Không có sự khác biệt về tình trạng thiếu máu
thiếu sắt giữa trẻ có tổn thương dạ dày với trẻ có
tổn thương tá tràng với p > 0,05 trong 40 trẻ bị viêm
loét dạ dày tá tràng được chúng tôi nghiên cứu.
Thiếu máu thiếu sắt có thể do nhiều nguyên nhân
khác nhau và một nguyên nhân thiếu máu thiếu
sắt thường gặp hiện nay và nhiều nghiên cứu trên
thế giới đã xác định là viêm loét dạ dày tá tràng có
nhiễm Hp. Và theo nhiều nghiên cứu thì nhiễm Hp
ở trẻ có tổn thương viêm dạ dày hoặc loét tá tràng
có tỷ lệ cao hơn trẻ có tổn thương loét dạ dày hoặc
viêm tá tràng. Trong nghiên cứu 40 trẻ viêm loét dày
tá tràng của chúng tôi thì tỷ lệ gặp viêm dạ dày và
loét tá tràng có tỷ lệ gần tương đương nhau lần lượt
là 22,5% và 17,5%. Vì vậy không có sự khác biệt về
tình trạng thiếu máu thiếu sắt giữa tổn thương dạ
dày và tá tràng là có thể giải thích được.
Chúng tôi đã tìm thấy sự khác biệt về tình trạng
thiếu máu thiếu sắt giữa hình thái tổn thương viêm
dạ dày tá tràng và loét dạ dày tá tràng. Như chúng
ta đã biết loét dạ dày tá tràng có nhiều nguyên nhân
gây ra, chảng hạn như: yếu tố duy truyền, yếu tố môi
trường và thói quen Và HP giữ vai trò quan trọng
trong việc gây nên loét ở trẻ em. Theo nhiều công
trình nghiên cứu gần đây thì nhiễm HP liên quan đên
tình trạng thiếu máu thiếu sắt và trong nghiên cứu
của chúng tôi cũng đã tìm thấy mối liên quan này. Vì
vậy thiếu máu thiếu sắt liên quan đên hình thái tổn
thương là điều có thể giải thích được.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy
không có sự khác biệt về mức độ thiếu máu giữa
trẻ viêm loét dạ dày tá tràng có nhiễm HP và trẻ
viêm loét dạ dày tá tràng mà không nhiễm HP. Sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Theo
Victor M. Cardenas và cộng sự khi tiến hành nghiên
cứu 7462 bệnh nhân tại Mỹ đã ghi nhận được kết
quả tương tự với kết quả của chúng tôi. Đó là tình
trạng nhiễm Hp liên quan đến tình trạng thiếu máu
thiếu thiếu sắt nhưng lại không liên quan đến mức
độ thiếu máu [13].
Không có sự khác biệt về mức độ thiếu máu giữa
vị trí tổn thương dạ dày và tá tràng với p: 0,059 >
0,05. Trong nghiên cứu của chúng tôi tình trạng thiếu
máu thiếu sắt không liên quan đến vị trí thương
tổn ở dạ dày hay tá tràng, vì vậy mức độ thiếu máu
không có sự khác biệt giữa hai vị trí tổn thương cũng
là điều phù hợp. Giữa hai hình thái viêm dạ dày tá
tràng và loét dạ dày tá tràng không có sự khác biệt
về mức độ thiếu máu thiếu sắt.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 27 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ viêm loét dạ dày tá tràng điều trị tại Khoa Nhi bệnh viện Trung ương Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
202
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Địa chỉ liên hệ: Phạm Võ Phương Thảo, email: pvpthao@huemed-univ.edu.vn
Ngày nhận bài: 17/10/2019; Ngày đồng ý đăng: 22/11/2019.; Ngày xuất bản: 28/12/2019
Nghiên cứu tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ viêm loét dạ dày
tá tràng điều trị tại Khoa Nhi bệnh viện Trung ương Huế
Phạm Võ Phương Thảo1,3, Võ Thị Thu Hà2, Nguyễn Thị Cự3
(1) Nghiên cứu sinh, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng
(3) Bộ môn Nhi, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Thiếu máu thiếu sắt có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau: cung cấp thiếu sắt, hấp thu sắt kém,
nhu cầu sắt cao và mất máu qua đường tiêu hóa, tiết niệu, chu kì kinh nguyệt. Nguyên nhân thiếu máu thiếu sắt
