Nghiên cứu tình hình và các giải pháp nâng cao chất lượng điều trị sốt xuất huyết tại tỉnh Tiền Giang trong 5 năm (2002 – 2006)

KẾT LUẬN Qua nghiên cứu tình hình và các giải pháp nâng cao chất lượng điều trị SXH tại Tiền Giang từ năm 2002 – 2006, chúng tôi có những kết luận như sau: Tình hình mắc và tử vong SXH Trong 5 năm (2002 – 2006), Tiền Giang có tổng số 24.423 trường hợp mắc SXH, và 28 trường hợp tử vong do SXH. Tỉ lệ mắc/ 100.000 dân là 155,3; tỉ lệ chết/ mắc là 0,11%; tỉ lệ chết/ sốc là 0,86%. So với 20 tỉnh thành khu vực phía Nam và toàn quốc, Tiền Giang là tỉnh có số mắc SXH cao nhất. Tỉ lệ chết/ mắc, chết/ sốc so với các nước tiên tiến trong khu vực và các tỉnh thành trong cả nước thì không cao hơn, chứng tỏ khả năng điều trị cứu sống bệnh nhân SXH ở các tuyến y tế trong tỉnh có nhiều tiến bộ và đạt kết quả cao. Các giải pháp nâng cao chất lƣợng điều trị SXH + Tổ chức điều trị, lọc bệnh tốt: yếu tố đầu tiên giúp giảm tử vong + Đội ngũ điều trị và chăm sóc SXH được huấn luyện tốt, nhiệt tình: yếu tố quyết định chất lượng điều trị. + Cung cấp đầy đủ thuốc men, dịch truyền, trang thiết bị y tế: yếu tố quan trọng giúp giảm tử vong. + Nhân dân được giáo dục đầy đủ về SXH: yếu tố góp phần giảm tỉ lệ mắc bệnh và tử vong do SXH.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 297 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tình hình và các giải pháp nâng cao chất lượng điều trị sốt xuất huyết tại tỉnh Tiền Giang trong 5 năm (2002 – 2006), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghieân cöùu Y hoïc Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ Bản Soá 4 * 2007 Chuyên đề Nhi Khoa 42 NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐIỀU TRỊ SỐT XUẤT HUYẾT TẠI TỈNH TIỀN GIANG TRONG 5 NĂM (2002 – 2006) Tạ Văn Trầm*,Trần Thanh Hải* TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá tình hình SXH tại tỉnh Tiền Giang trong 5 năm (2002 – 2006) và đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng điều trị SXH. Phương pháp: Hồi cứu cắt ngang, mô tả có phân tích. Kết quả: Trong 5 năm (2002 – 2006), tỉnh Tiền Giang có 24.423 trường hợp SXH, 28 trường hợp tử vong. tỷ lệ mắc SXH/ 100.000 dân là 155,3; tỉ lệ chết/ mắc: 0,11%; tỉ lệ chết/ sốc: 0,86%. So với 20 tỉnh thành khu vực phía nam và trong cả nước, Tiền Giang là tỉnh có số mắc SXH cao nhất. Tỉ lệ chết/ mắc, tỉ lệ chết/ sốc phản ánh chất lượng điều trị SXH trong tỉnh có nhiều tiến bộ. Kết luận: Qua nghiên cứu này, tác giả đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng điều trị SXH là: tổ chức điều trị, lọc bệnh tốt; đội ngũ điều trị và chăm sóc được huấn luyện tốt; đảm bảo cung cấp đầy đủ dịch truyền, thuốc men và trang thiết bị y tế; người dân được giáo dục sức khỏe đầy đủ về SXH. ABSTRACT STUDY ON SITUATION AND APPROPRIATE MEASURES CONTRIBUTING TO ENHANCE THE QUALITY OF TREATMENT