Như đã nói, Kinh Dịch được cả Đạo giáo lẫn Khổng giáo đánh giá rất
cao. Ngay Khổng Tử cũng tự thán mình có quá ít thời gian chuyên chú
Kinh Dịch, ước mong Trời cho thêm vài năm để hiểu hết cuốn kinh này.
Kinh Dịch đứng đầu trong Ngũ Kinh, Tứ Thư của Khổng giáo.
Từ thời nhà Chu, một mặt Kinh Dịch như là một loại sách chuyên về
lý luận siêu hình, mặt khác lại là cẩm nang về bói tướng số. Về cơ bản,
hai mặt đó không những không mâu thuẫn với nhau, mà còn bổ sung cho
nhau. Kinh Dịch gồm trong đó cách giải thích của tám quẻ đơn hay quẻ
ba vạch, tức lấy các vạch liền hay vạch đứt lập thành các Hào (Bát Quái),
tức Tiên Thiên Bát Quái, hay như sách Chu Lễ gọi là Kinh Quái, và sáu
mươi tư quẻ kép (gồm hai quẻ đơn chồng lên nhau). Quẻ đơn và quẻ kép
thể hiện vũ trụ và tất cả những gì tồn tại. Chu Hy, trong lời bàn về Dịch
từng nói: “Thái cực (một tên khác của Đạo) sinh Lưỡng Nghi; Lưỡng
Nghi sinh Tứ Tượng; Tứ Tượng sinh Bát Quái; Bát Quái sinh thiện ác,
cát hung”. Bát Quái vì vậy là hình của vũ trụ và định mệnh của con
người, thể hiện việc cát hung (lành dữ, tốt xấu). Bát Quái không chỉ thể
hiện thực tế dưới dạng quẻ, mà còn là thực tại theo quan điểm của người
Trung Hoa.
29 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 761 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu tôn giáo - Góp phần tìm hiểu khổng giáo ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hưng những triều đại ngoại tộc như vậy lại đua nhau
Hoa hóa. Uy lực của văn minh Trung Hoa có sức mạnh khó cưỡng. Lúc
này, Phật giáo đã giành được những thành công to lớn, song Khổng giáo
vẫn là nền tảng cơ bản của văn minh Trung Hoa: các nghi lễ chính, các
nho sĩ - quan lại vẫn còn đó. Đây là những yếu tố làm cho xã hội vẫn ổn
định dù nằm dưới ách ngoại tộc. Ở những nhà nước Bắc Triều, các bản
chú giải kinh của Trịnh Huyền được coi là nền tảng của quan niệm chính
thống. Còn ở các nhà nước Nam Triều (mà sử gia đời sau mới coi là
những nhà nước hợp pháp, chính thống vì là người Hoa), Khổng giáo
phải cạnh tranh với Phật giáo, Đạo giáo, phải nhân nhượng để hậu nho có
phần chê trách. Dù vậy, học thuyết của nho sĩ và các nguyên tắc luôn
được duy trì.
Từ năm 581 đến năm 589, nhà Tùy thống nhất được Trung Quốc. Sự
thống nhất này được nuôi dưỡng trong hơn năm trăm năm không bị phá
vỡ (trừ cuối nhà Đường đến đầu nhà Bắc Tống (907 - 959). Hoa Bắc về
cơ bản do nhà Kim chiếm cứ, từ Hoa Trung trở xuống lại do các triều đại
người Hoa kế nhau cai trị mà sử gia đời sau gọi là thời Ngũ Đại. Từ nhà
Tùy và nhà Đường, Phật giáo rất thịnh vượng. Một số vua nhà Đường
12 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014
thậm chí đã thể chế hóa Phật giáo và chính thức hóa tôn giáo này trong
cấu trúc nhà nước. Nhưng dù vậy, Khổng giáo vẫn là học thuyết chính
của nhà nước.
