KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
Từ những kết quả thu được trong nghiên cứu
này, chúng tôi có thể kết luận:
1. Kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp sản xuất
bằng hệ thống biểu hiện baculovirus có tính sinh
miễn dịch cao.
2. Kháng thể kháng lại kháng nguyên ORF2
tái tổ hợp có khả năng bảo hộ chống lại virus
PCV2, giảm lượng virus trong tổ chức lympho
và trong máu của lợn khi thử thách cường độc
với PCV2 thực địa (giá trị p< 0,05).
3. Kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp bằng hệ
thống baculovirus hoàn toàn phù hợp và là ứng
viên tiềm năng để phát triển vacxin tái tổ hợp
phòng bệnh do PCV2 gây ra tại Việt Nam.
4.2. Kiến nghị
Tiếp tục nghiên cứu phát triển và hoàn thiện
vacxin tái tổ hợp ORF2 phục vụ công tác phòng,
chống dịch bệnh có liên quan đến virus PCV2
tại Việt Nam.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tính sinh miễn dịch trên lợn của kháng nguyên PCV2-ORF2 tái tổ hợp bằng hệ thống biểu hiện baculovirus, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
27
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018
NGHIEÂN CÖÙU TÍNH SINH MIEÃN DÒCH TREÂN LÔÏN CUÛA KHAÙNG NGUYEÂN
PCV2-ORF2 TAÙI TOÅ HÔÏP BAÈNG HEÄ THOÁNG BIEÅU HIEÄN BACULOVIRUS
Đặng Vũ Hoàng1, Trần Thị Thanh Hà1, Nguyễn Thị Huyền1,
Đặng Thị Kiều Anh1, Lý Đức Việt1, Nguyễn Thúy Duyên1,
Nguyễn Thế Vinh1, Hoàng Việt Hưng2, Takehiro Kokuho3
TÓM TẮT
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tiến hành đánh giá tính sinh miễn dịch của kháng nguyên tái
tổ hợp ORF2 của PCV2 và đánh giá khả năng bảo hộ chống lại vi rút PCV2 trên lợn. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, ở liều 106 và 107 pfu/ml, sau 42 ngày tiêm kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp, hiệu giá
kháng thể kháng vi rút PCV2 trong huyết thanh lợn tăng mạnh so với nhóm đối chứng (p<0,05 đối
với liều 106 và p<0,01 đối với liều 107 pfu/ml). Ngoài ra, ở liều 107 pfu/ml, kháng thể đặc hiệu kháng
PCV2 bắt đầu xuất hiện từ ngày 21 (p<0,05) và đạt đỉnh ở ngày thứ 42 (p<0,01) khi so với nhóm đối
chứng tiêm PBS. Kết quả này cho thấy kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp có tính sinh miễn dịch cao.
Nhằm đánh giá khả năng bảo hộ của kháng thể kháng vi rút PCV2, chúng tôi tiến hành công cường
độc lợn thí nghiệm ở 42 ngày sau khi tiêm và hàm lượng ARN của PCV2 được đánh giá bằng phản
ứng RT-PCR bán định lượng (Semi-quantitative RT-PCR) sau 2 tuần công cường độc. Kết quả thí
nghiệm cho thấy, hàm lượng ARN của PCV2 giảm mạnh cả ở hạch lympho và trong máu ở nhóm lợn
tiêm kháng nguyên ORF2 khi so sánh với nhóm lợn đối chứng (p< 0,05). Từ các kết quả thu được,
chúng tôi có thể kết luận, kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp có tính sinh miễn dịch cao và là ứng viên
tiềm năng để sản xuất vacxin tái tổ hợp phòng bệnh cho lợn có liên quan đến vi rút PCV2 ở Việt Nam.