OF DEGUE HAEMORRHAGIC FEVER (DHF) IN TIEN GIANG PROVINCE DURING 2002 – 2006 Ta Van Tram, Tran Thanh Hai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 4 - 2007: 42 – 47 Objectives: evaluating the situation of DHF in Tien Giang province during 2002 – 2006 and recommending appropriate measures to enhance quality of treatment of DHF. Method: Descriptive, retrospective, cross – sectional and analytical study. Results: During 5 years (2002 – 2006), Tien Giang province had 24.423 cases of DHF, 28 cases of death, rate of DHF/ 100.000 population was 155,3. The case fatality rate of DHF was 0,11% and that of Dengue shock syndrome was 0,86%. Conclusion: Through this study, the author recommended the appropriate measures. These included proper organization and good selection of DHF patients in the hospital, improving case managament of DHF/ DSS patients by the medical staff at all levels of the health care system, supplying enough essential equipments, intravenous fluids and blood, education for the people on DHF. ĐẶT VẤN ĐỀ Sốt xuất huyết là một bệnh nhiễm trùng cấp tính, thường phát triển thành dịch do vi rút Dengue gây ra và lan truyền qua muỗi vằn Aedes aegypti. SXH ngày nay là vấn đề y tế quan trọng ở các nước vùng nhiệt đới, trong đó có nước ta. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), có khoảng 2,5 – 3 tỷ người thuộc 100 quốc gia trên thế giới có nguy cơ nhiễm virút Dengue. Hằng năm, có khoảng 20 triệu người bị nhiễm virút Dengue dẫn đến khoảng 25.000 trường hợp tử vong. Đây là 1 trong số các dịch bệnh gây mắc và tử vong cao nhất cho trẻ em hiện nay ở nước ta. Ở các tỉnh thành khu vực phía Nam, do địa hình, thời tiết, khí hậu và tập quán sinh hoạt của người dân luôn luôn phù hợp với sự sống, sinh sản * Bệnh Viện Đa Khoa Tiền Giang Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc và phát triển của muỗi vằn Aedes Aegypti nên tỷ lệ mắc SXH ở đây rất cao. Tiền Giang là tỉnh thuộc Đồng bằng Cửu long có dịch SXH xảy ra hàng năm. So với 20 tỉnh thành khu vực phía Nam, Tiền Giang là tỉnh có số mắc SXH cao nhất trong những năm gần đây. Trong 5 năm (2002 – 2006), Tiền Giang có tổng số ca mắc SXH là 24.423 trường hợp. Đề tài này nhằm đánh giá tình hình SXH 5 năm (2002 – 2006) tại tỉnh Tiền Giang và đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng điều trị SXH. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phƣơng pháp nghiên cứu Hồi cứu cắt ngang mô tả và phân tích Đối tƣợng Số mắc SXH trong toàn tỉnh từ 2002 – 2006 theo số liệu báo cáo của tất cả các cơ sở điều trị trong tỉnh Tiền Giang, có tham khảo số liệu của Trung tâm Y tế dự phòng Tiền Giang và Viện Pasteur Tp Hồ Chí Minh. Đánh giá tình hình tổ chức, quản lý, điều trị bệnh SXH trong toàn tỉnh nhằm tìm ra các biện pháp nâng cao chất lượng điều trị SXH. KẾT QUẢ Tình hình mắc và tử vong SXH tại Tiền Giang