Đường Thái Tông nhận thấy tình trạng các nho sĩ bị phân rẽ vì phía
Bắc theo thuyết của Trịnh Huyền, phía Nam theo thuyết của Vương Túc
(nhà Ngụy), Đỗ Dự (nhà Tây Tấn), bèn sai Khổng Dĩnh Đạt, cháu xa đời
của Khổng Tử, cùng với các nho sĩ khác chiết chung cả hai loại thuyết
Nam Bắc để làm ra Ngũ Kinh chính nghĩa, biến thành tiêu chuẩn cho kẻ
thức giả. Một lần nữa, Khổng giáo lại được tái hệ thống hóa, song vẫn
còn chưa đủ.
Ảnh hưởng của Phật giáo đối với ý thức xã hội không ngừng tăng,
nhất là sau khi Trung Quốc tái thống nhất chính trị từ nhà Đường về sau.
Mặt khác, Kinh Dịch, cuốn kinh chuyên bàn về hình nhi thượng học (siêu
hình) của cả nho sĩ và đạo sĩ, trở thành môn học bắt buộc từ ngay thời đó
cho đến thế kỷ X, lúc nhà Tống bắt đầu.
Vào thời nhà Tống, Khổng giáo mới được tạo dựng một cách đầy đủ.
Về sau, người ta gọi thời nhà Tống là thời Tam giáo đồng nguyên, có
nghĩa lúc ấy Khổng giáo và Phật giáo gặp nhau. Sau những tiến triển
riêng rẽ lâu dài, cả hai đều cảm nhận cần cùng nhau lý giải nguyên ủy của
vũ trụ, trời đất, vạn vật, con người bằng triết lý thấm đượm tính phổ quát.
Tuy nhiên, đó là vấn đề mà Đạo giáo đụng chạm từ lâu, khi mà môn đồ
của Khổng giáo còn ít quan tâm. Từ đây về sau, Khổng giáo trình ra
những khái niệm như Vô cực hay Thái hư như là nguyên lý đầu tiên,
nguyên lý tuyệt đối, được đồng hóa với Đạo qua nguyên tắc Lý để chỉ ra
lý do của quy luật hằng thường nằm bên trong của vạn vật, vũ trụ. Không
có Lý thì mọi vật không tồn tại.
Đại diện hoàn bị cho nền Khổng giáo mới là Chu Hy (hậu Nho gọi là
Chu Tử). Ông đã bỏ sức những năm đầu tiên học hỏi Phật giáo và Đạo giáo.
Tác phẩm của ông thực sự đạt đỉnh cao của tân Khổng giáo. Theo ông, Lý là
vĩnh hằng và tồn tại trước hết, trước cả trời đất. Chính Lý làm cho Khí nhẹ
và nâng đỡ Lý. Từ Khí mà sản sinh ra Âm Dương, Âm lặn xuống dưới là
Đất, Dương dâng cao là Trời. Âm Dương vừa đối lại vừa hợp trong khoảng
không vũ trụ và trong vô hạn mà tạo ra vạn vật muôn loài.
Thực ra, tính siêu hình trên đây đề cập đến thuộc về lịch sử hơn là
thuộc về triết học. Song cách tư biện và siêu hình đó mở ra con đường
phản ánh tôn giáo. Hơn nữa, các kỳ thi tuyển chính tạo cơ sở cho việc lý
Nguyễn Quốc Tuấn. Góp phần tìm hiểu Khổng giáo 13
giải Tứ Thư, Ngũ Kinh, đặc biệt là Tứ Thư gồm Luận Ngữ, Mạnh Tử,
Trung Dung, Đại Học, trong đó, hai cuốn sau đặc biệt nhấn mạnh về Lễ
(Lễ Ký) qua những đoạn ghi chép về sự dâng cúng và các nghi tiết thờ tự
cơ bản. Chúng được nêu rất rõ ràng để các nho sĩ nhớ, không những thế
còn mang theo tình cảm tôn giáo một cách sâu sắc. Đấy là những khái
niệm và quan niệm tôn giáo một cách cơ bản nhất.