Từ khóa: virus PCV2 của lợn, khung đọc mở 2, protein tái tổ hợp, vacxin tiểu phần
Investigation on the immunogenicity in pigs of recombinant PCV2-ORF2
antigen based on baculovirus expression system
Dang Vu Hoang, Tran Thi Thanh Ha, Nguyen Thi Huyen,
Dang Thi Kieu Anh, Ly Duc Viet, Nguyen Thuy Duyen,
Nguyen The Vinh, Hoang Viet Hung, Takehiro Kokuho
SUMMARY
In this study, the immunogenicity of recombinant ORF2 antigen of PCV2 was investigated
and their ability to protect piglets against a PCV2 challenge was evaluated. The studied
results showed that at doses of 106 and 107 pfu/ml, PCV2 specific antibodies were significantly
increased in serum of the experimental pigs injected with ORF2 antigen in comparison with the
control pig group (p<0,05 for dose of 106 pfu/ml and p<0,01 for dose of 107 pfu/ml). Additionally,
at high dose (107 pfu/ml), PCV2 specific antibodies appeared at 21 days after first injection
(p<0,05) and reached at peak at 42 days (p<0,01) when compared to PBS injection as the
control. In order to assess the ability for protecting the piglets against PCV2 challenge, at
day 42 after immunization with recombinant ORF2 antigen, the animals were challenged with
virulent PCV2 strain and the efficacy in reducing the PCV2 load in lymph node and serum were
determined by Semi-quantitative RT-PCR at day 14 after challenge. The results showed that,
1. Bộ môn Hóa sinh Miễn dịch - Viện Thú y
2. Đại học Y Hà Nội,
3. Viện Thú y Nhật Bản
28
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018
the viral loads were decreased significantly in both lymph nodes and serum when compared
to the control (p<0,05). Finally, we can conclude that recombinant ORF2 antigen possessed
high immunogenicity and this antigen would be a potential candidate for recombinant vaccine
production against PCV2 in Viet Nam.
Keywords: porcine circovirus type 2, open reading frame 2, recombinant protein, subunit vaccine.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nhiều năm qua, hệ thống baculovirus
đã được sử dụng để biểu hiện nhiều loại protein
khác nhau. Nhiều công trình khoa học đã chỉ ra
rằng hệ thống baculovirus có thể được sử dụng
để tạo ra nhiều loại protein tái tổ hợp mong muốn
với số lượng đáng kể (Martijan và cs., 2007).
Khả năng biến nạp vào nhiều loại tế bào động
vật khác nhau của baculovirus cũng đã được
chứng minh trong nhiều nghiên cứu (Gould,
2004). Ngoài ra, khả năng sửa đổi sau dịch mã
(post-translational modification) chính xác cũng
được xem như một đặc tính quan trọng của hệ
thống này. Trong những năm gần đây, hệ thống
baculovirus được sử dụng như công cụ hữu ích
để “vận chuyển” hay “biểu hiện” vacxin (Yu-
Chen và cs., 2008; Vlak and Keus, 1990; Hou
et al., 2003; Li và cs., 2003). Hệ thống này cũng
đã được sử dụng như vector biểu hiện để chế tạo
vacxin chống lại virus SARS-CoV (severe acute
respiratory syndrome-corona virus) (Bai và cs.,
2008). Monique M. van Oers và cộng sự đã
biểu hiện thành công rất nhiều loại glycoprotein
của virus bằng hệ thống biểu hiện baculovirus
với mục đích sản xuất vacxin (Van và cs., 2006).
PCV lần đầu tiên được mô tả như một sự tạp
nhiễm trên tế bào PK15 (Tischer và cs., 1982)
và sau đó được phân loại thuộc họ Circoviridae
(Lukert và cs., 1995). Các virion của PCV có
dạng hình cầu, đường kính 17 nm, có chứa DNA
sợi đơn vòng tròn và có kích thước khoảng 17kb
(Tischer và cs., 1982). Nhiều nghiên cứu chỉ ra
rằng PCV tạp nhiễm từ tế bào PK15 không tham
gia vào Hội chứng còi cọc sau cai sữa (PMWS).
Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây cho thấy
PCV tiếp tục được phát hiện trong Hội chứng
PMWS (Ellis và cs., 1998). Để giải thích cho
hiện tượng này, những phân tích xa hơn về bộ
gen đã chứng minh rằng có 2 loại PCV hoàn
toàn khác biệt, PCV loại 1 (hay còn được biết
với ký hiệu PCV1) và PCV loại 2 (hay còn
được biết với ký hiệu PCV2), trong đó PCV1
không có khả năng gây bệnh, còn PCV2 tham
gia vào Hội chứng PMWS. Khả năng tương tác
khác biệt với các kháng thể đơn dòng của PCV1
và PCV2 đã chỉ ra sự khác biệt về tính kháng
nguyên của chúng (Allan và cs., 1998).