từ năm 2002 - 2006 Bảng 1: Tình hình mắc và tử vong SXH Năm TS TS TS mắc chung Tử vong Chết/ mắc Chết/ sốc Độ I -II Độ III - IV 2002 1802 310 2112 2 0,1 0,65 2003 6500 1057 7557 8 0,13 0,75 2004 5375 709 6084 10 0,16 1,40 2005 3715 558 4273 5 0,11 0,9 2006 3805 492 4297 3 0,06 0,6 Tổng số 21.197 3.116 24.432 28 0,11 0,86 Bảng 2: Tình hình giám sát huyết thanh và vi rút Dengue D1 D2 D3 D4 TS mẫu % MAC-ELISA % XN (+) TS mẫu 04 24 01 25 343 21 2472 3987 62 Nhận xét: Lưu hành 4 chủng vi rút Dengue 1,2,3,4; trong đó, chủng Dengue 2 và Dengue 4 phát hiện nhiều nhất, Dengue 1 có xu hướng tăng trong năm 2006 so với 2005 và các năm trước. Tổ chức quản lý và điều trị SXH Bảng 3: Huấn luyện cho Bác sĩ và Điều dưỡng ở các tuyến Năm Tuyến TW Tuyến tỉnh Tuyến Huyện, xã Y tế tư BS ĐD BS số lượn g ĐD số lượn g Cán bộ Y tế số lượn g BS số lượn g 2002 2 lớp 3 lớp 3 lớp 64 3 lớp 64 9 lớp 354 2003 2 lớp 2 lớp 2 lớp 60 2 lớp 60 9 lớp 300 2 lớp 150 2004 3 lớp 2 lớp 2 lớp 80 3 lớp 79 9 lớp 300 2005 2 lớp 2 lớp 2 lớp 58 2 lớp 60 9 lớp 300 2006 2 lớp 2 lớp 2 lớp 60 2 lớp 60 9 lớp 280 2 lớp 300 TS 11 lớp 11 lớp 11 lớp 322 12 lớp 323 45 lớp 1.534 4 lớp 450 Thuốc dịch truyền, trang thiết bị y tế Thiết yếu: Nâng cao Điện giải Cao phân tử Máu tươi Máy đo Hct Đếm tiểu cầu Máy đếm giọt Bơm tiêm tự động Máy đo SpO2 Mask có túi dự trữ N CPAP Catheter đo CVP Máy giúp thở Khí máu động mạch Test đông máu toàn bộ Huyết tương tươi đông lạnh XQ tại chỗ Giáo dục sức khỏe về SXH. Truyền thông trong trường học. Truyền thông đại chúng. Tập huấn cho giáo viên Sinh hoạt dưới cờ Học sinh quản lý hộ gia đình Tham gia chiến dịch diệt lăng quăng Truyền hình Truyền Thanh Băng cassete Phim Video Bài báo Bướm (tờ rơi), áp phích. Nghieân cöùu Y hoïc Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ Bản Soá 4 * 2007 Chuyên đề Nhi Khoa 44 BÀN LUẬN Tình hình mắc và tử vong do SXH từ năm 2002 – 2006 tại Tiền Giang Tình hình mắc SXH: Sau vụ dịch đầu tiên xuất hiện ở huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang năm 1960, đã được Zéville mô tả đầy đủ và xác định là SXH, bệnh liên tục xảy ra trong những năm tiếp theo và phát thành dịch lớn vào các năm 1979, 1983, 1987, 1988. Qua kết quả nghiên cứu 5 năm từ năm 2002 – 2006, Tiền Giang có 24.423 trường hợp mắc SXH và 28 trường hợp tử vong. Tỷ lệ mắc/100.000 dân là 155,3. Số mắc trung bình 5 năm của Tiền Giang là 4885/ năm. So với 20 tỉnh thành khu vực phía Nam và trong cả nước, Tiền Giang là tỉnh có số trường hợp mắc SXH cao nhất. Qua kết quả này cho thấy, SXH là bệnh dịch lưu hành ở mức độ nặng, xuất hiện khắp các thị thành trong toàn tỉnh vào mọi tháng trong năm. Với đặc tính phân bố của các yếu tố thời tiết, khí hậu trong năm tại Tiền Giang thường xuyên đạt mức khá cao và tương đối ổn định (từ 25,9 – 28,9OC đối với nhiệt độ, 80,5% - 87,1% đối với độ ẩm), cùng với lượng mưa nhiều