Bây giờ, chúng ta hãy trở lại xem xét các quan niệm và nghi lễ của
Khổng giáo, còn gọi là tôn giáo chính thức, một bộ phận tối quan trọng
để xác định tư cách hiện tượng như tôn giáo, để phần nào phân biệt với
tôn giáo dân chúng bắt đầu từ thời nhà Hán.
Theo lối tiên nghiệm, một tôn giáo chính thức sẽ phải gồm các niềm
tin và nghi lễ mang tính chính thức của nhà nước. Các thực hành tôn giáo
do hoàng đế và các đại thần khâm sai, quan chức đứng đầu địa phương
thực thi. Nhưng cũng có điểm chung giữa tôn giáo chính thức và tôn giáo
dân chúng, đó là sự thờ cúng tổ tiên. Đây không còn là đặc quyền của
một tầng lớp xã hội nào, là quyền và trách nhiệm của những người chủ
gia đình và dòng họ mà theo quy định và tập quán là người đàn ông. Mặt
khác, có thể xem đó là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho việc
xác định Khổng giáo với tư cách là tôn giáo.
3. Các khái niệm và quan niệm cơ bản của tôn giáo chính thức
Thiên - Nhân tương dữ: Ý niệm về sự tương thuộc giữa vũ trụ và
năng hoạt của nó với hành vi của con người là trung tâm của tôn giáo
chính thức. Ý niệm này phát triển từ trước thế kỷ II trước Công nguyên,
là vấn đề quan trọng nhất trong những trước tác của Khổng Tử.
Ý tưởng diễn giải mối tương thuộc giữa Thiên - Nhân là ý niệm cơ
bản của Khổng giáo. Đây là mối quan hệ giữa tự nhiên và đạo lý. Nó
được thu gọn vào trong quan niệm Tam Tài, trong đó Thiên che phủ và
sản sinh, Địa cưu mang và nuôi dưỡng, còn Nhân là sinh vật duy nhất,
trong vạn vật mà Trời sinh, Đất dưỡng, được phú bẩm khả năng suy tư và
ý thức. Trong thuyết này, Nhân không phải là con người cá nhân, mà là
con người nói chung, con người như một tập thể, được đại diện và thể
hiện thông qua vai trò của Hoàng Đế - Thiên Tử, độc nhất, là những niên
hiệu và quốc hiệu của các triều đại.
Thiên Tử dùng Lễ mà cai trị, người đúng Lễ là người có đức Nhân,
đức Nghĩa. Nhân, Nghĩa là những đức cơ bản. Khổng Tử không tiếc lời
14 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014
ca tụng Nhân, Nghĩa. Nhân là đầu của các điều thiện (với Thiên đạo là
Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh; với Nhân đạo là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí), chủ
cho sự sinh trời đất. Bằng Nhân, Nghĩa, hoàng đế có sự giao hòa với
Trời, và giao hòa lại là kết quả của trật tự tốt đẹp giữa tự nhiên và hành
động của con người. Nhân, Nghĩa tối cao là nền tảng và hằng xuyên trong
mọi ứng xử của hoàng đế. Đây là điều bắt buộc và ấn định tính chất tôn
giáo mạnh mẽ đối với Thiên Tử, thông qua thờ cúng tổ tiên (Lễ Cáo
Miếu), các nghi lễ theo mùa, đặc biệt quan trọng trong một quốc gia lấy
nông nghiệp làm chính. Bằng hai đức Nhân, Nghĩa này, hoàng đế trở
thành người có khả năng làm trung gian giữa Hạ giới và Thiên giới. Hai
đức đó của hoàng đế làm cho hình ảnh của ông thật sự sáng ngời trong
con mắt người dân. Do đó, hai đức này là của Trời ban theo cách huyền
diệu tự nhiên, dẫn dắt đạo đức của người dân cho hài hòa với Trời, đưa
đến nền thái bình thịnh trị. Không Tử nói: “Quân tử chi đức phong, tiểu
nhân chi đức thảo, thảo thượng chi phong tất yển” (Cái đức của người
quân tử như gió, cái đức của kẻ tiểu nhân như cỏ, gió thổi trên cỏ thì cỏ
phải lướt xuống mà theo)2.
