và bán hàng hóa dịch vụ, tài sản cố định, chuẩn mực hàng tồn
kho, doanh thu... Đặc biệt, chuẩn mực trình bày BCTC (VAS
21) chiếm 98,3% đã phản ánh những nguyên tắc kế toán cơ
bản trong đo lường và trình bày như là tham chiếu quan trọng
trong công tác kế toán ở DN. Tuy nhiên, một tỷ lệ vận dụng
các chuẩn mực chưa cao cho thấy người làm kế toán có thể
không biết hay chưa nhận thức được đầy đủ rằng các chuẩn
mực đã thể hiện phần nào trong các quy định thực hành kế
toán hàng ngày. Có một số chuẩn mực các DN không vận
dụng hoàn toàn hoặc vận dụng nhưng không thường xuyên
như chuẩn mực báo cáo bộ phận (VAS 08) và ảnh hưởng của
việc thay đổi tỷ giá hối đoái (VAS 10) chiếm 0,31%, chuẩn
mực đầu tư vào công ty liên kết (VAS 07) 14,3%,...
3.2. Tình hình đo lường và công bố thông tin
Dựa trên kết quả khảo sát và phân tích cho thấy, nhóm
chuẩn mực mà các DN vận dụng thường xuyên là các nhóm
có tỷ lệ vận dụng ở mức cao. Trên cơ sở đó, tác giả chọn ra
3 nhóm cơ bản để điều tra về mức độ đo lường và công bố
thông tin về chuẩn mực, đó là chuẩn mực hàng tồn kho,
chuẩn mực tài sản cố định và chuẩn mực doanh thu. Riêng
chuẩn mực về BCTC, tất cả các DN đều lập theo quy định
nên không đưa vào đánh giá ở khoản mục này. 3 nhóm
chuẩn mực này, cơ bản đại diện cho những hoạt động kinh
tế phát sinh hằng ngày hầu hết tại DN.
Kết quả ở nghiên cứu cho thấy:
- Đối với chuẩn mực hàng tồn kho: Ở mức độ đo lường,
hầu hết các DN đều áp dụng phương pháp xác định giá gốc,
giá hàng xuất kho và lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho
đều theo chuẩn mực, phương pháp được sử dụng nhiều nhất
là tính giá xuất kho theo phương pháp nhập trước xuất
trước (62%), phương pháp bình quân gia quyền (26%), còn
lại (12%) là tính giá theo phương pháp thực tế đích danh.
Về góc độ công bố thông tin liên quan đến hàng tồn kho,
hầu hết các DN chỉ công bố ở 2 khoản mục xác định giá gốc
và giá hàng xuất kho. Riêng thông tin về dự phòng giảm giá
hàng tồn kho ít được thể hiện trên BCTC, chỉ 29% DN công
bố thông tin liên quan đến khoản mục này. Điều này xuất phát
từ thực tế công tác kế toán tại DN, bản thân kế toán viên có
thể không quan tâm nhiều hoặc chưa hiểu rõ trong việc lập và
công bố thông tin đến khoản mục lập dự phòng giảm giá này.
- Đối với chuẩn mực tài sản cố định: Ở góc độ đo lường,
hầu hết các DN đều vận dụng chuẩn mực, 100% DN đều xác
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 8(129).2018 39
định nguyên tắc ghi nhận giá trị ban đầu và áp dụng các
phương pháp tính khấu hao TSCĐ, nguyên giá của TSCĐ
thỏa mãn đồng thời tất cả các tiêu chuẩn ghi nhận, DN đã
xác định được mức độ chắc chắn của việc thu lợi ích kinh tế
trong tương lại dựa trên các bằng chứng hiện có tại thời điểm
ghi nhận ban đầu và phải chịu rủi ro liên quan. Việc xử lý
sau ghi nhận ban đầu, DN áp dụng ngay cả khi có ảnh hưởng
thay đổi giá cả, các chi phí phát sinh sau ghi nhận được ghi
tăng giá trị tài sản nếu cải thiện trạng thái tiêu chuẩn ban đầu
của tài sản đó như làm tăng công suất sử dụng, giảm chi phí
hoạt động... Sau khi ghi nhận ban đầu, trong quá trình sử
dụng, tài sản được xác định theo nguyên giá, khấu hao lũy
kế và giá trị còn lại. Nếu có chênh lệch do đánh giá lại thì
được hạch toán theo quy định của nhà nước.