thường gặp trong viêm loét dạ dày tá tràng hiện nay và nhiều nghiên cứu trên thế giới đã xác định đó là xuất huyết
tiêu hóa và tình trạng nhiễm Helicobacter pylori. Mục tiêu: Xác định một số yếu tố liên quan đến tình trạng
thiếu máu thiếu sắt ở trẻ bị viêm loét dạ dày tá tràng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Theo phương
pháp mô tả cắt ngang, cỡ mẫu thuận tiện. Kết quả: Trẻ bị viêm loét dạ dày tá tràng trong nghiên cứu thường
gặp ở lứa tuổi lớn (10- 15 tuổi); tuổi trung bình trong nghiên cứu là 10,7± 0,3 tuổi; viêm loét dạ dày tá tràng
trong nhóm nghiên cứu gặp ở trẻ trai nhiều hơn ở trẻ gái, tỷ lệ nam/nữ: 2,63. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở trẻ
viêm loét dạ dày tá tràng mà HP âm tính chỉ có 6,9%, tỷ lệ này ở trẻ HP dương tính là 81,8% và cao gấp 60,8
lần so với trẻ có HP âm tính. Kết luận: Từ kết quả mà chúng tôi thu thập được khi nghiên cứu 40 trẻ viêm loét
dạ dày tá tràng tại Khoa Nhi Bệnh Viện Trung Ương Huế, chúng tôi đã ghi nhận được rằng có sự khác biệt về
thiếu máu thiếu sắt ở trẻ viêm loét dạ dày tá tràng có HP dương tính và trẻ viêm loét dạ dày tá tràng có HP
âm tính. Đồng thời ghi nhận có sự khác biệt về tình trạng thiếu máu thiếu sắt giữa hình thái tổn thương loét
dạ dày tá tràng và viêm dạ dày tá tràng. Do đó nội soi dạ dày tá tràng không chỉ quan trọng trong chẩn đoán
mà còn tiên lượng khả năng gây thiếu máu thiếu sắt ở bệnh nhân.
Từ khóa: thiếu máu thiếu sắt, viêm loét dạ dày tá tràng do HP.
Abstract
The status of iron deficiency anemia in children with peptic ulcer
disease at Hue Central Hospital
Pham Vo Phuong Thao1,3, Vo Thi Thu Ha2, Nguyen Thi Cu3
(1) PhD student of Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Danang Hospital for Women and Children
(3) Department of Pediatric, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: Iron deficiency anemia can be caused by a variety of causes: iron deficiency, poor iron
absorption, high iron requirements and blood loss through the gastro-intestinal tract, urinary tract, menstrual
cycle. Causes of iron deficiency anemia are common in peptic ulcer disease. Many studies in the world have
identified that one of causes is gastrointestinal bleeding and Helicobacter pylori infection. Obiective: To
determine some factors related to iron deficiency anemia in children with peptic ulcer disease. Methods:
According to the method of cross-sectional description. Results: Children with gastro- duodenal ulcer in
the study were more likely to be at older ages (10-15 years). The mean age of the study was 10.7 ± 0.3
years. Gastroduodenal ulcer in the study group was found to be more common in boys than girls, with a
male / female ratio of 2.63. The prevalence of iron-deficiency anemia in children with peptic ulcer was only
6.9% in HP-negative, 81.8% in HP children with HP. positive. Conclusions: From the results in the study of
40 children with gastroduodenal ulcer at Hue Children’s Hospital, we have noted that there are differences
in iron deficiency anemia in children peptic gastric ulcer HP positive and children peptic ulcer peptic ulcer
HP negative. At the same time, there was a difference in the pattern of iron deficiency anemia between
the lesions of duodenal ulcer and gastroduodenitis. Duodenal gastric endoscopy is not only important in
diagnosis but also predicts the possibility of causing iron deficiency anemia in patients.