Trị vì bằng đức Nhân, Nghĩa, hoàng đế có thể làm cho mưa thuận gió
hòa, mùa màng tươi tốt, dù dân có bất mãn cũng không nổi lên. Bằng
không, sẽ có điềm báo như hạn hán, lụt lội, mùa màng thất bát, nhân dân
lầm than. Kết cục dân không tuân phục, nổi lên phế bỏ ngai vàng. Như
thế, hoàng đế là cột trụ của tự nhiên và định mệnh của con người.
Thiên Mệnh: Giữa quan niệm Thiên - Nhân tương dữ và quan niệm
Thiên Mệnh có mối liên hệ rõ ràng. Hoàng đế, dù lên ngôi bằng chiến
tranh, bằng nhường ngôi hay truyền ngôi cũng vậy, theo Mệnh Trời, phải
có trách nhiệm cao cả là thiết lập một trật tự tốt đẹp giữa tự nhiên và con
người qua chính đạo đức của mình. Với Thiên Mệnh, hoàng đế có một
quyền lực vô biên, ở ngôi vị siêu nhiên và tôn giáo đặc biệt. Tuy nhiên,
các khuynh hướng tôn giáo trong tư tưởng Trung Hoa cũng có khía cạnh
duy lý. Thiên Mệnh không phải là thường trực, mà cũng bị mòn đi như
những đức khác của con người theo dòng thời gian. Những người kế vị
thường phải phục dựng đạo đức vốn bị xói mòn ở người trước. Trước
những dấu hiệu báo trước sự sụp ngôi, sự đấu tranh triều chính, người
thắng cuộc sẽ được báo những điềm tốt, được Trời thừa nhận, chiến
thắng của người ấy là do Trời định đoạt trước, như người Trung Hoa
thường nói. Những hiện tượng tự nhiên bất thường là dấu hiệu Trời nổi
Nguyễn Quốc Tuấn. Góp phần tìm hiểu Khổng giáo 15
giận, là sự rút lại Mệnh Trời. Đó là báo hiệu sự kết thúc của triều đại
đang trị vì, nhưng lại ban cho người sáng lập triều đại mới mở đầu cho
thời kỳ thái bình thịnh trị mới, hòa hợp với Trời. Rất nhiều lần trong lịch
sử, nhiều vị vua đã tự trách sự thiếu đức của mình, gây cho nước nhà và
người dân đau khổ, kinh sợ, và họ nghĩ là do Trời nổi giận giáng họa.
Nhưng cũng diễn ra hiện tượng các triều đại và quan lại - nho sĩ muốn
độc quyền trong việc giải thích những bất thường của trời đất theo lợi ích
riêng và trừng trị những giải thích không được phép, ghép vào tội hình.
Bởi tính tạm thời, ngược lại, Thiên Mệnh còn dẫn đến biện hộ tính
hợp pháp cho sự nổi lên của người dân chống lại triều đình sa sút đạo
đức. Mạnh Tử nói: “Tặc nhân giả, vị chi tặc, tặc nghĩa giả, vị chi tàn. Tàn
tặc chi nhân vị chi nhất phu. Văn tru nhất phu Trụ hỹ, vị văn thí quân dã”
(Người làm hại dân gọi là tặc (giặc), người làm hại nghĩa gọi là tàn,
người tàn tặc là người không ra gì. Nghe nói giết một thằng Trụ, chưa
nghe nói đó là giết vua vậy)3. Đây là lần duy nhất ở Trung Quốc có sự
biện hộ cho cuộc nổi dậy của người dân, cho đến thời Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa.
Tính tạm thời của Thiên Mệnh biện hộ cho tính hợp pháp của người
sáng lập triều đại mới kể từ nhà Hán, dù người đó có nguồn gốc quý tộc
hay không. Người nào có Thiên Mệnh, tức được Trời trao, người đó sẽ
lên ngôi hoàng đế. Người dân luôn chấp nhận quan niệm Thiên Mệnh.
