Một số yếu tố liên quan đến rối loạn tâm lý ở bệnh
nhân vô sinh.
Liên quan đến áp lực từ gia đình và xã hội, kết quả
nghiên cứu của chúng tôi điểm BDI trung bình ở nhóm
không có áp lực gia đình là 7,51 ± 7,14 và nhóm có áp
lực gia đình là 12,01 ± 8,24. Có sự khác biệt về rối loạn
tâm lý giữa hai nhóm bệnh nhân có và không có chịu áp
lực từ gia đình, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p =
0,001. Đối với áp lực từ xã hội thì điểm BDI trung bình ở
nhóm không có áp lực và nhóm có áp lực lần lượt là 7,71
± 6,99 và 12,22 ± 8,54. Có sự khác biệt về rối loạn tâm
lý giữa hai nhóm bệnh nhân có và không có chịu áp lực
từ xã hội, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,001.
Nghiên cứu của Enikő và CS. (2017) cho thấy các triệu
chứng trầm cảm và lo lắng ở phụ nữ vô sinh có liên quan
đến tuổi tác, mối quan tâm xã hội và tình dục; áp lực xã
hội cũng có thể làm xấu thêm tình trạng rối loạn tâm lý
của bệnh nhân [18,23]. Không có khả năng sinh con tự
nhiên có thể gây ra cảm giác xấu hổ, tội lỗi và tự ti cho
người phụ nữ, họ phải đối mặt với sự phân biệt đối xử
xã hội và sự kỳ thị [1,2]. Do đó phần lớn phụ nữ vô sinh
không chia sẻ vấn đề của họ với gia đình hoặc bạn bè mà
thường muốn che giấu và họ cảm thấy xấu hổ, thất bại
khi thêm một ai đó biết tình trạng của họ, điều đó làm họ
dễ bị tổn thương tâm lý thêm nữa.
Về trình độ học vấn, theo Alhassan A và CS. (2014),
mức độ trầm cảm cao hơn đáng kể giữa các đối tượng
có trình độ học vấn thấp [1]. Ở nghiên cứu của chúng
tôi điểm BDI trung bình ở nhóm có trình độ học vấn phổ
thông là 10,75 ± 9,59 cao hơn nhóm cao đẳng – đại học
là 8,96 ± 6,89. Sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa
thống kê với p = 0,049. Kết quả này tương tự với nghiên
cứu của Afsaneh và CS. (2005), những người có trình
độ học vấn thấp hơn có điểm BDI cao hơn [8]. Beutel và
cộng sự cũng đã báo cáo mối tương quan giữa giáo dục
và trầm cảm (P <0,05) [24]. Có vẻ như những người có
học vấn cao có các mục tiêu khác để tập trung vào ngoài
vấn đề về sinh sản. Bên cạnh đó sự hiểu biết rõ và nắm
bắt được nhiều thông tin về nguyên nhân cũng như các
giải pháp hỗ trợ sinh sản giúp họ tự tin và dễ dàng hơn
khi tuân thủ quá trình điều trị.
Về một số yếu tố khác, vô sinh nguyên phát chiếm
68,4%; nguyên nhân vô sinh do vợ chiếm tỷ lệ cao nhất
37,8%; thời gian vô sinh từ 3 năm trở lên chiếm tỷ lệ cao
hơn với 55,5%; phần lớn bệnh nhân tự đánh giá kinh tế đủ
sống chiếm 85,8%. Không có mối liên quan giữa điểm số
BDI và loại vô sinh, nguyên nhân vô sinh, thời gian vô sinh
hay tình trạng kinh tế. Sự khác biệt giữa các nhóm không
có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Lok và cộng sự đã chỉ
ra rằng mức độ trầm cảm của bệnh nhân sau khi điều trị
thất bại liên quan với thời gian vô sinh. Tuy nhiên, điểm
BDI sau điều trị không liên quan đến loại vô sinh, tuổi tác,
nguyên nhân vô sinh và số lần điều trị trước đó [25].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 13 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tình trạng rối loạn tâm lý ở bệnh nhân vô sinh bằng thang điểm Beck Depression Inventory (BDI), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
67
Nghiên cứu tình trạng rối loạn tâm lý ở bệnh nhân vô sinh bằng thang
điểm Beck Depression Inventory (BDI)
Nguyễn Thị Ni, Lê Minh Tâm
Trung tâm Nội tiết sinh sản và vô sinh, Bệnh viện Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt
Mục tiêu: (1) Khảo sát tình trạng rối loạn tâm lý ở bệnh nhân vô sinh bằng thang điểm BDI trước và sau điều trị vô sinh.
(2) Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến rối loạn tâm lý bệnh nhân vô sinh.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng bộ câu hỏi đánh giá mức độ trầm cảm của Beck De-
pression Inventory (BDI) cho 339 bệnh nhân nữ đến khám và điều trị vô sinh tại Trung tâm Nội tiết sinh sản và vô sinh
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 09/2017 đến tháng 05/2018. Bệnh nhân được chia thành 2 nhóm: chưa
từng điều trị và đã điều trị tại trung tâm ít nhất 3 tháng. Đối với nhóm chưa điều trị, đánh giá mức độ trầm cảm sau khi
được chẩn đoán là vô sinh ở lần khám đầu tiên; nhóm còn lại được đánh giá tại thời điểm họ tái khám sau khi điều trị
tại trung tâm ít nhất 3 tháng.