Key words: iron deficiency anemia, Helicobacter Pylori Infection.
DOI: 10.34071/jmp.2019.6_7.30
203
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu máu thiếu sắt là tình trạng thiếu sắt cho
quá trình tổng hợp hemoglobin, là một bệnh về máu
phổ biến nhất ở trẻ em. Ước tính khoảng 30% dân số
toàn cầu bị thiếu máu thiếu sắt và ảnh hưởng nhiều
nhất đến các nước đang phát triển. Thiếu máu thiếu
sắt có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau: cung cấp
thiếu sắt, hấp thu sắt kém, nhu cầu sắt cao và mất máu
qua đường tiêu hóa, tiết niệu, chu kì kinh nguyệt.
Nguyên nhân thiếu máu thiếu sắt thường gặp trong
viêm loét dạ dày tá tràng hiện nay và nhiều nghiên cứu
trên thế giới đã xác định đó là xuất huyết tiêu hóa và
tình trạng nhiễm Helicobacter pylori. 15%- 20% trẻ
viêm loét dạ dày tá tràng có biến chứng xuất huyết
tiêu hóa và gây nên tình trạng thiếu máu ở nhiều
mức độ khác nhau. Helicobacter pylori đóng vai trò
quan trọng và là nguyên nhân chính trong bệnh sinh
của viêm loét dạ dày - tá tràng, ung thư dạ dày và
thiếu máu thiếu sắt.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về bệnh lý viêm loét
dạ dày tá tràng khá nhiều nhưng chưa đề cập nhiều
đến tình trạng thiếu máu thiếu sắt. Vì vậy, chúng tôi
tiến hành đề tài nhằm 2 mục tiêu:
1. Mô tả tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ bị
viêm loét dạ dày tá tràng.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến tình
trạng thiếu máu thiếu sắt ở trẻ bị viêm loét dạ dày
tá tràng.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên 40 bệnh nhi tại
phòng khám và phòng tiêu hoá, Khoa Nhi, Bệnh Viện
Trung Ương Huế từ tháng 4/2013 đến tháng 6/2014.
2.2. Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Trẻ từ 6 đến 15 tuổi
- Có triệu chứng lâm sàng: đau bụng vùng
thượng vị, nôn mửa Và được xác định bằng hình
ảnh nội soi có biểu hiện viêm và/hoặc loét dạ dày
hay tá tràng.
2.3. Tiêu chuẩn loại trừ
- Các bệnh nhân bị rối loạn tâm thần không hợp
tác trong nội soi.
- Bệnh nhân nghi ngờ bụng ngoại khoa.
- Bệnh nhân đang trong tình trạng cấp cứu.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang với cỡ mẫu thuận tiện. Xử
lý số liệu bằng phần mềm SPSS 22.0.
3. KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi chọn ra 40 bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn chọn bệnh.
3.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Đặc điểm Số trường hợp Tỷ lệ (%)
Giới
Nam 29 72,5
Nữ 11 27,5
Nhóm tuổi
6-9 10 25,0
10-15 30 75,0
Trẻ bị viêm loét dạ dày tá tràng trong nghiên cứu thường gặp ở lứa tuổi 10- 15 tuổi. Tuổi trung bình trẻ
trong nghiên cứu là 10,7± 0,3 tuổi. Viêm loét dạ dày tá tràng trong nhóm nghiên cứu gặp ở trẻ trai nhiều hơn
ở trẻ gái, tỷ lệ nam/nữ: 2,63.
3.2. Phân bố về loại tổn thương đại thể dạ dày - tá tràng
Bảng 2. Phân bố về loại tổn thương đại thể dạ dày - tá tràng
Tổn thương đại thể Số trường hợp (n) Tỷ lệ (%)
Loét dạ dày 2 5,0
Loét tá tràng 7 17,5
Viêm dạ dày 9 22,5
Viêm tá tràng 22 55,0
Tổng 40 100
Trong 40 trẻ trong nghiên cứu thì tổn thương viêm chiếm đa số 77,5%, loét có tỉ lệ thấp hơn chỉ chiếm
22,5%.