Hiện nay có rất nhiều loại vacxin đã được
phát triển chống lại PCV2 như vacxin nhược
độc, vacxin vô hoạt (chỉ có capsid), vacxin tái tổ
hợp sử dụng gen mã hóa cho capsid protein nhờ
vector mang, vacxin tiểu phần (Porcilis PCV)
và vacxin ARN. Những bằng chứng khoa học
gần đây đã cho thấy ORF2 là protein có tính
miễn dịch chủ yếu (Shen và cs., 2008). Khả
năng tạo đáp ứng miễn dịch của vacxin tiểu phần
ORF2, được phát triển bằng hệ thống biểu hiện
baculovirus, chống lại PCV2 trong điều kiện
thực địa đã được mô tả trong nghiên cứu gần
đây của Paolo Martelli (Paolo Martelli và cs.,
2011). Kết quả cho thấy hệ thống baculovirus
là sự lựa chọn tối ưu trong ứng dụng sản xuất
vacxin tái tổ hợp phòng PCV2 hiện nay.
Trong những nghiên cứu gần đây, chúng
tôi đã ứng dụng thành công hệ thống biểu hiện
baculovirus để tạo ra một số protein tái tổ hợp
quan trọng dùng trong chẩn đoán và làm nguyên
liệu để sản xuất vacxin như protein ORF2 tái tổ
hợp của virus PCV2 (Đặng Vũ Hoàng và cs.,
2016) và gần đây là protein GP5 tái tổ hợp của
virus PRRS (Trần Thị Thanh Hà và cs., 2017).
Protein tái tổ hợp bằng hệ thống baculovirus
vẫn giữ được các đặc tính sinh học vốn có
(được nhận diện bởi kháng thể tự nhiên) và có
tính sinh miễn dịch cao. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi tiến hành đánh giá tính sinh miễn dịch
29
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018
của kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp của virus
PCV2. Nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng
và là cơ sở khoa học để tiến tới nghiên cứu phát
triển và hoàn thiện vacxin tái tổ hợp phòng bệnh
có liên quan đến virus PCV2 tại Việt Nam.
II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
2.1.1. Nghiên cứu đánh giá tính sinh miễn dịch
của kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp trên lợn
2.1.2. Nghiên cứu thử thách cường độc với
virus PCV2 trên lợn được tiêm kháng nguyên
ORF2 tái tổ hợp
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp ELISA: sử dụng kít ELISA
thương mại (PCV Kit, Shenzhen Lvshiyuan
Biotechnology Co., LTD, Trung Quốc) theo
hướng dẫn của nhà sản xuất.
2.2.2. Phương pháp RT-PCR bán định lượng
(Semi-quantitative RT-PCR): theo Dang và cs.,
2009 và 2010.
2.2.3. Phương pháp thử thách cường độc với
PCV2, mổ khám và thu thập bệnh phẩm: theo
quy trình thường quy của Bộ môn Hóa sinh
Miễn dịch - Viện Thú y.
2.2.4. Phương pháp triết tách ARN: sử dụng
kít triết tách thương mại, theo hướng dẫn của
nhà sản xuất.
2.2.5. Phương pháp Plaque Assay: theo quy
trình thường quy của Viện Thú y Nhật Bản.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Nghiên cứu tính sinh miễn dịch của
kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp của virus
PCV2 trên lợn
Kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp được sản
xuất bằng hệ thống biểu hiện baculovirus là sản
phẩm khoa học thuộc đề tài cấp Nhà nước do
Bộ môn Hóa sinh Miễn dịch (Viện Thú y) làm
chủ trì. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá
tính sinh miễn dịch của kháng nguyên ORF2
tái tổ hợp, thí nghiệm xác định liều được bố trí
như bảng 1.