Kết quả: Điểm BDI trung bình của các bệnh nhân nữ vô sinh là 9,60 ± 7,98; trong đó nhóm chưa điều trị là 11,02 ± 8,44;
nhóm đã điều trị là 7,94 ± 7,09. Tỷ lệ bệnh nhân có rối loạn tâm lý ở nhóm chưa điều trị là 33,5% và nhóm đã điều trị là
19,7%. Có sự khác biệt về rối loạn tâm lý giữa hai nhóm bệnh nhân trước và sau điều trị, sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p = 0,001. Có sự khác biệt về rối loạn tâm lý giữa hai nhóm bệnh nhân có và không có chịu áp lực từ gia đình và
áp lực từ xã hội, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,001. Có sự khác biệt về rối loạn tâm lý giữa nhóm bệnh nhân
có trình độ học vấn phổ thông và nhóm cao đẳng – đại học, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,049. Sự khác biệt
về rối loạn tâm lý giữa các nhóm bệnh nhân đánh giá trên các phương diện: loại vô sinh, nguyên nhân vô sinh, thời gian
vô sinh hay tình trạng kinh tế là không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Kết luận: Tình trạng rối loạn tâm lý ở bệnh nhân nữ vô sinh theo thang điểm BDI chiếm tỷ lệ đáng kể và có khác biệt theo
hướng cải thiện sau quá trình điều trị vô sinh. Có sự liên quan giữa rối loạn tâm lý với áp lực từ gia đình và xã hội, với
trình độ học vấn, nhưng không thấy có mối liên quan giữa điểm số BDI và loại vô sinh, nguyên nhân vô sinh, thời gian
vô sinh hay tình trạng kinh tế.
Từ khóa: Vô sinh nữ, rối loạn tâm lý, thang điểm Beck Depression Inventory.
Study of psychological disorders in infertile patients by Beck Depression
Inventory scale
Nguyen Thi Ni, Le Minh Tam
Hue Center of Reproductive Endocrinology and Infertility, Hue University of Medicine and Pharmacy Hospital
Abstract
Objective: (1) To determine the psychological disorders in infertile patients and compare the prior and after infertility
treatment by BDI Scale. (2) To find out the predisposing factors of psychological disorders in infertile patients.
Material and methods: Cross-sectional study. Self-report questionnaire Beck Depression Inventory (BDI) was used for
339 female patients of Hue Center for Reproductive Endocrinology and Infertility from 09/2017 to 05/2018. Patients
were divided into 2 groups: untreated and treated at the center at least 3 months. For untreated group, evaluated the
severity of depression after being diagnosed with infertility at the first visit; the remaining group was evaluated at the
time of follow-up after at least 3 months of treatment.
Results: The mean BDI score for infertile women was 9.60 ± 7.98; in which the untreated group was 11.02 ± 8.44; the
treated group was 7.94 ± 7.09. The proportion of patients with psychological disorders in the untreated group was
33.5% and the treated group was 19.7%. There was significant difference in psychological disorders between the prior
and after treatment groups with p = 0.001. It was different in psychological disorders between the two groups of pa-
doi:10.46755/vjog.2020.2.1118
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Lê Minh Tâm, email: leminhtam@huemed-univ.edu.vn
Nhận bài (received): 11/08/2020 - Chấp nhận đăng (accepted): 28/09/2020
Nguyễn Thị Ni và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(2):67-73. doi: 10.46755/vjog.2020.2.1118
NGHIÊN CỨU VÔ SINH
68
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiên chức làm mẹ như một nguồn sức mạnh, niềm
tự hào và nguồn động lực quan trọng trong cuộc sống
người phụ nữ. Vì vậy không có khả năng sinh con tự nhiên
có thể gây ra cảm giác xấu hổ, tội lỗi và tự ti cho người
phụ nữ, họ phải đối mặt với một loạt các phân biệt đối
xử của xã hội và sự kỳ thị [1,2]. Theo ước tính quốc tế, có
đến 9% - 15% các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ bị
vô sinh [3-5]. Điều đó đã gây ra nhiều áp lực tâm lý, gồm
có gia tăng trầm cảm, lo âu, stress [6]. Hành trình tìm
kiếm con là một chặng đường gian nan và đầy thử thách
của các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn, nó không chỉ
là gánh nặng về kinh tế mà còn làm nặng nề về tâm lý cho
các cặp vợ chồng mà đặc biệt là người phụ nữ. Dù nguyên
nhân vô sinh do chồng, do vợ hay từ cả hai phía thì người
phụ nữ luôn là người chịu nhiều áp lực, họ thường cảm
thấy cô đơn, lo lắng, trầm cảm, thiếu tập trung, và giảm
ham muốn tình dục [7]. Những cảm xúc tiêu cực này có
thể dẫn đến các mức độ trầm cảm, lo âu, đau khổ và chất
lượng sống kém khác nhau. Các nghiên cứu đã chứng
minh rằng tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm ở phụ nữ vô sinh cao
hơn gấp đôi so với nhóm chứng; gần một nửa số cặp vợ
chồng vô sinh hiếm muộn có rối loạn về tâm lý, trong đó
người vợ chịu áp lực nhiều hơn chồng [8,9].
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng tâm lý của bệnh nhân
là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả của
quá trình điều trị vô sinh: bệnh nhân được hỗ trợ tâm lý
trong điều trị vô sinh đã tăng tỉ lệ thành công của IVF;
bệnh nhân có mức độ lo lắng thấp thì tỷ lệ có thai cao
hơn so với bệnh nhân có mức độ lo lắng cao; các tâm lý
bất lợi của người bệnh còn làm tăng tỷ lệ bỏ cuộc trong
điều trị vô sinh [10-12]. Đồng thời, những phụ nữ vô sinh
bị trầm cảm nhiều hơn sẽ khó để bắt đầu quá trình điều
trị và nhiều khả năng họ sẽ bỏ cuộc sau chu kỳ điều trị
đầu tiên [13].