204
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
3.3. Tỷ lệ nhiễm Helicobacter Pylori (HP) ở trẻ viêm loét dạ dày trong nghiên cứu
Bảng 3. Tỷ lệ nhiễm Helicobacter Pylori (HP) ở trẻ viêm loét dạ dày trong nghiên cứu
Nhiễm HP Số trường hợp (n) Tỷ lệ (%)
Có 11 27,5
Không 29 72,5
Tổng 40 100
Tỷ lệ nhiễm HP ở trẻ viêm loét dạ dày tá tràng trong nhóm nghiên cứu là 27,5% (11/40).
3.4. Phân bố tỷ lệ thiếu máu ở trẻ viêm loét dạ dày tá tràng
Bảng 4. Phân bố tỷ lệ thiếu máu ở trẻ viêm loét dạ dày tá tràng
Thiếu máu Số trường hợp (n) Tỷ lệ (%)
Thiếu máu thiếu sắt 11 27,5
Thiếu máu không thiếu sắt 0 0,0
Thiếu sắt đơn thuần 0 0,0
Không thiếu máu thiếu sắt 29 72,5
Tổng 40 100
Trong 40 trẻ viêm loét dạ dày tá tràng có 11 trẻ có tình trạng thiếu máu thiếu sắt, chiếm tỷ lệ 27,5%, không
có trẻ nào thiếu máu mà không thiếu sắt hoặc thiếu sắt đơn thuần.
3.5. Liên quan giữa tình trạng thiếu máu thiếu sắt với tình trạng nhiễm H.P
Bảng 5. Liên quan giữa tình trạng thiếu máu thiếu sắt với tình trạng nhiễm H.P
Nhiễm HP
Thiếu máu thiếu sắt Không thiếu máu thiếu sắt
OR, p
n % n %
Có (n=11) 9 81,8 2 18,2 OR=60,8
P <0,01Không (n=29) 2 6,9 27 93,1
Có sự khác biệt về thiếu máu thiếu sắt ở trẻ viêm loét dạ dày tá tràng có HP dương tính và trẻ viêm loét
dạ dày tá tràng có HP âm tính. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở trẻ viêm loét dạ dày tá tràng mà HP âm tính chỉ có
6,9%, tỷ lệ này ở trẻ HP dương tính là 81,8% và cao gấp 60,8 lần so với trẻ có HP âm tính.
3.6. Liên quan giữa thiếu máu với vị trí tổn thương
Bảng 6. Liên quan giữa thiếu máu với vị trí tổn thương
Vị trí tổn thương
Thiếu máu thiếu sắt Không thiếu máu thiếu sắt p
n % n %
>0,05Dạ dày (n= 11) 4 63,6 7 36,4
Tá tràng (n= 29) 7 24,1 22 75,9
Không có sự khác biệt về tình trạng thiếu máu thiếu sắt giữa trẻ có tổn thương dạ dày với trẻ có tổn
thương tá tràng với p >0,05.
3.7. Liên quan giữa thiếu máu với hình thái tổn thương
Bảng 7. Liên quan giữa thiếu máu với hình thái tổn thương
Hình thái
tổn thương
Thiếu máu thiếu sắt Không thiếu máu thiếu sắt p
n % n %
<0,01
Viêm dạ dày hoặc tá tràng (n=31) 4 12,9 27 87,1
Loét dạ dày hoặc tá tràng (n=9) 7 77,8 2 22,2
Có sự khác biệt về tình trạng thiếu máu thiếu sắt giữa hình thái tổn thương loét dạ dày tá tràng và viêm
dạ dày tá tràng, 77,8% so với 12,9%. Và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
205
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
3.8. Liên quan giữa mức độ thiếu máu với tình trạng nhiễm HP
Bảng 8. Liên quan giữa mức độ thiếu máu với tình trạng nhiễm HP
Nhiễm HP
Thiếu máu nhẹ Thiếu máu vừa Thiếu máu nặng P
n % n % n %
> 0,05Có (n= 9) 2 22,2 5 56,6 2 22,2
Không (n=2) 0 0,0 2 100 0 0,0
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ thiếu máu giữa trẻ viêm loét dạ dày tá tràng nhiễm
HP và không nhiễm HP.