Quan niệm này thể hiện nền tảng bất biến của tôn giáo nhà nước với quan
niệm Thiên - Nhân tương dữ.
Thiên, Địa, Nhân: Thiên, Hoàng Thiên Thượng Đế, trong mắt người
Trung Hoa là vị thần tối cao, liên quan đến quan niệm Thiên - Nhân
tương dữ và Thiên Mệnh. Thiên đứng đầu trong Tam Tài. Chỉ có nhà vua
mới được tế Trời. Thiên được tưởng tượng như có hình dạng của người.
Tuy nhiên, Thiên được các nho sĩ có khuynh hướng diễn tả như một lực
lượng tối cao phi nhân cách hóa. Nho sĩ không thể hiện bằng hình ảnh,
mà dùng bài vị khắc các tên gọi tôn kính của Thiên mỗi khi dâng cúng.
Song cách thể hiện trừu tượng này không hề là dấu hiệu nói lên ý thức
không coi Thiên là vị thần tối cao. Ngay với tổ tiên của nhà vua cũng
vậy. Các vị được thờ bằng những bài vị duệ hiệu và được nhìn nhận là
nơi chốn linh thiêng của âm hồn hoàng gia (rộng hơn là gia đình quan lại,
dân chúng), được xác định một cách đặc biệt. Tinh thần Trung Hoa ít dựa
vào việc định nghĩa các phạm trù và chuyên biệt. Thiên là thuật ngữ có
16 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014
thể dùng để chỉ tự nhiên cũng như thần linh trị vì tự nhiên. Khi nhấn
mạnh nghĩa này hay nghĩa kia của thuật ngữ Thiên, cần làm sao cho gần
với cách hiểu của người Trung Hoa.
Đến nhà Thanh (1644 - 1911), Thiên luôn biểu tượng cho bầu trời bao
la điều hòa vũ trụ; xác định đường đi của tinh tú, thời tiết, bốn mùa, định
mệnh con người theo một trật tự nội tại, loại trừ cách sắp xếp khác. Khi
nhà vua tế đàn Nam Giao (nằm ở phía Nam của Kinh thành), phần lễ
nhạc chính là để dâng cho Đấng Tạo Hóa, ca tụng sức mạnh thần linh của
Người. Có đến mười tám lần trong Luận Ngữ, từ Thiên được dùng để chỉ
cho ý chí, hành vi hay tình cảm. Khi môn đệ Vạn Chương hỏi Mạnh Tử
rằng, vua Thuấn có được thiên hạ là do ai? Mạnh Tử trả lời ấy là do
Thiên, Thiên không nói, song cứ nhìn hành vi và sự nghiệp thì biết đó là
do Thiên làm. Như vậy, tất cả đều do Thiên định đoạt.
Địa đứng hàng thứ hai trong Tam Tài, là chốn cưu mang và nuôi
dưỡng. Thời Cổ đại, Thổ Thần (gọi là Xã) là vị thần địa phương, hoặc là
vị thần của đất ở từng gia đình, từng họ tộc, từng làng hay một phần của
làng. Thổ Địa về sau vẫn còn như vậy, tồn tại cho đến nay. Thổ Địa trong
thời Cổ đại được sắp đặt trên dưới cho đến bậc cao nhất thờ cúng tại đô
ấp của chư hầu và Thiên Tử. Có cả Cốc Thần (gọi là Tắc) mà theo truyền
thuyết thì có Hậu Tắc (vua của loài kê, loại cây trồng chính ở phía Bắc
Trung Quốc thời Cổ đại) là vị hiền thần giúp việc nông cho vua Thuấn
(có người lại cho của vua Nghiêu).