Trong một nghiên cứu lớn của Đan Mạch gồm 42000
phụ nữ được kiểm tra trước khi điều trị hỗ trợ sinh sản thì
có đến 35% bị trầm cảm [14]. Theo một nghiên cứu khác
ở lần khám vô sinh đầu tiên có đến 40% phụ nữ được
chẩn đoán là lo lắng, trầm cảm, hoặc cả hai [15]. Biết
được nguyên nhân gốc rễ của chẩn đoán vô sinh có thể
giảm bớt gánh nặng cho bệnh nhân khi họ hiểu tại sao
điều này có thể xảy ra với họ. Những rối loạn tâm lý của
bệnh nhân có thể được cải thiện khi có những can thiệp
tâm lý và hỗ trợ tinh thần phù hợp trong quá trình điều trị.
Các can thiệp tâm lý xã hội kết hợp điều trị hỗ trợ sinh
sản đã làm giảm sự lo lắng, đau khổ và làm tăng tỷ lệ có
thai ở bệnh nhân vô sinh [16,17].
Có nhiều bộ công cụ khác nhau để đánh giá tình
trạng rối loạn tâm lý của bệnh nhân vô sinh. Enikő và CS.
(2017), sử dụng các bộ câu hỏi Spielberger Trait Anxiety
Inventory (STAI-T), Shortced Beck Depression Inventory
(BDI) và Fertility Problem Inventory (FPI) để đánh giá sự
lo lắng và trầm cảm (STAI-T và BDI), đồng thời cũng đo
lường stress liên quan đến vô sinh (FPI). Kết quả cho
thấy các triệu chứng trầm cảm và lo âu liên quan đến
phụ nữ vô sinh là nổi bật hơn so với nhóm chứng, có đến
44,8% phụ nữ vô sinh biểu hiện các triệu chứng trầm cảm
từ trung bình đến nặng [18]. Hơn nữa, ở những phụ nữ vô
sinh lúc bắt đầu thụ tinh ống nghiệm thì 19,4% có triệu
chứng trầm cảm từ trung bình đến nặng, trong khi 54% bị
trầm cảm nhẹ theo thang đo Zung Depression Scale [19].
Một nghiên cứu khác sử dụng bộ câu hỏi về trầm cảm-
lo âu-stress (DASS-21: Depression Anxiety and Stress
Scale) cho thấy tỷ lệ rối loạn trầm cảm, lo âu, stress và
có ít nhất một trong ba rối loạn ở người phụ nữ là: 17,4%;
29,1%; 13,6% và 34,7% [9].
Hiện nay, yếu tố tâm lý của bệnh nhân vẫn chưa được
quan tâm đúng mức và sự đánh giá thay đổi tâm lý sau
quá trình điều trị cần được xem xét chi tiết. Vì vậy chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu tình trạng rối
loạn tâm lý ở bệnh nhân vô sinh bằng thang điểm Beck
Depression Inventory (BDI)” nhằm mục tiêu: (1) Khảo sát
tình trạng rối loạn tâm lý ở bệnh nhân vô sinh và so sánh
mức độ rối loạn bằng thang điểm BDI chưa và đã điều trị
vô sinh và (2) Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến rối
loạn tâm lý bệnh nhân vô sinh.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các trường hợp bệnh nhân nữ đến khám và điều trị vô
sinh tại Trung tâm Nội tiết sinh sản và vô sinh Bệnh viện
Trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 09/2017 đến tháng
05/2018. Chọn cỡ mẫu thuận tiện với tiêu chuẩn chẩn
đoán vô sinh theo TCYTTG năm 2010 và đồng ý tham gia
nghiên cứu. Bệnh nhân được chia thành 2 nhóm: chưa
điều trị và đã điều trị tại trung tâm ít nhất 3 tháng. Nhóm
Nguyễn Thị Ni và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(2):67-73. doi: 10.46755/vjog.2020.2.1118
tients with and without pressure from family and social with p = 0.001. There was significant difference in psychological
disorders among patients with general education and academic education, (p = 0.049). Difference in psychological dis-
orders among groups of patients assessed in terms of type of infertility, causes, time of infertility treatment or financial
situation were not statistically significant.
Conclusions: The psychological disorders among infertile patients after treatment assessed by BDI score are lower
than pre-treatment group. There are relationship between psychological disorders and the pressure from family and
social, and education qualification, but not related on infertility type, cause, duration or economic condition.
Keywords: Infertile women, psychological disorder, Beck Depression Inventory Scale.
69
chưa điều trị là những bệnh nhân được chẩn đoán là vô
sinh ở lần khám đầu tiên tại trung tâm hoặc trong quá
trình thăm khám nhưng chưa đi vào quá trình điều trị;
nhóm đã điều trị là những bệnh nhân tái khám sau khi
điều trị tại trung tâm ít nhất 3 tháng. Loại khỏi nghiên cứu
những bệnh nhân là người nước ngoài, các đối tượng có
tiền sử điều trị bệnh tâm thần, thiểu năng trí tuệ, khiếm
khuyết về ngôn ngữ, khiếm thính, khiếm thị hoặc bệnh
nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Nghiên cứu tiến hành theo phương pháp mô tả cắt
ngang.