Bảng 1. Thí nghiệm xác định liều của kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp
Ngày tiêm Đối chứng (n = 3) Tiêm kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp (n = 3) Ghi chú
Ngày 0 Tiêm PBS
Kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp kết hợp bổ trợ Freund hoàn toàn
(Freund’s complete adjuvant)
Liều 104, 105, 106 và 107 pfu/ml
Ngày 7 Tiêm PBS Kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp kết hợp bổ trợ Freund không hoàn toàn (Freund’s incomplete adjuvant)
Ngày 21 Tiêm PBS Kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp kết hợp bổ trợ Freund không hoàn toàn
Lợn 21 ngày tuổi không có kháng thể kháng
virus PRRS, dịch tả lợn, PCV2, được sử dụng
cho nghiên cứu này. Mẫu huyết thanh lợn được
thu thập ở ngày 42 sau khi tiêm mũi kháng
nguyên ORF2 tái tổ hợp đầu tiên và hàm lượng
kháng thể kháng virus PCV2 trong huyết thanh
lợn được đánh giá bằng kít PCV ELISA thương
mại theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Kết quả
được trình bày ở hình 1.
Kết quả ở hình 1 cho thấy, hàm lượng kháng
thể kháng virus PCV2 trong huyết thanh lợn ở
liều 106 và 107 pfu/ml tăng mạnh so với nhóm đối
chứng tiêm PBS (p< 0,05 đối với liều 106 pfu/ml
và p<0,01 đối với liều 107 pfu/ml). Kết quả này
cho thấy, kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp kích
thích tạo kháng thể đặc hiệu kháng virus PCV2
trong huyết thanh lợn thí nghiệm. Nhằm nghiên
cứu xác định biến động hàm lượng kháng thể
kháng virus PCV2 trong huyết thanh lợn được
30
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018
tiêm kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp theo thời
gian, chúng tôi lựa chọn liều kháng nguyên tối
ưu là 107 pfu/ml (giá trị p<0,01) cho nghiên
cứu tiếp theo và đánh giá biến động hàm lượng
kháng thể kháng PCV2 tại các thời điểm khác
nhau: 21, 28, 35 và 42 ngày để lựa chọn thời
điểm thử thách cường độc phù hợp. Đối chứng
dương tiêm vacxin PCV2 thương mại (2 mũi,
mũi thứ nhất cách mũi thứ hai 14 ngày với liều
sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất). Đối
chứng âm tiêm PBS. Kết quả được trình bày ở
hình 2.
Hình 1. Hàm lượng kháng thể kháng virus PCV2 trong huyết thành lợn được tiêm kháng
nguyên ORF2 tái tổ hợp ở các liều khác nhau tại ngày 42 sau khi tiêm.
a: p<0,05 b: p< 0,01 so với đối chứng tiêm PBS
Hình 2. Biến động hàm lượng kháng thể kháng virus PCV2 trong huyết thanh lợn được
tiêm kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp tại 21, 28, 35 và 42 ngày sau khi tiêm.
Đối chứng dương: Vacxin PCV2 thương mại, Đối chứng âm: Tiêm PBS
Kết quả ở hình 2 cho thấy, ở liều 107 pfu/ml,
kháng thể đặc hiệu kháng PCV2 bắt đầu xuất hiện
từ ngày 21 (p<0,05) và đạt đỉnh ở ngày thứ 42
(p<0,01) khi so với nhóm tiêm PBS. Khi so sánh
giữa hai nhóm tiêm vacxin PCV2 thương mại và
kháng nguyên ORF2, chúng tôi nhận thấy: biến
31
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018
động hàm lượng kháng thể kháng PCV2 có tỷ lệ
tương đồng rất cao; cụ thể: không có sự khác biệt
được ghi nhận giữa nhóm tiêm kháng nguyên ORF2
và vacxin PCV2 thương mại tại các thời điểm kiểm
tra. Kết quả cho thấy kháng nguyên tái tổ hợp ORF2
của virus PCV2 bằng hệ thống baculovirus có tính
sinh miễn dịch cao và thời điểm 42 ngày sau khi
tiêm kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp là phù hợp để
tiến hành thử thách cường độc.