Xã Tắc có thể gộp lại là vị thần của đất đai và mùa màng, nhưng cũng
có thể tách thành Thổ Thần và Cốc Thần. Tế Thần Xã ở các cấp khác
nhau tạo thuận lợi cho sự cố kết đất đai do bản lai của thần. Tế Thần Xã
có thể diễn ra vào năm 197 trước Công nguyên, lúc Hán Cao Tổ khai
sáng nhà Hán xuống chiếu cho các quận, phủ dâng tế bằng lễ riêng. Đầu
đời Đường Thái Tông đã lặp lại như Hán Cao Tổ, nhất định bắt dân
chúng tế Thần Xã của các làng, nhưng ông không cho các viên chức
đương nhiệm tham gia. Vì vậy, mới có việc thờ cúng của dân chúng trong
khuôn khổ của tôn giáo chính thức.
Việc phong cho các chư hầu bắt đầu bằng việc treo một hòn đất lấy ở
Đàn Xã của Thiên Tử. Đàn Xã có hình kim tự tháp cao trên nền hình
vuông. Ngược với quan niệm Trời tròn, Địa được hình dung là vuông.
Bốn mặt đàn mang màu của bốn phương: màu xanh ở phía Đông, màu đỏ
ở phía Nam, màu trắng ở phía Tây và màu đen ở phía Bắc. Hòn đất
Nguyễn Quốc Tuấn. Góp phần tìm hiểu Khổng giáo 17
phong cho chư hầu mới có màu tương ứng với vị trí của nước đó so với
kinh đô nhà Chu. Hòn đất ấy thường được cho nhập vào với Đàn Xã của
mỗi vua chư hầu. Nhà Hán vẫn giữ lệ này đối với họ hàng thân thuộc và
các công thần. Tập quán này kéo đến thế kỷ VII.
Năm 113 trước Công nguyên, Hán Vũ Đế, người có vai trò ra lệnh đầu
tiên, cũng là vị hoàng đế đầu tiên cảm nhận được giá trị to lớn của Khổng
giáo đối với quyền lực triều đình, đã quyết định thể chế hóa tế Hậu Thổ
(vua của đất đai). Từ nhà Chu đến thời của Hán Vũ Đế, các nghi lễ thờ
cúng đất, dù nằm trong khuôn khổ của công xã nông thôn nhỏ hay diễn ra
ở triều đình của các vua chư hầu, dường như là dâng cho Thần Xã nam
giới, cho thấy quan hệ phụ thuộc của người đàn ông gia trưởng với đất
đai. Từ Hán Vũ Đế trở đi, Thần Đất đã mang yếu tố nữ (âm) để đối với
Trời mang yếu tố nam (dương). Hán Vũ Đế cương quyết theo cách phân
chia Âm Dương - Đất Trời kiểu này.
Năm 31 trước Công nguyên, theo chỉ dụ, đàn thờ thần Thổ Địa được
thiết lập ở phía Bắc của Hoàng thành. Từ đời Thanh, đàn thờ bắt đầu có
mái che, nằm ở phía Bắc, ngoài thành Bắc Kinh. Đàn Nam Giao tế Trời
nằm ở phía Nam, giống như sự đối xứng âm dương. Đất và Trời ở trong
trường hợp này thể hiện rõ sự đối nhau trong định vị. Thờ Thổ Thần gắn
rất chặt với thờ tổ tiên. Các sản phẩm đầu mùa ở ruộng vườn của gia đình
thường được dâng cúng tổ tiên, là thế lực được coi sẽ bảo đảm cho phong
đăng hòa cốc, chống được thiên tai. Đấy là một trong những lý do mà đền
thần Hậu Thổ và Thái Miếu cùng có mặt trong Cấm Thành ở Bắc Kinh
(đối mặt với nhau). Điều đó chỉ ra mối phụ thuộc chặt chẽ giữa hai loại
thờ cúng này và nhắc lại nguồn gốc chung của chúng trong thời tiền sử
của xã hội nông nghiệp Trung Hoa. Gắn với thờ đất là thờ Thần Nông, vị
thần chuyên việc nông tang của con người.