3.9. Liên quan giữa mức độ thiếu máu với vị trí tổn thương
Bảng 9. Liên quan giữa mức độ thiếu máu với vị trí tổn thương
Vị trí
tổn thương
Thiếu máu nhẹ Thiếu máu vừa Thiếu máu nặng P
n % n % n %
> 0,05Dạ dày (n=4) 0 0,0 2 50,0 2 50,0
Tá tràng (n=7) 2 28,5 5 71,5 0 0,0
Không có sự khác biệt về mức độ thiếu máu giữa vị trí tổn thương dạ dày và tá tràng với p > 0,05.
3.10. Liên quan giữa mức độ thiếu máu với hình thái tổn thương
Bảng 10. Liên quan giữa mức độ thiếu máu với hình thái tổn thương
Hình thái
tổn thương
Thiếu máu nhẹ Thiếu máu vừa Thiếu máu nặng P
n % n % n %
> 0,05
Viêm dạ dày hoặc
tá tràng (n=4) 0 0,0 3 75,0 1 25,0
Loét dạ dày hoặc
tá tràng (n=7)
2 28,6 4 57,1 1 14,3
Không có sự khác biệt về mức độ thiếu máu giữa hai nhóm hình thái tổn thương: viêm dạ dày tá tràng và
loét dạ dày tá tràng với p > 0,05.
4. BÀN LUẬN
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là trẻ em
viêm loét dạ dày tá tràng từ 6 tuổi trở lên. Theo
nghiên cứu của chúng tôi thì viêm loét dạ dày tá
tràng thường gặp ở trẻ lớn (10- 15 tuổi). Tuổi trung
bình là 10,7± 0,3 tuổi. Và kết qủa này tương đương
với các tác giả nước ngoài, chẳng hạn như:nghiên
cứu của Elisabete Kawakami về biểu hiên lâm sàng
và đặc tính mô học của loét dày ở trẻ em và trẻ vị
thành niên cho thấy tuổi trung bình là 10,9 tuổi, và
theo chính tác giả này thì viêm loét dạ dày tá tràng
có thể gặp bất kì lứa tuổi nào nhưng gia tăng tần
suất sau 10 tuổi.và sự gia tăng này được cho là có
liên quan đến tình trạng nhiễm HP - là nguyên nhân
chính gây viêm loét dạ dày tá tràng ở trẻ em [7]. Có
sự khác biệt về tình trạng viêm loét dạ dày tá tràng
ở trẻ nam và nữ. Theo nghiên cứu của chúng tôi thì
nam gặp nhiều hơn nữ với tỷ lệ nam: nữ là 2,6/1.
Kết quả này phù hợp với các tác giả trong nước
cũng như nước ngoài.Trong nghiên cứu của Ngô Thị
Kim Loan và Trần Thị Thanh Tâm về đặc điểm xuất
huyết tiêu hóa ở trẻ em viêm loét dạ dày tá tràng có
helicobacter pylori tại khoa nhi tiêu hóa Bệnh Viện
Nhi Đồng 1 và Nhi Đồng 2 năm 2009 thì viêm loét
dạ dày tá tràng gặp ở trẻ nam nhiều hơn trẻ nữ với
tỷ lệ nam/ nữ là 1,3/1 [1]. Kết quả nghiên cứu của
Elisabete Kawakami về biểu hiên lâm sàng và đặc
tính mô học của loét dày ở trẻ em và trẻ vị thành
niên thì tỷ lệ viêm loét dạ dày tá tràng ở nam và nữ
là:1,65/1 [7].
Trong 40 trẻ viêm loét dạ dày tá tràng được
nghiên cứu thì tổn thương viêm chiếm đa số 77,5%,
loét có tỉ lệ thấp hơn chỉ chiếm 22,5%. Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Egbaria tại Isarel, loét dạ
dày tá tràng chiếm tỉ lệ 22,5% và trong một nghiên
cứu đa trung tâm tiến cứu ở Châu Âu về xuất độ loét
dạ dày tá tràng ở trẻ em, Kalach và cộng sự nhận
thấy loét chỉ xảy ra ở 10,6 % số trường hợp [10].