3.2. Nghiên cứu thử thách cường độc với
virus PCV2 trên lợn được tiêm kháng nguyên
ORF2 tái tổ hợp
Nhằm đánh giá khả năng bảo hộ của kháng
nguyên ORF2 tái tổ hợp, chúng tôi tiến hành thí
nghiệm thử thách cường độc tại ngày 42 sau khi tiêm
kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp của PCV2 và vacxin
PCV2 thương mại thông qua biến động hàm lượng
ARN của virus PCV2 trong hạch lympho và trong
máu bằng kỹ thuật RT-PCR bán định lượng (Semi-
quantitative RT-PCR) theo quy trình được công bố
bởi Đặng Vũ Hoàng và cs., 2009 và 2010. Lợn được
mổ khám và thu thập mẫu bệnh phẩm (máu và hạch
lympho) ở ngày 14 sau khi thử thách cường độc với
PCV2 (hình 3) và tiến hành đánh giá lượng ARN của
virus PCV2 trong máu và hạch lympho bằng phương
pháp Semi-quantitative RT-PCR.
Hình 3. Mổ khám thu bệnh phẩm sau 14 ngày công cường độc
Để tiến hành phương pháp Semi-quantitative
RT-PCR, chúng tôi thiết kế một cặp mồi (primer)
đặc hiệu cho house keeping gene GAPDH dùng
làm gen tham chiếu (reference gene).
Trình tự primer sử dụng trong RT-PCR bán
định lượng được trình bày ở bảng 2.
Bảng 2. Trình tự primer dùng trong Semi-quantitative RT-PCR
Tên gen Trình tự primer Kích thước sản phẩm PCR Nguồn tham khảo
ORF2 PoORF2-F: ACGTATCCAAGGAGGCGTTTCPoORF2-R: TCACTTAGGGTGAAGTGGGGGGT 702bp
Đặng Vũ Hoàng và cs.,
2016
GAPDH PoGAPDH-F: AGAAGAGCAGAGCGAGGATGPoGAPDH-R: TGTGGTCATGAGTCCTTCCA 651bp
Nygard và cs., 2003
Wang và cs., 2013
32
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018
Theo Ann-Britt Nygard và cs., việc lựa chọn
gen tham chiếu dùng trong nghiên cứu biểu hiện
gen ở lợn đặc biệt quan trọng. Hiện có nhiều gen
tham chiếu được sử dụng trong nghiên cứu đánh
giá biểu hiện gen ở lợn như Beta actin, GAPDH,
Beta-2-microglobulin, TATA binding protein,
Ribosomal protein L4.. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi lựa chọn GAPDH vì đã ứng dụng thành
công gen tham chiếu này trong những nghiên cứu
trước đây cũng như từ những kết quả được công
bố bởi các nhóm nghiên cứu khác (Ann-Britt
Nygard và cs., 2007; Wang và cs., 2013).
Kết quả thí nghiệm thử thách công cường
độc cho thấy, hàm lượng ARN của virus PCV2
giảm mạnh cả ở hạch lympho (hình 4) và trong
máu (hình 5) của nhóm lợn tiêm kháng nguyên
ORF2 tái tổ hợp khi so sánh với nhóm đối
chứng tiêm PBS. Cụ thể: mức độ biểu hiện của
gen ORF2 ở hạch lympho giảm mạnh, từ 92,88
± 10,06 (%) ở nhóm đối chứng xuống còn
66,53 ± 11,59 (%) đối với nhóm tiêm kháng
nguyên ORF2 tái tổ hợp và 57,98 ± 2,96 (%)
đối với nhóm tiêm vacxin PCV2 thương mại
(hình 4).
M KN ORF2 Vacxin PCV2 Control
Hình 4. Mức độ biểu hiện ORF2/GAPDH (%) trong hạch lympho sau 14 ngày thử thách
cường độc. 1. Kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp; 2. Vacxin PCV2 thương mại; 3. Đối chứng
âm a: p<0,05 khi so sánh với nhóm 1 và nhóm 2
Không có sự khác biệt trong biểu hiện gen
ORF2 của virus PCV2 giữa nhóm tiêm kháng
nguyên tái tổ hợp ORF2 và tiêm vacxin thương
mại được ghi nhận tại hạch lympho trong nghiên
cứu này (hình 4).