Quá trình thực hiện: Tất cả bệnh nhân nữ đến khám
và điều trị vô sinh tại trung tâm thỏa mãn tiêu chuẩn chọn
bệnh sẽ được nhận vào mẫu phỏng vấn. Bệnh nhân được
chia thành 2 nhóm: nhóm mới được chẩn đoán là vô sinh
và nhóm đã điều trị vô sinh tại trung tâm ít nhất 3 tháng
bằng các phác đồ khác nhau. Tất cả đều được phỏng vấn
bằng bộ câu hỏi về nhân khẩu học, bộ câu hỏi đánh giá mức
độ trầm cảm của Beck Depression Inventory (BDI).
Quy định các biến: nghề nghiệp gồm cán bộ công
nhân viên, buôn bán, công nhân, nông dân, nội trợ, khác;
trình độ học vấn gồm tiểu học, trung học, cao đẳng – đại
học, sau đại học; địa dư gồm thành phố, nông thôn, miền
núi; dân tộc kinh và dân tộc khác; tôn giáo gồm không,
phật giáo, thiên chúa giáo, khác; loại vô sinh gồm nguyên
phát và thứ phát; nguyên nhân vô sinh gồm do vợ, do
chồng, cả 2 vợ chồng, không rõ nguyên nhân; thời gian vô
sinh dưới 3 năm và 3 năm trở lên; tình trạng kinh tế: khó
khăn, đủ sống, khá giả; áp lực từ phía gia đình (những
áp lực từ người thân trong gia đình cho rằng không có
con là do người phụ nữ, thúc giục nhanh có con, đôi khi
sự quan tâm quá mức cũng tạo ra áp lực cho người phụ
nữ): có và không có; áp lực từ phía xã hội (sự quan tâm
quá mức của mọi người xung quanh bạn bè, hàng xóm,
họ hàng, bị gièm pha kỳ thị về sự lâu có con): có và
không có.
Để đánh giá mức độ trầm cảm của bệnh nhân nghiên
cứu sử dụng thang đo BDI-II của Aaron T.Beck đã được
chuẩn hóa và sử dụng ở rất nhiều nghiên cứu về trầm
cảm trên thế giới. Ở nước ta cũng được chuẩn hóa và sử
dụng phổ biến tại Viện Sức Khỏe Tâm Thần Quốc Gia từ
năm 1989. BDI được xây dựng vào năm 1961, chuẩn hóa
vào năm 1969, đăng ký bản quyền vào năm 1979. Phiên
bản hai của bộ trắc nghiệm này BDI-II được xây dựng
theo những sửa đổi trong phiên bản sửa đổi lần thứ tư
của sổ tay thống kê và chẩn đoán các rối loạn tâm thần
của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ.
Thang BDI-II là thang tự đánh giá, gồm 21 đề mục được
đánh số từ 1 đến 21. Mỗi đề mục được cấu tạo nên bởi từ
4 đến 7 câu trả lời tương ứng với từ 4 đến 7 mức cường độ
triệu chứng nặng hơn dần: từ mức 0 đến mức 3. Người được
phỏng vấn sẽ đọc cẩn thận tất cả các câu và khoanh tròn
vào con số tương ứng với câu trả lời mô tả gần giống nhất
Nguyễn Thị Ni và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(2):67-73. doi: 10.46755/vjog.2020.2.1118
tình trạng mà họ cảm thấy trong 2 tuần trở lại đây, kể cả
ngày hôm nay. Mức độ trầm cảm của bệnh nhân được
tính bằng cách cộng điểm cho tất cả 21 đề mục, điểm tổng
cộng càng cao thì đối tượng được thử nghiệm càng bị rối
loạn trầm cảm nặng hơn. Tổng điểm trầm cảm là tổng điểm
thành phần của 21 câu. Vì vậy, ta có điểm thấp nhất là 0
điểm và cao nhất là 63 điểm (21 đề mục x 3 điểm). Kết quả:
+ Điểm tổng cộng dưới 14 điểm: không có trầm cảm.
+ Điểm tổng cộng từ 14-19 điểm: trầm cảm nhẹ.
+ Điểm tổng cộng từ 20-29 điểm: trầm cảm vừa.
+ Điểm tổng cộng từ 30 điểm trở lên: trầm cảm nặng.
Mức độ tin cậy của thang đo BDI-II: Thang đo BDI-II có
hệ số Cronbach’s alpha ở hầu hết các nghiên cứu về BDI-II
trung bình khoảng 0,9 (dao động trong khoảng 0,83-0,96).
Điều này đảm bảo tính nhất quán của thang đo khi hệ số
Cronbach’s alpha > 0,7. Về độ nhạy của thang đo, các nghiên
cứu về BDI-II đã báo cáo độ nhạy ≥ 0,7 và độ đặc hiệu là
khoảng 75% và cao hơn [20].
Phân tích thống kê: Số liệu được xử lý, thống kê và phân
tích trên phần mềm SPSS 19.0 để tính ra các đặc trưng của
thống kê mô tả như tần số, tỷ lệ %. Mô hình hồi qui đa biến
được sử dụng để kiểm định mối liên quan về rối loạn tâm
lý giữa hai nhóm bệnh nhân trước và sau điều trị, mối liên
quan về rối loạn tâm lý và các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý
bệnh nhân. Kiểm định có ý nghĩa thống kê khi trị số p < 0,05.