Nhân đứng hàng thứ ba trong Tam Tài, như đã trình bày, không phải là
con người cụ thể. Con người cá nhân không tồn tại trong tôn giáo chính
thức, chỉ có con người tập thể mà thôi, con người ấy là toàn thể, trừu
tượng, thể hiện ra bằng chính con người của vị hoàng đế. Ngoài hoàng đế,
còn có những người được đại diện không phải bởi nguồn gốc gia đình, mà
bằng sự khôn ngoan, tri thức và thái độ của họ. Những người này cũng
tham dự quyền lực thiêng, điều làm cho họ đứng trên xã hội. Đấy là tập
đoàn quan lại - Nho sĩ. Tập đoàn này làm thành cái mà kinh sách gọi là
Dân, theo cách giải thích của Nho sĩ. Lớp Dân này nhỏ bé so với toàn bộ
18 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014
quần chúng (ngôn từ cũ gọi là Chúng, tức quảng đại xã hội) trong đế chế,
lớp Dân này thống trị toàn bộ bộ máy triều đình. Song cũng chính lớp Dân
này có cả quyền đạo đức để nổi dậy, hay ít nhất, dựa vào cuộc nổi dậy, một
cách ít nhiều bí mật để chống lại hôn quân, kẻ đánh mất Đức của vị tiên đế
khai/ tiền triều. Đám Chúng khổng lồ không có một phần nào tham gia vào
bộ máy nhà nước và tôn giáo chính thức. Các nghi lễ do hoàng đế hoặc
khâm sai đại thần thực hiện. Đám Chúng chỉ là những người tham gia một
cách bị động vào nghi lễ vốn có mục đích đạt được từ sức mạnh siêu nhiên
nền thái bình thịnh trị, phong đăng hòa cốc.
Một số quan niệm khác: Ngoài hai nguyên lý cơ bản của tôn giáo
chính thức là Thiên - Nhân tương dữ và Thiên Mệnh, còn có một số quan
niệm là thành phần.
Đạo (nghĩa đen là con đường) có một tầm quan trọng thật sự trong
toàn bộ tư tưởng tôn giáo và triết học của người Trung Hoa. Đầu tiên,
Đạo có thể dùng để chỉ đường đi của Mặt Trời, Mặt Trăng và tinh tú
được người nguyên thủy quan sát và định ra. Nói như H. Maspéro, Đạo
có thể được coi là “hiện hữu siêu nhiên tối thượng”, là tuyệt đối, có trước
cả vĩnh viễn, nguyên ủy tồn tại của mọi hình thức. Đạo là nguyên lý đầu
tiên của vạn vật, huyền bí và vô cực, không thể gọi tên. Những tư tưởng
này vừa thể hiện một tầng nền của ý thức Trung Hoa và được trình bày
đầu tiên bởi các đạo sĩ, đã có một ảnh hưởng sâu sắc đến Khổng giáo.
Trong đó, Đạo trở thành chuyển động của vũ trụ và sáng tạo. Khác với
trình bày của Lão Tử về Thiện, Ác thuộc thế giới trên cao, Khổng Tử và
môn đồ lại gắn Đạo trước hết với một giá trị đạo đức. Với tư cách là Đạo
của nhân quần (Nhân Đạo), thể hiện ra như là con đường mà hoàng đế và
triều đình cần dẫn dắt dân chúng đi đến sự hòa hợp với Đạo của trời đất
đã thiết lập. Đạo là tinh chất và toàn thể đối với trật tự vũ trụ (Thiên Đế
Đạo). Trật tự của quốc gia phải hài hòa với trật tự của vũ trụ. Xuất hiện
như tư chất là Đạo của Đức (thường ghép là Đạo Đức), cũng có nghĩa
Đạo thể hiện ngay trong thực tế trần gian. Đức là cái biểu hiện của Đạo,
nhưng được tượng trưng bằng các hành vi của hoàng đế, người thực hiện
Đạo với tư cách con người toàn thể. Các hành vi đó được xác định và
định hướng bằng các nghi lễ mà thiếu chúng thì sự hòa hợp với Đạo
không thể thực hiện được.