- Về vấn đề công bố thông tin, trên BCTC của các DN
đã thể hiện mức độ công bố thông tin theo chuẩn mực
tương đối cao (>80%) từ phương pháp xác định nguyên giá
đến bản thuyết minh BCTC. Trong quá trình vận dụng
chuẩn mực TSCĐ, đã thể hiện được tính hữu ích, cho phép
người sử dụng thông tin xem xét ở mức độ đúng đắn và có
cơ sở để so sánh giữa các DN với nhau.
- Đối với chuẩn mực doanh thu và thu nhập khác. Việc
xác định và ghi nhận các nguyên tắc về doanh thu bán hàng
chiếm tỷ lệ gần như tuyệt đối (>99%). Tất cả các DN đều
thể hiện sự chú trọng trong công tác đo lường và ghi nhận
doanh thu. Riêng khoản mục doanh thu và nguyên tắc ghi
nhận doanh thu từ hoạt động phát sinh lãi chiếm tỷ lệ không
cao. Điều này cho thấy, tỉ lệ các DN đầu tư liên kết liên
doanh hoặc gửi từ các tổ chức tín dụng không nhiều nên
các khoản ghi nhận và xác định doanh thu từ lãi thấp, các
DN tuân thủ và vận dụng những chuẩn mực liên quan đến
thực tế phát sinh và ghi nhận tại DN. Doanh thu được ghi
nhận theo nguyên tắc phù hợp khi đảm bảo là DN nhận
được lợi ích kinh tế từ giao dịch.
Từ những kết quả khảo sát thực tế ở các DNNVV trên
địa bàn tỉnh Gia Lai về mức độ vận dụng CMKT cho thấy:
Hầu hết các DN đều vận dụng các chuẩn mực, tuy nhiên
mức độ vận dụng giữa các DN không đồng đều. Các chuẩn
mực được vận dụng thường xuyên là các chuẩn mực gắn
liền với các nghiệp vụ phát sinh kinh tế hằng ngày đối với
DN như: chuẩn mực hàng tồn kho, tài sản cố định, doanh
thu... Điều này, thể hiện bản chất của tất cả các DN. DN
thành lập để hoạt động với mục đích kinh doanh và tạo ra
lợi nhuận. Những chuẩn mực này gắn liền với DN ngay từ
quá trình ban đầu hình thành, xuyên suốt trong quá trình
sản xuất, thương mại. Với đặc điểm riêng của tỉnh Gia Lai,
hơn 90% là DN thương mại nên việc ghi nhận đo lường các
loại hàng tồn kho và lập các khoản dự phòng liên quan đến
khoản mục đó là hoàn toàn cần thiết và quan trọng. Việc
lập BCTC là quy định của nhà nước nên các DN phải tuân
thủ để đảm bảo tính chấp hành cũng như tạo sự minh bạch
trong các thông tin tài chính của DN, tạo niềm tin trong
cộng đồng cũng như các tổ chức liên quan.
3.3. Những nhân tố tác động đến việc vận dụng CMKT
trong các DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai
Quá trình nghiên cứu được thông qua hai giai đoạn chính
đó là nghiên cứu thử nghiệm và nghiên cứu chính thức [7].