Đạo đức nghiên cứu: Được thông qua bởi hội đồng y
đức của Trường Đại học Y Dược Huế.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Số trường hợp Tỷ lệ %
Tuổi
< 35
≥ 35
Tuổi TB: X= 31,55 ± 5,17
252
87
74,34
25,66
Thời gian vô sinh
< 3 năm
≥ 3 năm
151
188
44,5
55,5
Nguyên nhân vô sinh
Do vợ
Do chồng
Do cả hai vợ chồng
Không rõ nguyên nhân
128
77
74
60
37,8
22,7
21,8
17,7
Phân loại vô sinh
Nguyên phát
Thứ phát
232
107
68,4
31,6
Nghề nghiệp
Cán bộ công nhân
viên chức
Buôn bán
Công nhân
Nông dân
Nội trợ
Khác
185
47
45
23
25
14
54,6
13,8
13,3
6,8
7,4
4,1
70 Nguyễn Thị Ni và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(2):67-73. doi: 10.46755/vjog.2020.2.1118
Học vấn
Phổ thông
Cao đẳng – đại học
120
219
35,4
64,6
Địa dư
Thành phố
Không thành phố
168
171
49,6
50,4
Dân tộc
Kinh
Khác
330
9
97,3
2,7
Tỷ lệ bệnh nhân ở độ tuổi dưới 35 tuổi chiếm đa số
với 74,34%. Nguyên nhân vô sinh do vợ là cao nhất 37,8%.
Thời gian vô sinh của các cặp vợ chồng từ 3 năm trở lên
chiếm tỷ lệ cao hơn với 55,5%. Bệnh nhân thuộc nhóm vô
sinh nguyên phát chiểm tỷ lệ cao với 68,4%. Bệnh nhân là
cán bộ công nhân viên chức chiếm nhiều nhất với 57,9%.
Trình độ học vấn cao đẳng – đại học tỷ lệ cao nhất với
64,4%. Tỷ lệ bệnh nhân ở thành thị và nông thôn tương
đương nhau với tỷ lệ lần lượt là 49,6% và 50,4%. Đa số
bệnh nhân được khảo sát là dân tộc kinh, có 2,7% là dân
tộc thiểu số.
3.2. Tình trạng rối loạn tâm lý ở bệnh nhân nữ vô sinh
Bảng 2. Tình trạng rối loạn tâm lý ở bệnh nhân nữ vô sinh
Nhóm bệnh
nhân
Mức độ
rối loạn tâm lý
Chưa điều
trị Đã điều trị Tổng
n Tỷ lệ (%) n
Tỷ lệ
(%) n
Tỷ lệ
(%)
Không 121 66,5 126 80,3 247 72,9
Nhẹ 37 20,3 18 11,5 55 16,2
Vừa 18 9,9 12 7,6 30 8,8
Nặng 6 3,3 1 0,6 7 2,1
Tổng 182 100 157 100 339 100
Điểm trung bình X1 = 11,02 ± 8,44
X2 = 7,94 ±
7,09
X= 9,60 ±
7,98
Điểm BDI trung bình của các bệnh nhân nữ vô sinh
là X= 9,60 ± 7,98; trong đó nhóm chưa điều trị là X1 =
11,02 ± 8,44; nhóm đã điều trị là X2 = 7,94 ± 7,09. Có
27,1% bệnh nhân bị rối loạn tâm lý, trong đó mức độ nhẹ
là 16,2%, vừa là 8,8%, nặng là 2,1%. Tỷ lệ bệnh nhân có
rối loạn tâm lý ở nhóm chưa điều trị là 33,5% và nhóm
đã điều trị là 19,7%. Bệnh nhân bị rối loạn tâm lý mức độ
nặng chiếm 3,3% ở nhóm chưa điều trị và 0,6% ở nhóm
đã điều trị. Có sự khác biệt về rối loạn tâm lý giữa hai
nhóm bệnh nhân trước và sau điều trị, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p = 0,001.
3.3. Các yếu tố liên quan đến rối loạn tâm lý ở bệnh
nhân vô sinh
Bảng 3. Áp lực từ gia đình
Áp lực
gia đình Tần số % Điểm trung bình p
Không 182 53,7 X1 = 7,51 ± 7,14 P =
0,001Có 157 46,3 X2 = 12,01 ± 8,24
Điểm BDI trung bình ở nhóm không có áp lực gia đình
X1 = 7,51 ± 7,14 thấp hơn ở nhóm có áp lực X2 = 12,01 ±
8,24. Có sự khác biệt về rối loạn tâm lý giữa hai nhóm
bệnh nhân có và không có chịu áp lực từ gia đình, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,001.
Bảng 4. Áp lực từ xã hội
Áp lực
xã hội Tần số % Điểm trung bình p
Không 197 58,1 X1 = 7,71 ± 6,99 P =
0,001Có 142 41,9 X2 = 12,22 ± 8,54
Điểm BDI trung bình ở nhóm không có áp lực xã hội
X1 = 7,71 ± 6,99, thấp hơn ở nhóm có áp lực X2 = 12,22
± 8,54. Có sự khác biệt về rối loạn tâm lý giữa hai nhóm
bệnh nhân có và không có chịu áp lực từ xã hội, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,001.
Bảng 4. Trình độ học vấn
Học vấn Tần số % Điểm trung bình p
Phổ thông 120 35,4 X1 = 10,75 ± 9,59
p=0,049Cao đẳng
– đại học
219 64,6 X2 = 8,96 ± 6,89
Điểm BDI trung bình ở nhóm phổ thông X1 = 10,75
± 9,59 cao hơn nhóm cao đẳng - đại học với X2 = 8,96 ±
6,89. Có sự khác biệt về rối loạn tâm lý giữa nhóm bệnh
nhân có trình độ học vấn phổ thông và nhóm cao đẳng
- đại học, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,049.