Kết quả tương tự cũng quan sát được trong
máu của lợn thí nghiệm và được trình bày
ở hình 5, trong đó mức độ biểu hiện của gen
ORF2 trong huyết thanh lợn ở nhóm tiêm kháng
nguyên ORF2 tái tổ hợp và nhóm tiêm vacxin
PCV2 thương mại, lượng ARN của virus PCV2
giảm mạnh khi so sánh với nhóm đối chứng (giá
trị p<0,01).
Một sự tương đồng cao về khả năng bảo hộ
chống lại PCV2 giữa nhóm tiêm vacxin PCV2
thương mại và nhóm tiêm kháng nguyên ORF2
tái tổ hợp, trong đó không có sự khác biệt về
mức độ biểu hiện gen ORF2 trong huyết thanh
lợn giữa 2 nhóm được ghi nhận trong thí nghiệm
này (giá trị p>0,05). Kết quả này một lần nữa
33
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018
khẳng định: kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp
bằng hệ thống biểu hiện baculovirus là ứng viên
tiềm năng để sản xuất vacxin tái tổ hợp phòng
bệnh có liên quan đến PCV2 ở Việt Nam.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
Từ những kết quả thu được trong nghiên cứu
này, chúng tôi có thể kết luận:
1. Kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp sản xuất
bằng hệ thống biểu hiện baculovirus có tính sinh
miễn dịch cao.
2. Kháng thể kháng lại kháng nguyên ORF2
tái tổ hợp có khả năng bảo hộ chống lại virus
PCV2, giảm lượng virus trong tổ chức lympho
và trong máu của lợn khi thử thách cường độc
với PCV2 thực địa (giá trị p< 0,05).
3. Kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp bằng hệ
thống baculovirus hoàn toàn phù hợp và là ứng
viên tiềm năng để phát triển vacxin tái tổ hợp
phòng bệnh do PCV2 gây ra tại Việt Nam.
4.2. Kiến nghị
Tiếp tục nghiên cứu phát triển và hoàn thiện
vacxin tái tổ hợp ORF2 phục vụ công tác phòng,
chống dịch bệnh có liên quan đến virus PCV2
tại Việt Nam.
Lời cảm ơn: Công trình này được thực hiện
trong khuôn khổ đề tài cấp Nhà nước: “Nghiên
cứu biểu hiện protein tái tổ hợp của virus PCV2
để chế tạo sinh phẩm chẩn đoán và làm nguyên
liệu tiến tới sản xuất vacxin” do TS. Đặng Vũ
Hoàng làm chủ trì và được Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn tài trợ thông qua Chương
trình Công nghệ Sinh học Nông nghiệp và Thủy
sản (2014-2017).
M KN ORF2 Vacxin PCV2 Control
Hình 5. Mức độ biểu hiện ORF2/GAPDH (%) trong máu sau 14 ngày thử thách cường
độc. 1. Kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp; 2. Vacxin PCV2 thương mại; 3. Đối chứng âm
b: p<0,01 khi so sánh với nhóm 1 và nhóm 2
34
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 5 - 2018
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Martijan AL, German RA, Klass M, Van GW
(2007). Production of sumoylated proteins
using a baculovirus expression system. J. Virol.
Methods, 139: 189-194
2. Gould AR (2004). Virus evolution: disease
emergence and spread. Aust. J. experim. Agric.,
44: 1085-1094
3. Yu-Chen H, Kun Y, Tzong-Yuan W (2008).
Baculovirus as an expression and/or delivery
vehicle for vaccine antigens. Expert Review of
Vaccines 7: 363-371
4. Bai B, Lu X, Meng J, Hu Q, Mao P, Lu B, Chen
Z, Yuan Z, Wang H (2008). Vaccination of
mice with recombinant baculovirus expressing
spike or nucleocapsid protein of SARS-like
coronavirus generates humoral and cellular
immune responses. Mol Immunol. 45: 868-75
5. Hui-Gang Shen, Ji-Yong Zhou, Zhen-Yu Huang,1
Jun-Qing Guo, Gang Xing, Jia-Ling He, Yan Yan
and Li-Yang Gong (2008). Protective immunity
against porcine circovirus 2 by vaccination with
ORF2-based DNA and subunit vaccines in mice.