vào 6 tháng cuối năm và tập quán sinh hoạt của người dân Tiền Giang, là những điều kiện thuận lợi cho Aedes aegypty sinh sản, phát triển và lan truyền virút Dengue, dẫn đến sự xuất hiện của SXH quanh năm, có thể phát thành dịch ở các tháng mưa nhiều. Mặc dù trong thời gian vừa qua, việc xã hội hóa công tác phòng chống SXH trong cả nước nói chung và ở Tiền Giang nói riêng, việc phòng chống SXH chủ yếu dựa vào cộng đồng đề tham gia diệt muỗi truyền bệnh, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ của các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội và sự tham gia hưởng ứng mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, việc hạ thấp tỉ lệ mắc bệnh SXH vẫn còn gặp nhiều khó khăn, tốn kém, mất nhiều thời gian, nhưng hiệu quả rất giới hạn mà trong thời gian tới cần phải có sự quyết tâm, ý chí tiến công của ngành y tế và toàn xã hội để thực hiện việc quản lý muỗi dựa vào cộng đồng. Tỉ lệ SXH nặng (SXH độ III-IV)/ số mắc là 12%, nói chung là thấp so với ước tính của TCYTTG là khoảng 30%. Như vậy, số trường hợp độ I-II đã được báo cáo nhiều, đã làm cho tổng số mắc SXH tăng cao. Điều này gợi ý cho chúng ta cần phải chú ý đến sự chính xác trong chẩn đoán SXH. Tỉ lệ chết/ mắc là 0,11%, so với tỉ lệ chết/ mắc giai đoạn 1996 – 2000 là 0,24%, giảm 54%. Điều này nói lên khả năng điều trị SXH trong tỉnh có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác hiệu quả điều trị SXH, cần khảo sát tỉ lệ chết/ sốc vì tỉ lệ này phản ánh chất lượng điều trị, cứu sống bệnh nhân. Qua khảo sát tỉ lệ chết/ sốc 0,86%; so với các nước tiên tiến trong khu vực và các tỉnh thành khu vực phía Nam thì không cao hơn. Điều này chứng tỏ khả năng điều trị cứu sống bệnh nhân SXH ở các tuyến y tế trong tỉnh có nhiều tiến bộ và đạt kết quả cao. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều trường hợp tử vong do SXH hàng năm mà một trong những mục tiêu quan trọng của chương trình phòng chống SXH quốc gia là giảm tử vong do SXH, đòi hỏi ngành y tế, đặc biệt là hệ điều trị trong tỉnh cần phải phấn đấu hơn nữa trong thời gian tới. Tình hình giám sát huyết thanh, virut Dengue Tỉ lệ phân lập virút Dengue dương tính trong năm là cao hơn so với trung bình 5 năm 1996 – 2000. Cả 04 týp virút Dengue đồng lưu hành tại Tiền Giang trong 5 năm qua với týp Dengue 2 chiếm ưu thế rõ rệt. Tỉ lệ xét nghiệm MAC - ELISA dương tính tăng dần theo các năm và tất cả các tháng trong năm đều có bệnh nhân bị nhiễm virút Dengue trong cộng đồng. Các giải pháp nâng cao hiệu quả điều trị SXH tại Tiền Giang Tổ chức lọc bệnh nhân và điều trị Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc Yêu cầu đầu tiên giúp giảm tử vong do SXH. SXH ở Tiền Giang trong những năm qua phát triển mạnh cả về số lượng mắc bệnh và chu kỳ dịch. Cả 04 týp huyết thanh đã lưu hành tại đây và số lượng mắc SXH hàng năm ngày càng gia tăng. Tất