Trên cơ sở kết quả điều tra thử nghiệm, đặc thù trong
bối cảnh ở Việt Nam, các nhân tố ảnh hưởng đến việc vận
dụng các CMKT trong các DNNVV có những đặc trưng
riêng sau:
Khía cạnh văn hóa và pháp lý không được xem xét ảnh
hưởng trực tiếp đến mô hình. Tuy nhiên, các biến thể của
nó thể hiện qua đặc trưng pháp lý của hệ thống kế toán ở
Việt Nam. Theo đó, công việc kế toán được thực hành
thông qua hệ thống các văn bản dưới luật như chế độ kế
toán và các thông tư hướng dẫn chuẩn mực. Các văn bản
này không chỉ là tài liệu hướng dẫn mà còn thể hiện sự quản
lý thống nhất về mặt kế toán trên các phương diện: chứng
từ, tài khoản kế toán, qui định đo lường và hệ thống BCTC.
Với các đặc trưng pháp lý trên, biến thể của văn hóa được
hướng đến khía cạnh thứ nhất: vai trò cá nhân - tập thể tác
động đến các chiều của kế toán mà Gray [6] đề cập đến.
Nếu xét theo chiều hướng đó, có thể kỳ vọng ở môi trường
Việt Nam, tính độc lập về nghề nghiệp sẽ rất thấp, công
việc kế toán hướng đến sự thống nhất cao và ít quan tâm
công bố số liệu tài chính công khai.
Ảnh hưởng của tổ chức kiểm toán hay tác động của thuế
đối với công tác kế toán. Những nghiên cứu nguyên thủy
về vấn đề này thường liên quan đến mối quan hệ giữa việc
vận dụng CMKT quốc tế của các DN với các tổ chức kiểm
toán. Al-Baskeki (1995) cho rằng DN kiểm toán có ảnh
hưởng đáng kế đến việc quyết định của công ty trong việc
lựa chọn CMKT, đặc biệt là các chuẩn mực quốc tế. Nghiên
cứu này đã chỉ ra vai trò của các hãng kiểm toán độc lập
trong nhóm 4 hãng kiểm toán lớn trên thế giới. Nếu một
DN được kiểm toán bởi một trong các hãng kiểm toán lớn
thì thông thường, DN đó quan tâm nhiều hơn đến việc vận
dụng các CMKT quốc tế. Từ thực tiễn đó trên thế giới, liên
hệ với điều kiện Việt Nam, tác giả cho rằng, nếu BCTC của
một DN được kiểm toán thì mức độ vận dụng các CMKT
sẽ cao hơn những DN không yêu cầu bắt buộc kiểm toán
[3]. Tuy nhiên, ở Việt Nam qui định về kiểm toán chỉ áp
dụng bắt buộc cho các công ty yết giá trên sàn chứng
khoán, hoặc các tổng công ty nhà nước. Đối với các
DNNVV thì không yêu cầu bắt buộc kiểm toán. Điều này
đặt ra nghi vấn là áp lực cho việc tuân thủ CMKT cho
DNNVV ở Việt Nam còn rất thấp. Ở một khía cạnh khác,
những ý kiến chuyên gia và kết quả điều tra thử cho thấy,
công tác thuế ảnh hưởng rất lớn đến đo lường kế toán.
Những thay đổi trong quản lý DN từ khi Luật quản lý thuế
có hiệu lực từ 2007 cùng với đặc thù trên làm tác giả cũng
nghi vấn về tác động của thuế đối với công tác kế toán ở
các DNNVV. Vấn đề đặt ra là, việc không yêu cầu kiểm
toán và vai trò giám sát của thuế đối với công tác kế toán
yếu hơn trong điều kiện hiện nay sẽ ảnh hưởng đến vận
dụng CMKT trong các DNNVV.
Trình độ của kế toán viên. Lịch sử phát triển của kế toán
các nước cho thấy, sự phát triển của kế toán có liên quan
đến mức độ giáo dục và chuyên nghiệp của kế toán viên.