Bảng 5. Các yếu tố khác
Các yếu tố khác Tần số % Điểm trung bình p
Loại vô sinh
Nguyên phát 232 68,4 X1 = 9,19 ± 7,45 P = 0,173
Thứ phát 107 31,6 X2 = 10,47 ± 9,02
Nguyên nhân vô sinh
Do vợ 128 37,8 X1 = 10,30 ± 8,54
P = 0,230
Do chồng 77 22,7 X2 = 8,48 ± 7,55
Cả 2 74 21,8 X3 = 8,73 ± 6,19
Không rõ 60 17,7 X4 = 10,60 ± 9,09
Thời gian vô sinh (năm)
< 3 151 44,5 X1 = 9,87 ± 7,96 P = 0,566
≥ 3 188 55,5 X2 = 9,37 ± 8,02
71
Tình trạng kinh tế
Khó khăn 39 11,5 X1 = 11,49 ± 7,74
P = 0,265Đủ sống 291 85,8 X2 = 9,38 ±7,97
Khá giả 9 2,7 X3 = 8,22 ± 9,11
Nguyễn Thị Ni và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(2):67-73. doi: 10.46755/vjog.2020.2.1118
Vô sinh nguyên phát chiếm 68,4%; nguyên nhân vô
sinh do vợ chiếm tỷ lệ cao nhất 37,8%; thời gian vô sinh
từ 3 năm trở lên chiếm tỷ lệ cao hơn với 55,5%; phần lớn
bệnh nhân tự đánh giá kinh tế đủ sống chiếm 85,8%. Sự
khác biệt về rối loạn tâm lý giữa các nhóm bệnh nhân
đánh giá trên các phương diện: loại vô sinh, nguyên nhân
vô sinh, thời gian vô sinh hay tình trạng kinh tế là không
có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
4. BÀN LUẬN
Tình trạng rối loạn tâm lý ở bệnh nhân nữ vô sinh
trước và sau điều trị theo thang điểm BDI.
Theo nghiên cứu của chúng tôi điểm BDI trung bình
của các bệnh nhân nữ vô sinh là 9,60 ± 7,98; điểm BDI
này thấp hơn so với nghiên cứu của Zahra và CS. (2018),
điểm BDI ở nhóm vô sinh nguyên phát là 16,3 ± 8,7 và ở
nhóm vô sinh thứ phát là 16 ± 10,4 [21]. Sở dĩ có sự khác
biệt này là do bệnh nhân vô sinh trong mẫu nghiên cứu
của chúng tôi bao gồm tất cả những bệnh chưa điều trị
và đã điều trị (điều trị bằng bất kể phương pháp gì) trong
khi Zahra và CS. chỉ nghiên cứu trên đối tượng làm thụ
tinh ống nghiệm (IVF). Những bệnh nhân làm IVF thường
đã trải qua một quá trình điều trị lâu dài với các phương
pháp từ thấp đến cao không thành công cho nên áp lực
tâm lý của họ sẽ tăng lên.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có 27,1% bệnh
nhân bị rối loạn tâm lý, trong đó mức độ nhẹ chiếm
16,2%, vừa là 8,8%, nặng là 2,1%. Nghiên cứu của Domar
và CS. (1992), có khoảng 37% phụ nữ vô sinh có các
triệu chứng trầm cảm theo thang đo BDI [8]. Kết quả của
chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Enikő và CS. (2017),
có đến 44,8% phụ nữ vô sinh biểu hiện các triệu chứng
trầm cảm từ trung bình đến nặng [18]. Sự khác biệt này
có lẽ do Enikő và CS. chỉ nghiên cứu trên đối tượng vô
sinh nguyên phát còn chúng tôi nghiên cứu trên cả đối
tượng vô sinh nguyên phát và thứ phát. Trong nhóm vô
sinh thứ phát ít ra cũng có những đối tượng có con sống
khỏe mạnh đến tại thời điểm phỏng vấn, cho nên tâm lý
của những người này thường tốt hơn so với nhóm còn lại.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng điểm BDI
ở nhóm chưa điều trị là 11,02 ± 8,44 cao hơn nhóm đã
điều trị là 7,94 ± 7,09. Tỷ lệ bệnh nhân bị rối loạn tâm lý ở
nhóm chưa điều trị là 33,5% trong khi đó ở nhóm đã điều
trị là 19,7%. Bệnh nhân bị rối loạn tâm lý mức độ nặng
chiếm 3,3% ở nhóm chưa điều trị và 0,6% ở nhóm đã điều
trị. Như vậy tình trạng rối loạn tâm lý của bệnh nhân có
sự khác biệt theo hướng cải thiện sau quá trình điều trị
vô sinh (p = 0,001). Tỷ lệ cũng như mức độ rối loạn tâm
lý ở nhóm sau điều trị thấp hơn so với nhóm trước điều
trị. Nghiên cứu của Chow KM và CS. (2016) cũng đã chỉ
ra những can thiệp tâm lý cho bệnh nhân vô sinh trong
quá trình điều trị có thể cải thiện tình trạng rối loạn tâm
lý, các mối quan hệ hôn nhân và làm tăng tỷ lệ mang
thai [17]. Tuy nhiên theo Afsaneh và CS. (2005), Điểm
BDI trung bình tăng sau khi điều trị không thành công và
giảm sau khi điều trị thành công. Ở nhóm mang thai có
điểm BDI trước và sau điều trị lần lượt là 13,6 ± 11,3 và
6,2 ± 5,4; tương tự ở nhóm không mang thai là 14,5 ± 9,8
và 22,9 ± 11,8 [22]. Như vậy nếu đánh giá chung cho tất
cả bệnh nhân vô sinh nếu được hỗ trợ tâm lý trong quá
trình điều trị thì tình trạng rối loạn tâm lý được cải thiện
sau điều trị, nhưng khi đánh giá trên từng đối tượng cụ
thể thì tình trạng rối loạn tâm lý phụ thuộc vào kết quả
mà họ đạt được sau điều trị. Dù vậy cũng không thể phủ
nhận công tác tư vấn, giải thích, hướng dẫn, hỗ trợ cho
đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi là khá tốt. Có
lẽ khi được tư vấn rõ ràng về nguyên nhân của chẩn đoán
vô sinh có thể giảm bớt gánh nặng cho bệnh nhân khi họ
hiểu tại sao điều này có thể xảy ra với họ và các giải pháp
can thiệp điều trị giúp họ có thai.