nhiên không phải mọi ca bệnh SXH đều được nhập viện điều trị. Theo TCYTTG, người nhiễm virút Dengue có triệu chứng phát bệnh chỉ chiếm 5%, còn 95% bị muỗi vằn đốt và nhiễm virút Dengue nhưng không có triệu chứng bệnh. Đây mới chính là tảng băng chìm trong vấn đề phòng bệnh và là nguồn lây bệnh quan trọng trong cộng đồng. Dĩ nhiên là tất cả các trường hợp SXH khi đã biểu hiện bệnh đều được chẩn đoán sớm, theo dõi sát và xử lý thích hợp. Tuy nhiên, trong những trường hợp SXH tại thời điểm khám bệnh có những trường hợp SXH thể nhẹ. Đây là những trường hợp có dấu hiệu sốt từ 2 – 7 ngày, không ho, không sổ mũi, có thể phát ban ngoài da, kèm đau nhức cơ, đau sau hốc mắt < và tự phục hồi sức khỏe sau khoảng 1 tuần, ngoài ra không có triệu chứng gì khác. Những trường hợp này rất dễ nhầm lẫn với những bệnh nhân nhiễm siêu vi thông thường vì giai đoạn đầu cũng xuất hiện bệnh cảnh như SXH. Vấn đề đặt ra là có nên cho tất cả các trường hợp SXH nhập viện. Câu trả lời là rất khó thực hiện. Cái khó ở đây không phải là y bác sĩ ngại khó, ngại khổ mà số lượng giường bệnh của cơ sở y tế có hạn trong khi người bị SXH rất đông, nhất là trong thời điểm đỉnh dịch xảy ra. Hơn nữa, trong các trường hợp mắc SXH thì có khoảng 70% ở thể nhẹ, bệnh nhân có thể phục hồi sau một tuần chỉ có 30% là có dấu hiệu chuyển nặng, có thể dẫn đến sốc, xuất huyết phủ tạng, suy hô hấp, sốc kéo dài, SXH thể não< bắt buộc phải nhập viện để điều trị. Bên cạnh đó, nếu 70% bệnh nhân SXH ở thể nhẹ nhập viện còn kéo theo người thân phải bỏ công ăn việc làm để vào bệnh viện chăm sóc người bệnh chưa kể phải tốn tiền viện phí< Như vậy, bệnh viện không thể điều trị cho tất cả 100% bệnh nhân SXH bao gồm cả thể nhẹ và thể nặng. Những trường hợp nhẹ được chăm sóc tại nhà, hướng dẫn việc theo dõi và tái khám đúng, chỉ giữ lại những trường hợp SXH thể nặng là một cách lọc bệnh tốt nhất trong mục tiêu quản lý dịch SXH, vừa giảm quá tải, giúp bệnh viện tổ chức tốt việc điều trị SXH một cách có hiệu quả, vừa đỡ tốn kém thời gian và tiền bạc cho người bệnh nhưng vẫn đảm bảo hướng dẫn cách chăm sóc tốt cho bệnh nhân tại gia đình. Tóm lại, trong mùa SXH, bệnh viện cần tổ chức lọc bệnh thật tốt thông qua tiêu chuẩn nhập viện, nằm phòng lưu theo dõi hay là điều trị ngoại trú. Nhân sự: yếu tố quyết định chất lượng điều trị SXH là một bệnh nặng, diễn biến phức tạp. Trong điều trị SXH cần được chẩn đoán sớm, xử trí thích hợp. Đội ngũ điều trị SXH kể cả bác sĩ và điều dưỡng cần phải được huấn luyện, nâng cao kiến thức, kỹ năng lâm sàng về điều trị và chăm sóc SXH, có kinh nghiệm và phải là một tập thể đồng bộ thống nhất, cùng chung tiếng nói, cần có sự ổn định về nhân lực dưới sự điều hành của một người có uy tín, có kinh nghiệm trong điều trị sốt xuất huyết. Bệnh viện tranh thủ sự hỗ trợ thường xuyên của bệnh viện tuyến trên trong công tác điều