Nghiên cứu ở nhiều nước cho thấy kế toán có trình độ đại
học càng nhiều thì khả năng vận dụng các chuẩn mực ngày
càng cao. Đây là điều phù hợp vì những kiến thức trong
quá trình đào tạo sẽ giúp kế toán viên có nhận thức tốt hơn
về khoa học kế toán, có khả năng vận dụng, lựa chọn các
kỹ thuật, các chính sách kế toán phù hợp để tối đa hóa lợi
ích của DN mình. Do vậy, việc ban hành chuẩn mực và vận
40 Nguyễn Thị Cẩm Vân, Lê Thị Minh Hằng
dụng nó vào trong thực tiễn đòi hỏi kế toán viên phải có
những kiến thức nhất định và lĩnh hội những tư tưởng để
vận dụng các chuẩn mực vào công tác kế toán. Ở góc độ
này, tác giả cho rằng quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị
trường đã làm thay đổi nhiều trong nhận thức của người
làm kế toán, nên cần xem đây là một nhân tố không thể
thiếu. Mặc dù kết quả điều tra thử nghiệm còn chưa rõ ràng,
nhưng dự tính đây là một tác động không thể thiếu trong
việc vận dụng CMKT.
Nhận thức của chủ DN. Kế toán được xem là một công
cụ của người quản lý để kiểm tra, giám sát mọi hoạt động
và vận hành DN hoạt động có hiệu quả [5]. Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp, kế toán được vận dụng như là một
phương tiện để kê khai thuế theo quản lý của nhà nước, chứ
nhiều chủ DN chưa thật sự quan tâm đến vai trò quản lý
của kế toán. Ở góc độ đó, nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc
vận dụng CMKT ban hành cho DNNVV. Tác giả đưa nhân
tố này vào khảo sát để xem xét tác động của nó đến việc
vận dụng CMKT.
Lợi ích của việc vận dụng CMKT cũng được xem xét
trong mô hình này. Lợi ích của việc vận dụng được xem
xét ở khả năng tiếp cận các khoản tín dụng từ ngân hàng,
tính minh bạch của thông tin sẽ giúp tăng hình ảnh của DN
trong cộng đồng kinh doanh và từ đó sẽ tạo điều kiện mở
mang hoạt động kinh doanh.
Kết quả điều tra chính thức bằng nghiên cứu định lượng
đã kiểm định các thang đo và mô hình nghiên cứu. Các
thang đo này được kiểm định lại bằng phương pháp hệ số
tin cậy Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá
EFA. Sau khi kiểm định thang đo, các biến quan sát còn lại
được sử dụng để kiểm định mô hình lý thuyết và giá trị liên
hệ lý thuyết dựa vào đặc thù trong bối cảnh Việt Nam nói
chung, Gia Lai nói riêng đã cho thấy việc vận dụng CMKT
trong các DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai chịu ảnh
hưởng của 5 nhân tố chính đó là: Năng lực trình độ kế toán
viên, tài liệu hướng dẫn thực hành kế toán, ý kiến tư vấn từ
các tổ chức bên ngoài như kiểm toán và cơ quan thuế, yếu
tố pháp lý và lợi ích khi vận dụng CMKT cũng tác động
đến mô hình này, cụ thể:
VD = 0.209*NL + 0.204*TL + 0.194*TV
+ 0.185*PL + 0.161*LI (1)
Bảng 3. Phân tích hồi quy
Mô hình
Hệ số hồi quy
chưa chuẩn hóa
Hệ số hồi
quy Beta
chuẩn
hóa
t Sig.
Độ phóng
đại
phương
sai (VIF) B
Std.