Trong nghiên cứu của chúng tôi thì tỷ lệ nhiễm
HP ở trẻ viêm loét dạ dày tá tràng là 27,5% (11/40).
Điều này phù hợp với các nghiên cứu của các tác
giả nước ngoài. Một nghiên cứu ở Đài Loan về tỷ lệ
nhiễm HP ở trẻ em là 23,7%. Nghiên cứu khác của
Yen và cộng sự cũng cho thấy tỷ lệ nhiễm HP ở trẻ
viêm loét dạ dày tá tràng là 33,3%. Và theo nghiên
cứu của R.P. Allaker được thực hiện tại London năm
206
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
2002 thì tỷ lệ nhiễm HP ở trẻ viêm loét dạ dày tá
tràng là 22% [12]. Một nghiên cứu nữa về bệnh loét
dạ dày tá tràng năm 2012 tại Mỹ cũng cho thấy 20%
trẻ em và người lớn bị viêm loét dạ dày tá tràng có
HP dương tính [2]. Tuy nhiên tỷ lệ nhiễm HP của
chúng tôi là khá thấp so với một số nghiên cứu khác
như 45% ở Mexico và 55% ở Ấn Độ. Điều này được
giải thích là do cỡ mẫu của chúng tôi nhỏ, tỷ lệ bệnh
nhân loét của chúng tôi không nhiều, viêm tá tràng
chiếm đa số.
Trong 40 trẻ viêm loét dạ dày tá tràng được
chúng tôi nghiên cứu thì có 11 trẻ có thiếu máu
thiếu sắt, chiếm tỷ lệ 27,5%. Kết quả này cũng phù
hợp với kết quả nghiên cứu của Ngô Thị Kim Loan
và Trần Thị Thanh Tâm năm 2009 tại Bệnh Viện Nhi
Đồng 1 và 2, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt là 20%. Và các
tác giả này đã khuyến cáo tầm soát thiếu máu thiếu
sắt ở trẻ viêm loét dạ dày tá tràng [1]. Các nghiên
cứu của các tác giả nước ngoài cũng cho kết quả
tương tự. Tại khoa nhi bệnh viện Tampere, Phần Lan
tỷ lệ thiếu máu trong 400000 trẻ viêm loét dạ dày tá
tràng trong suốt 8 năm từ năm 1991 đến năm 1998
là 20%, Một nghiên cứu khác tại Hàn Quốc thì cho
thấy tỷ lệ này là 16%.
Từ kết quả mà chúng tôi thu thập được khi
nghiên cứu 40 trẻ viêm loét dạ dày tá tràng tại Khoa
Nhi Bệnh Viện Trung Ương Huế, chúng tôi đã ghi
nhận được rằng có sự khác biệt về thiếu máu thiếu
sắt ở trẻ viêm loét dạ dày tá tràng có Hp dương tính
và trẻ viêm loét dạ dày tá tràng có HP âm tính. Và sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với P<0,01. Và rất
nhiều nghiên cứu của các tác gỉa nước ngoài cũng
đã tìm ra mối liên quan giữa nhiễm Hp và tình trạng
thiếu máu thiếu sắt [3], [4], [6], [8], [9]. Một nghiên
cứu lớn từ Bắc Mỹ ghi nhận HP là một yếu tố nguy
cơ của thiếu máu thiếu sắt ở 668 trẻ ở lứa tuổi đi
học từ Alaska và 7462 trẻ em, trẻ vị thành niên và
người lớn từ Mỹ. Trong nghiên cứu được thực hiện
bởi Cardenas và cộng sự, nhiễm HP là liên quan
với thiếu máu thiếu sắt với OR: 2,6 với độ tin cậy
95% [13]. Nghiên cứu của Lun- Hua Chen và cộng
sự thực hiện tại Trung Quốc năm 2007 để đánh giá
ảnh hưởng của nhiễm HP trong liệu pháp bổ sung
sắt bằng đường uống để điều trị thiếu máu thiếu sắt
cho thấy điều trị HP có thể nâng cao hiểu quả của
liệu pháp sắt succiante ở bệnh nhân viêm loét dạ
dày tá tràng có nhiễm Hp [11]. Kết quả của nghiên
cứu thiếu máu thiếu sắt ở trẻ người Alaska bản địa
cho thấy có đến 80% trẻ em thiếu máu có nhiễm HP,
còn tỷ lệ nhiễm HP ở trẻ không thiếu máu chỉ 20%
với. Và các tác giả đã kết luận rằng nhiễm HP có sự
liên quan đáng kể với thiếu máu (p:0,02) và thiếu
sắt (P:0,04) [5].