trị SXH, đồng thời kết hợp chặt chẽ với Trung tâm Y Tế Dự Phòng trong phòng chống SXH. Bệnh viện cử Bác sĩ, Điều dưỡng xuống các bệnh viện huyện, phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế tham vấn về SXH, nhất là ở các địa phương đang xảy ra dịch SXH. Nếu cần, bệnh viện phân công bác sĩ, Điều dưỡng ở lại đại phương tham gia điều trị, can thiệp tại chỗ, huấn luyện kỹ năng lâm sàng về điều trị và chăm sóc SXH cho cán bộ y tế địa phương theo phương cách “ cầm tay, chỉ việc”. Trang bị đường dây điện thoại nóng liên hệ tất cả các đơn vị, cơ sở y tế có điều trị SXH để kịp thời hội chẩn, trao đổi Nghieân cöùu Y hoïc Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ Bản Soá 4 * 2007 Chuyên đề Nhi Khoa 46 kinh nghiệm, xử trí những trường hợp SXH nặng góp phần cứu sống bệnh nhân SXH. Cung cấp đầy đủ thuốc, dịch truyền, trang thiết bị y tế Yếu tố quan trọng giúp giảm tử vong SXH. Sốt xuất huyết là một bệnh truyền nhiễm cấp tính. Sốc SXH là một sốc giảm thể tích và là 1 cấp cứu nội khoa cần được chẩn đoán sớm, điều trị đúng và kịp thời các cơ sở điều trị SXH cần chuẩn bị đầy đủ thuốc men, dịch truyền (điện giải, cao phân tử, máu tươi) dự trù số lượng ngay từ đầu năm, không để bị đọng khi có dịch lớn xảy ra. Các cơ sở điều trị SXH cần có máy quay Hct, đếm tiểu cầu để giúp cho việc chẩn đoán và theo dõi trong điều trị SXH, cần được trang bị các trang thiết bị y tế giúp cho việc điều trị SXH có hiệu quả như: máy truyền dịch tự động, catheter đo áp lực tĩnh mạch trung ương (CVP), Mask có túi dự trữ, máy đo SpO2, hệ thống giúp thở N CPAP< Ở Bệnh viện tuyến tỉnh và các cơ sở điều trị SXH sau nơi nhập những trường hợp SXH nặng từ tuyến trước chuyển về cần trang bị thêm các phương tiện chẩn đoán và điều trị các trường hợp nặng, biến chứng như: máy đo khí máu động mạch, test đông máu toàn bộ, X quang tại chỗ, máy giúp thở, huyết tương tươi đông lạnh. Bệnh viện cần trang bị đầy đủ dụng cụ, phương tiện trên xe chuyển viện, huấn luyện đội ngũ chuyển viện tốt, bảo đảm chuyển viện đúng chỉ định, an toàn tuyệt đối. Giáo dục sức khoẻ SXH cho nhân dân: yếu tố góp phần giảm tử vong Bệnh SXH lây truyền từ người bệnh sang người lành do muỗi vằn Aedes aegypti. Muỗi vằn đốt vào ban ngày, sống trong nhà đẻ trứng trong các vật dụng có chứa nước. Vì vậy, phương pháp phòng ngừa SXH là diệt muỗi, diệt lăng quăng với nguyên lý “ Dân chúng tạo điều kiện cho muỗi vằn phát triển và gây bệnh SXH. Vì vậy chỉ có dân chúng mới có đầy đủ khả năng dẹp bỏ các điều kiện trên”. Phòng ngừa SXH dựa vào cộng đồng là biện pháp lâu dài giúp giảm tỉ lệ mắc SXH nhưng trên thực tế gặp nhiều khó khăn vì phương pháp này đòi hỏi phải thực hiện toàn diện và liên tục. Hơn nữa, như phân tích trên, cũng không thể cho 100% SXH nhập viện điều trị. Do đó, việc cho những trường hợp SXH thể nhẹ điều trị ngoại trú và hướng dẫn cho người nhà, cho bệnh nhân biết cách chăm sóc tại nhà, theo dõi các dấu hiệu chuyển nặng và đến bệnh viện khám kịp thời là điều vô cùng cần thiết để tránh những trường hợp SXH chuyển sang giai đoạn nặng mới được nhập viện điều trị. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu tình hình và các giải pháp nâng cao chất lượng điều trị SXH tại Tiền Giang từ năm 2002 – 2006, chúng tôi có những kết luận như sau: Tình hình mắc và tử vong SXH Trong 5 năm (2002 – 2006), Tiền Giang có tổng số 24.423 trường hợp mắc SXH, và 28 trường hợp tử vong do SXH. Tỉ lệ mắc/ 100.000 dân là 155,3; tỉ lệ chết/ mắc là 0,11%; tỉ lệ chết/ sốc là 0,86%. So với 20 tỉnh thành khu vực phía Nam và toàn quốc, Tiền Giang là tỉnh có số mắc SXH cao nhất. Tỉ lệ chết/ mắc, chết/ sốc so với các nước tiên tiến trong khu vực và các tỉnh thành trong cả nước thì không cao hơn, chứng tỏ khả năng điều trị cứu sống bệnh nhân SXH ở các tuyến y tế trong tỉnh có nhiều tiến bộ và đạt kết quả cao. Các giải pháp nâng cao chất lƣợng điều trị SXH + Tổ chức điều trị, lọc bệnh tốt: yếu tố đầu tiên giúp giảm tử vong + Đội ngũ điều trị và chăm sóc SXH được huấn luyện tốt, nhiệt tình: yếu tố quyết định chất lượng điều trị. + Cung cấp đầy đủ thuốc men, dịch truyền, trang thiết bị y tế: yếu tố quan trọng giúp giảm tử vong. Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc + Nhân dân được giáo dục đầy đủ về SXH: yếu tố góp phần giảm tỉ lệ mắc bệnh và tử vong do SXH. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Bộ Y tế (2007). Báo cáo tổng kết hoạt động 2006 và kế hoạch 2007 dự án Quốc gia phòng chống SXH khu vực phía nam. TP Hồ Chí Minh tháng 01/2007. 2 Bộ Y tế. Hội nghị tổng kết hoạt động phòng chống SXH khu vực phía nam 2001 – 2005. TP Hồ Chí Minh tháng 7/2005. 3 Bùi Đại (1999). Dengue xuất huyết. Nhà xuất bản Y học, Hà Nôị. 4 Gubler DJ (1997). Dengue and Dengue Hemorrhagic fever.UK: CAB Intenational. 5 Nguyễn Thanh Hùng (2005). Biện pháp can thiệp góp phần giảm tỷ lệ tử vong bệnh SXH Dengue tại Bệnh viện Nhi đồng 1 TP Hồ Chí Minh và các tỉnh phía nam. Y học TP Hồ Chí Minh tập 9, phụ bản số 3, trang 6 - 11. 6 Nguyễn Trọng Lân (1994). Một số kinh nghiệm thực tế trong điều trị sốc SXH Dengue. Luận án phó tiến sĩ Y dược, trường Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 7 Nguyễn Trọng Lân, Nguyễn Thanh Hùng (1998). Treatment of Dengue hemorrhagic fever at Children’s Hospital No1, Hồ Chí Minh City, 1991 – 1996. Dengue Bulletin, Who 1998;22: 150 – 161. 8 Trần Tấn Trâm (2003). Cần đổi mới 1 số hoạt động trong phòng chống SXH tại các tỉnh phía Nam. Tài liệu quản lý bệnh viện. 9 World Health Organization (1997). Dengue haemorrhagic fever: diagnosis, treatment, prevention and control. 2nd edition. Geneva: WHO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_tinh_hinh_va_cac_giai_phap_nang_cao_chat_luong_di.pdf
Tài liệu liên quan