Error
1
Hằng số .830
NL .230 .089 .209 2.596 .011 1.460
TL .173 .070 .204 2.463 .015 1.533
TV .167 .068 .194 2.435 .016 1.423
NT .027 .060 .034 .449 .654 1.267
PL .004 .043 .185 .088 .430 1.136
LI .091 .044 .161 2.085 .039 1.335
Từ kết quả nghiên cứu phương trình hồi quy có thể xác
định được vị trí ảnh hưởng của các biến độc lập đến việc
vận dụng CMKT tại các DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
Theo đó, đóng góp từng biến theo thứ tự giảm dần là: Biến
X1 đóng góp 20,9%, biến X2 đóng góp 20,4%, biến X3
đóng góp 19,4%, biến X4 đóng góp 18,5% và cuối cùng
thấp nhất là biến X5 đóng góp 16,1%%. Cả 5 biến này đều
có mối quan hệ tỷ lệ thuận với biến phụ thuộc là việc vận
dụng CMKT trong các DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
4. Kết luận
Việc tuân thủ và vận dụng các CMKT đóng một vai trò
rất quan trọng trong công tác kế toán và hoạt động quản lý
của DN. Nếu DN vận dụng nghiêm túc các CMKT sẽ tạo
ra được nhiều cơ hội kinh DN vì bản thân các chuẩn mực
các kế toán đã thể hiện tính minh bạch và chính xác trong
các nội dung đo lường và công bố thông tin. Tuy nhiện,
việc vận dụng các CMKT lại phụ thuộc nhiều vào chế độ
kế toán, mà chế độ kế toán thường xuyên thay đổi theo sự
phát triển kinh tế vĩ mô. Ở nước ta, tồn tại song song chuẩn
mực và chế độ kế toán. Điều này dễ dẫn đến sự nhầm lẫn
cho kế toán viên trong quá trình thực hiện. Họ không phân
biệt đươc rõ ràng ranh giới giữa chế độ và chuẩn mực.
Nghiên cứu này đánh giá tình hình vận dụng CMKT
trên một tỉnh mang đặc thù kinh tế vùng tây nguyên. Các
DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai chủ yếu là hoạt động
thương mại phục vụ và gần gũi với công tác sản xuất các
loại cây đặc thù của vùng như tiêu, cà phê, cao su... Nghiên
cứu này là bước khởi đầu cho các nghiên cứu sâu và rộng
hơn về tình hình vận dụng và các nhân tố ảnh hưởng đến
việc vận dụng các CMKT tại các DNNVV trên địa bàn tỉnh
để đánh giá một cách toàn diện hơn, góp phần giúp các DN
minh bạch và rõ ràng hơn trong các thông tin tài chính mà
DN mình công bố, tạo niềm tin tốt tới cộng đồng và các tổ
chức liên quan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Đình Khôi Nguyên (2010), “Bàn về mô hình các nhân tố ảnh
hưởng đễn việc vận dụng chế độ kế toán trong các doanh nghiệp vừa
và nhỏ”, Tạp chí Khoa học Công nghệ, Đại học Đà Nẵng. Số 5, trang
225 - 233.
[2] Hồ Phan Minh Đức (2013), “Nghiên cứu tình hình vận dụng chế độ
kế toán của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”,
Tạp chí Khoa học. Số 62, trang 45 – 53.
[3] Belkaoui, Ahmed and A. Kahl (1978), Corporate Financial
Disclosure in Canada, Research Monograph of the Canadian
Certified General Accountants Association, Vancouver.
[4] Chow, C.W., &Wong-Boren (1987), “Voluntary financial disclosure
by Mexican corporations”, The Accounting Review, 62 (3), pp.533-
541.
[5] Cooke, T. (1989). Disclosure in the corporate annual reports of
Swedish companies. Accounting and Business Research, 19 (74),
pp.113-124.
[6] Gray, S. J. (1988), “Towards a theory of cultural influence on the
development of accounting systems internationally”, Abacus, 24(1),
pp.1-15.
[7] Hair,J.(1995),MultivariateDataAnalysis,PrenticeHallInternational,
NewYork.
(BBT nhận bài: 25/5/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 15/6/2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_thuc_trang_van_dung_chuan_muc_ke_toan_cua_cac_doa.pdf