Một số yếu tố liên quan đến rối loạn tâm lý ở bệnh
nhân vô sinh.
Liên quan đến áp lực từ gia đình và xã hội, kết quả
nghiên cứu của chúng tôi điểm BDI trung bình ở nhóm
không có áp lực gia đình là 7,51 ± 7,14 và nhóm có áp
lực gia đình là 12,01 ± 8,24. Có sự khác biệt về rối loạn
tâm lý giữa hai nhóm bệnh nhân có và không có chịu áp
lực từ gia đình, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p =
0,001. Đối với áp lực từ xã hội thì điểm BDI trung bình ở
nhóm không có áp lực và nhóm có áp lực lần lượt là 7,71
± 6,99 và 12,22 ± 8,54. Có sự khác biệt về rối loạn tâm
lý giữa hai nhóm bệnh nhân có và không có chịu áp lực
từ xã hội, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,001.
Nghiên cứu của Enikő và CS. (2017) cho thấy các triệu
chứng trầm cảm và lo lắng ở phụ nữ vô sinh có liên quan
đến tuổi tác, mối quan tâm xã hội và tình dục; áp lực xã
hội cũng có thể làm xấu thêm tình trạng rối loạn tâm lý
của bệnh nhân [18,23]. Không có khả năng sinh con tự
nhiên có thể gây ra cảm giác xấu hổ, tội lỗi và tự ti cho
người phụ nữ, họ phải đối mặt với sự phân biệt đối xử
xã hội và sự kỳ thị [1,2]. Do đó phần lớn phụ nữ vô sinh
không chia sẻ vấn đề của họ với gia đình hoặc bạn bè mà
thường muốn che giấu và họ cảm thấy xấu hổ, thất bại
khi thêm một ai đó biết tình trạng của họ, điều đó làm họ
dễ bị tổn thương tâm lý thêm nữa.
Về trình độ học vấn, theo Alhassan A và CS. (2014),
72 Nguyễn Thị Ni và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(2):67-73. doi: 10.46755/vjog.2020.2.1118
mức độ trầm cảm cao hơn đáng kể giữa các đối tượng
có trình độ học vấn thấp [1]. Ở nghiên cứu của chúng
tôi điểm BDI trung bình ở nhóm có trình độ học vấn phổ
thông là 10,75 ± 9,59 cao hơn nhóm cao đẳng – đại học
là 8,96 ± 6,89. Sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa
thống kê với p = 0,049. Kết quả này tương tự với nghiên
cứu của Afsaneh và CS. (2005), những người có trình
độ học vấn thấp hơn có điểm BDI cao hơn [8]. Beutel và
cộng sự cũng đã báo cáo mối tương quan giữa giáo dục
và trầm cảm (P <0,05) [24]. Có vẻ như những người có
học vấn cao có các mục tiêu khác để tập trung vào ngoài
vấn đề về sinh sản. Bên cạnh đó sự hiểu biết rõ và nắm
bắt được nhiều thông tin về nguyên nhân cũng như các
giải pháp hỗ trợ sinh sản giúp họ tự tin và dễ dàng hơn
khi tuân thủ quá trình điều trị.
Về một số yếu tố khác, vô sinh nguyên phát chiếm
68,4%; nguyên nhân vô sinh do vợ chiếm tỷ lệ cao nhất
37,8%; thời gian vô sinh từ 3 năm trở lên chiếm tỷ lệ cao
hơn với 55,5%; phần lớn bệnh nhân tự đánh giá kinh tế đủ
sống chiếm 85,8%. Không có mối liên quan giữa điểm số
BDI và loại vô sinh, nguyên nhân vô sinh, thời gian vô sinh
hay tình trạng kinh tế. Sự khác biệt giữa các nhóm không
có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Lok và cộng sự đã chỉ
ra rằng mức độ trầm cảm của bệnh nhân sau khi điều trị
thất bại liên quan với thời gian vô sinh. Tuy nhiên, điểm
BDI sau điều trị không liên quan đến loại vô sinh, tuổi tác,
nguyên nhân vô sinh và số lần điều trị trước đó [25].
5. KẾT LUẬN
Tình trạng rối loạn tâm lý ở bệnh nhân nữ vô sinh
theo thang điểm BDI chiếm tỷ lệ đáng kể và có khác biệt
theo hướng cải thiện sau quá trình điều trị vô sinh. Có sự
liên quan giữa rối loạn tâm lý với áp lực từ gia đình và xã
hội, với trình độ học vấn, nhưng không thấy có mối liên
quan giữa điểm số BDI và loại vô sinh, nguyên nhân vô
sinh, thời gian vô sinh hay tình trạng kinh tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alhassan A, Ziblim AR, Muntaka S. A survey on de-
pression among infertile women in Ghana. BMC Wom-
ens health. 2014 Mar 10; 14(1):42.
2. Kristin L. Rooney, BA. The relationship between
stress and infertility. Dialogues Clin Neurosci. 2018 Mar;
20(1):41–47.