Không có sự khác biệt về tình trạng thiếu máu
thiếu sắt giữa trẻ có tổn thương dạ dày với trẻ có
tổn thương tá tràng với p > 0,05 trong 40 trẻ bị viêm
loét dạ dày tá tràng được chúng tôi nghiên cứu.
Thiếu máu thiếu sắt có thể do nhiều nguyên nhân
khác nhau và một nguyên nhân thiếu máu thiếu
sắt thường gặp hiện nay và nhiều nghiên cứu trên
thế giới đã xác định là viêm loét dạ dày tá tràng có
nhiễm Hp. Và theo nhiều nghiên cứu thì nhiễm Hp
ở trẻ có tổn thương viêm dạ dày hoặc loét tá tràng
có tỷ lệ cao hơn trẻ có tổn thương loét dạ dày hoặc
viêm tá tràng. Trong nghiên cứu 40 trẻ viêm loét dày
tá tràng của chúng tôi thì tỷ lệ gặp viêm dạ dày và
loét tá tràng có tỷ lệ gần tương đương nhau lần lượt
là 22,5% và 17,5%. Vì vậy không có sự khác biệt về
tình trạng thiếu máu thiếu sắt giữa tổn thương dạ
dày và tá tràng là có thể giải thích được.
Chúng tôi đã tìm thấy sự khác biệt về tình trạng
thiếu máu thiếu sắt giữa hình thái tổn thương viêm
dạ dày tá tràng và loét dạ dày tá tràng. Như chúng
ta đã biết loét dạ dày tá tràng có nhiều nguyên nhân
gây ra, chảng hạn như: yếu tố duy truyền, yếu tố môi
trường và thói quen Và HP giữ vai trò quan trọng
trong việc gây nên loét ở trẻ em. Theo nhiều công
trình nghiên cứu gần đây thì nhiễm HP liên quan đên
tình trạng thiếu máu thiếu sắt và trong nghiên cứu
của chúng tôi cũng đã tìm thấy mối liên quan này. Vì
vậy thiếu máu thiếu sắt liên quan đên hình thái tổn
thương là điều có thể giải thích được.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy
không có sự khác biệt về mức độ thiếu máu giữa
trẻ viêm loét dạ dày tá tràng có nhiễm HP và trẻ
viêm loét dạ dày tá tràng mà không nhiễm HP. Sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Theo
Victor M. Cardenas và cộng sự khi tiến hành nghiên
cứu 7462 bệnh nhân tại Mỹ đã ghi nhận được kết
quả tương tự với kết quả của chúng tôi. Đó là tình
trạng nhiễm Hp liên quan đến tình trạng thiếu máu
thiếu thiếu sắt nhưng lại không liên quan đến mức
độ thiếu máu [13].
Không có sự khác biệt về mức độ thiếu máu giữa
vị trí tổn thương dạ dày và tá tràng với p: 0,059 >
0,05. Trong nghiên cứu của chúng tôi tình trạng thiếu
máu thiếu sắt không liên quan đến vị trí thương
tổn ở dạ dày hay tá tràng, vì vậy mức độ thiếu máu
không có sự khác biệt giữa hai vị trí tổn thương cũng
là điều phù hợp. Giữa hai hình thái viêm dạ dày tá
tràng và loét dạ dày tá tràng không có sự khác biệt
về mức độ thiếu máu thiếu sắt.