Journal of General Virology, 89, 1857–1865
6. Paolo Martelli, Luca Ferrari, Marina Morganti,
Elena De Angelis, Paolo Bonilauri, Stefano
Guazzetti, Antonio Caleffi, Paolo Borghetti
(2011). One dose of a porcine circovirus 2 subunit
vaccine induces humoral and cell-mediated
immunity and protects against porcine circovirus-
associated disease under field conditions. J. Vet.
Microb. 149; 339–351
7. Allan, G. M., F. McNeilly, S. Kennedy, B. Daft,
E. G. Clarke, J. A. Ellis, D. M. Haines, B. M.
Meehan, and B. M. Adair (1998). Isolation of
porcine circovirus-like viruses from pigs with a
wasting disease in the USA and Europe. J. Vet.
Diagn. Investig. 10:3–10
8. Dang VH, Nguyen TH, Lee GS, Choi KC
and Jeung EB. (2009). In vitro exposure to
xenoestrogens evokes the transcriptional level of
growth hormone gene and its release via estrogen
receptor-dependent pathway in a rat pituitary cell
line, GH3. Steroids 74:707-714
9. Dang VH, Choi KC and Jeung EB. (2010).
Membrane-impermeable estrogen is involved
in regulation of calbindin-D9k expression via
non-genomic pathways in a rat pituitary cell line,
GH3 cells. Toxicol in Vitro 2010; 24:1229-1236
10. Ann-Britt Nygard, Claus B Jørgensen, Susanna
Cirera and Merete Fredholm (2007). Selection
of reference genes for gene expression studies in
pig tissues using SYBR green qPCR.
11. Jiying Wang, Yanping Wang, Huaizhong
Wang, Xiaojing Hao1, Ying Wu, Jianfeng Guo
(2013). Selection of Reference Genes for Gene
Expression Studies in Porcine Whole Blood
and Peripheral Blood Mononuclear Cells under
Polyinosinic:Polycytidylic Acid Stimulation
Australas. J. Anim. Sci. Vol. 27, No. 4 : 471-478
12. Đặng Vũ Hoàng, Trương Quốc Phong, Trần Thị
Thanh Hà, Nguyễn Thị Huyền, Takehiro Kokuho
và cs. (2016). Ứng dụng hệ thống biểu hiện
baculovirus nhằm sản xuất protein ORF2 tái tổ
hợp của virus PCV2. Tạp chí Khoa học kỹ thuật
Thú y số 2.
13. Trần Thị Thanh Hà, Lý Đức Việt, Nguyễn Thị
Huyền, Nguyễn Thị Lương, Đặng Thị Kiều Anh,
Đặng Vũ Hoàng và Takehiro Kokuho (2017).
Đánh giá ảnh hưởng tiềm năng của Interferon
alpha trong đáp ứng miễn dịch của lợn được tiêm
kháng nguyên GP5 tái tổ hợp của virus tai xanh.
Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y số 1.
14. Van Oers MM (2006). Vaccines for viral and
parasitic diseases produced with baculovirus
vectors. Adv Virus Res.;68:193-253
15. Tischer, I., H. Gelderblom, W. Vettermann, and
M. A. Koch. (1982). A very small porcine virus
with circular single-stranded DNA. Nature
295:64–66
16. Lukert, P., G. F. de Boer, J. L. Dale, P. Keese, M.
S. McNulty, J. W. Randles, and I. Tischer. (1995).
The Circoviridae, p. 166–168.
17. Ellis, J., Hassard, L., Clark, E., Harding, J.,
Allan, G., Willson, P., Strokappe, J., Martin, K.,
McNeilly, F., Meehan, B., Todd, D., Haines, D.,
(1998). Isolation of circovirus from lesions of
pigs with postweaning multisystemic wasting
syndrome. Can. Vet. J. 39 (1), 44–51
Ngày nhận 22-11-2017
Ngày phản biện 9-4-2018
Ngày đăng 1-7-2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_tinh_sinh_mien_dich_tren_lon_cua_khang_nguyen_pcv.pdf