3. Boivin J, Bunting L, Collins JA, Nygren KG. Internation-
al estimates of infertility prevalence and treatment-seek-
ing: potential need and demand for infertility medical
care. hum Reprod. 2007; 22(6):1506–12.
4. Evers JL. Female subfertility. Lancet. 2002; 360
(9327):151–9.
5. Astbury J, Mello MC, Cottingham J, Fisher J, Izutsu
T, Pinel A, Saxena S, editors. Mental health aspects of
women’s reproductive health: a global review of the
literature. Geneva: World Health Organization. 2009;
128–46.
6. Greil AL. Infertility and psychological distress: a criti-
cal review of the literature. Soc Sci Med. 1997; 45:1679-
704.
7. Ernestina S. Donkor, Florence Naab, Deborah Y. Kussi-
waah. “I am anxious and desperate”: psychological ex-
periences of women with infertility in The Greater Accra
Region, Ghana. Fertility Research and Practice. 2017; 3:6.
8. Domar AD, Broome A, Zuttermeister PC, Seibel M,
Friedman R. The prevalence and predictability of de-
pression in infertile women. Fertil Steril. 1992 Dec;
58(6):1158-63.
9. Hồ Thị Thanh Tâm, Lê Minh Tâm, Trương Quang Vinh.
Áp lực tâm lý ở cặp vợ chồng vô sinh và mối liên quan với
rối loạn tình dục. Tạp chí Phụ sản. 2018; 16(02):128-37.
10. Smeenk JM, Verhaak CM, Eugster A, van Minnen
A, Zielhuis GA, Braat DD. The effect of anxiety and de-
pression on the outcome of in-vitro fertilization. Ox-
ford Journals Medicine Human Reproduction. 2001 Jul;
16(7):1420-3.
11. Belevska J. The Impact of Psycho-Education on in
Vitro Fertilisation Treatment Efficiency. Prilozi. 2015;
36(2):211-6.
12. Hoàng Thị Tuyết Mai. Tâm lý các bệnh nhân điều trị
vô sinh bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm tại
bệnh viện Phụ sản Trung Ương [Luận văn Điều dưỡng]. Hà
Nội: Trường Đại học Thăng Long. 2012.
13. Crawford NM., Hoff HS., Mersereau JE. Infertile
women who screen positive for depression are less
likely to initiate fertility treatments. Hum Reprod. 2017;
32(3):582–7.
14. Sejbaek CS., Hageman I., Pinborg A., Hougaard CO.,
Schmidt L. Incidence of depression and influence of de-
pression on the number of treatment cycles and births
in a national cohort of 42 880 women treated with ART.
Hum reprod. 2013; 28(4):1100–9.
15. Chen TH., Chang SP., Tsai CF., Juang KD. Preva-
lence of depressive and anxiety disorders in an assist-
ed reproductive technique clinic. hum Reprod. 2004;
19(10):2313–8.
16. Frederiksen Y., Farver-Vestergaard I., Skovgård NG.,
Ingerslev HJ., Zachariae R. Efficacy of psychosocial in-
terventions for psychological and pregnancy outcomes
in infertile women and men: a systematic review and me-
ta-analysis. BMJ Open. 2015; 5(1):e006592.
17. Chow KM., Cheung MC., Cheung IK. Psychosocial in-
terventions for infertile couples: a critical review. J Clin
Nurs. 2016; 25(15-16):2101–3.
18. Enikő Lakatos, Judit F Szigeti, Péter P Ujma, Réka
Sexty, and Piroska Balog. Anxiety and depression among
infertile women: a cross-sectional survey from Hungary.
BMC Womens Health. 2017; 17:48.
73
19. Demyttenaere K, Bonte L, Gheldof M, Vervaeke M,
Meuleman C, Vanderschuerem D, d’Hooghe T. Coping
style and depression level influence outcome in in vitro
fertilization. Fertil Steril. 1998; 69(6):1026-33.
20. Wang YP, Gorenstein C. Psychometric properties of
the Beck Depression Inventory-II: a comprehensive re-
view. Journal of the Brazillian Psychiatric Association.
2013; 35(4):16-46.
21. Zahra Shahraki, Fatemeh Davari Tanha, Mahsa Gha-
jarzadeh. Depression, sexual dysfunction and sexual
quality of life in women with infertility. BMC Womens
health. 2018; 18:92.
22. Afsaneh Khademi, Ashraf Alleyassin, Marzieh Agha-
hosseini, Fatemeh Ramezanzadeh and Ali Ahmadi
Abhari. Pretreatment Beck Depression Inventory score
is an important predictor for Post-treatment score in
infertile patients: a before-after study. BMC Psychiatry.
2005; 5:25.
23. Miles LM, Keitel M, Jackson M, Harris A, Licciardi F.
Predictors of distress in women being treated for infertil-
ity. J Reprod Infant Psychol. 2009; 27(3):238–57.
24. Beutel M, Kupfer J, Kirchmeyer P, Kehde S, Köhn FM,
Schroeder-Printzen I et al. Treatment-related stress-
es and depression in couples undergoing assisted re-
productive treatment by IVF or ICSI. Andrologia. 1999;
31:27-35.
25. Lok IH, Lee DT, Cheung LP, Chung WS, Lo WK, Haines
CJ. Psychiatric morbidity amongst infertile Chinese
women undergoing treatment with assisted reproduc-
tive technology and the impact of treatment failure. Gy-
necol Obstet Invest. 2002; 53:195-9.
Nguyễn Thị Ni và cs. Tạp chí Phụ sản 2020; 18(2):67-73. doi: 10.46755/vjog.2020.2.1118
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_tinh_trang_roi_loan_tam_ly_o_benh_nhan_vo_sinh_ba.pdf