5. KẾT LUẬN
Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở trẻ viêm loét dạ dày
tá tràng là 27,5%. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt gặp
207
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
nhiều ở trẻ nam, nhóm 10-15 tuổi. Nhiễm HP: thiếu
máu thiếu sắt gặp ở trẻ viêm loét dạ dày tá tràng
có nhiễm HP nhiều hơn so với không nhiễm HP
(OR=60,8, p <0,01. Hình thái tổn thương: giữa tổn
thương viêm và loét thì loét có tỷ lệ thiếu máu thiếu
sắt cao hơn (77,8% so với 12,9%, p<0,01). Vị trí tổn
thương: dạ dày hay tá tràng, tình trạng nhiễm HP và
cả hình thái tổn thương đều không liên quan đến
mức độ thiếu máu ở trẻ viêm loét dạ dày tá tràng có
thiếu máu thiếu sắt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Thị Kim Loan, Trần Thị Thanh Tâm (2009), “ Đặc
điểm xuất huyết tiêu hóa ở trẻ viêm loét dạ dày tá tràng có
helicobacter pylori tại Khoa Nhi Tiêu Hóa Bệnh Viện Nhi Đồng
1 và Nhi Đồng 2”, Y Hoc TP Hồ Chí Minh, 13(2), tr.148 - 152.
2. Anand (2012), “Peptic Ulcer Disease”, eMedicine’s
Esophagus, Stomach and Intestine Center, 7 pages.
3. Bader Faiyaz Zuberi, Salahuddin Afsar et al (2007),
“Hemoglobin, ferritin, vitamin B12 and Helicobacter pylori
infection:a study in patients underwent upper GI endos-
copy at civil hospital Karachi”, JCPSP; 17(9):546-549.
4. Barabino Arrigo Dufour (1999), “Unexplained re-
frectory iron deficiency anemia associated with helicoact-
er pyloti gastric infection in children:Further clinical evi-
dence”, Journal Pediatric Gastroenterology and Nutrition;
28(1):116-119.
5. CDC (2011),“Deficiency anemia in Alaska Native
children - Hooper Bay, Alaska”, Centers for Disease Control
and Prenvent;48(32):714-716.
6. Dulcience Maria Magalhaes Queiroz, Paul R. Scan-
derson et al (2013), “Iron status and helicobacter pylori
infection in symptomatic children: An internation Multi-
Centerd Study”, PloS One; 8(7): e68833.
7. Elisabete Kawakami, Rodrigo S. Machado et al
(2004), “Clinical and histological fearures of duodenal
ulcer in children and adolescent”, Journal de Pediatria;
80(4):321-5.
8. Helena Monzón, Montserrat Forné et al (2013), “He-
licobacter pylori infection as a cause of iron deficiency
anaemia of unknown origin”, World J Gastroenterol;
19(26): 4166-4171.
9. Henry. J. Windle, Dermot Kelleher (2007), “Child-
hood Helicobacter pylori Infection and Growth Impaired
in Developing Countries: A Vicious Cycle”, Offical Journal
of The American Academy of Pediatrics; 119;e754.
10. Lucica Pacifico (2010), “Consequences of Helico-
bacter pylori infection in children”, World J Gastroenter-
ol;16(41):5181-5194.
11. Lun-Hua Chen, He-Sheng Luo (2007), Effects of
Hpylori therapy on erythrocytic and iron parameters in iron
deficiency anemia patients with H pylori- positive chronic
gastristis, World J Gastroenterol;13(40):5380-5383.
12. R.P. Allaker, K.A. Young et al (2002), “Prevalence
of helicobacter pylori at oral and gastrointestinal sites in
children: evidence for possible oral-to-oral transmission”,
J. Med. Microbiol; 51:312-317.
13. Victor M. Cardenas, Zuber D. Mulla (2006), “Iron
deficiency and helicobacter pylori infection in the United
States”, Am J Epidemiol; 163(2): 127-34.
208
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_tinh_trang_thieu_mau_thieu_sat_o_tre_viem_loet_da.pdf