Đạo, nguyên lý tự nó, có trước sự tồn tại của mọi vật, của Thiên, Địa,
là tổng số của yếu tố vũ trụ hay hai thể Âm và Dương, mà thể này kế tiếp
Nguyễn Quốc Tuấn. Góp phần tìm hiểu Khổng giáo 19
thể kia trong một chuyển dịch vô cùng vô tận, không bao giờ lẫn lộn. Cứ
kế một Âm rồi lại một Dương, đó là Đạo (nhất âm nhất dương chi vị
đạo). Âm là cái, tối, lạnh, co rút, mềm, nghỉ ngơi, cũng là tiêu cực.
Dương là đực, sáng, nóng, giãn nở, khôn khéo, cứng, hoạt năng, cũng là
tích cực. Đất là Âm, Trời là Dương. Nguyên thủy, Âm được dùng theo
nghĩa chỉ sườn núi che phủ râm mát, Dương để chỉ sườn núi được Mặt
Trời chiếu sáng. Cũng như quan niệm về Đạo, chắc chắn sự quan sát của
nông dân Trung Quốc thời Cổ đại là nguồn gốc hình thành hai quan niệm
Âm và Dương.
Mỗi yếu tố tư tưởng, đạo đức, thiên nhiên và con người, mỗi thể mỗi
vật đều dựa vào sự tồn tại song song vĩnh cửu của Âm và Dương. Người
con trai dựa vào cha mình là Âm, người cha có đạo đức cao hơn là
Dương, chẳng hạn như vậy. Cố nhiên, người con trai đó chỉ là Âm đối
với cha mình. Cũng vậy, hoàng đế là Dương, chủ tể thiên hạ, song lại là
Âm đối với tiên đế và Trời.
Sự luân phiên Âm, Dương ở chỗ Âm không tăng tiến, tạo thành chuyển
động chu kỳ bốn mùa và thời nông tang. Từ tiết Đông Chí, Dương bắt đầu
lên để giảm dần vào tiết Hạ Chí, Âm ngày càng dâng cho đến kết thúc, lúc
các việc đồng áng ngừng hẳn, đất được nghỉ ngơi bởi những cấm kị. Mùa
nông nhàn là mùa của công việc phụ nữ, dệt vải,... ở trong nhà. Lúc này,
việc tang lễ, cưới hỏi bị cấm. Mùa Xuân và mùa Hạ là Dương, thời của con
người yêu thương và đính hôn, thời lúa màu nảy mầm và sinh sản cho đến
khi gặt hái, cũng là thời tham dự chiến trận theo binh thư. Mùa Thu và mùa
Đông là Âm. Mùa Thu, theo điển lễ cổ, Thiên Tử để quân lính chỉnh trang
vũ khí chống nổi loạn, cũng là mùa xét xử tội nhân. Trong các phiên xét xử
án trọng tội thường diễn ra trước tiết Đông Chí, hoàng đế thường mặc áo
tang, tọa vị giữa các đại thần trong triều, duyệt đọc các bản án của kẻ mắc
trọng tội, rồi nghị xét giữ nguyên án hay giảm án để các hình quan ghi
chép và xác định lần cuối thời hạn thi hành án.
Dù quan niệm Âm, Dương có nguồn gốc hay thời đại thế nào chăng
nữa thì từ thế kỷ V trước Công nguyên, mọi học phái đều chấp nhận. Đến
nay, quan niệm này vẫn là đại diện của các phạm trù cơ bản của tư tưởng
triết học và tôn giáo Trung Hoa.
Nếu thuyết Âm - Dương và Đạo nhắm đến giải thích chuyển động vũ
trụ thì thuyết Ngũ Hành, dẫn đến Ngũ Đức, giải thích tính động của vũ
trụ một cách phong phú chi tiết hơn. Hành nguyên nghĩa là bước chân đi,
20 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014
hay bước luân phiên bằng hai chân. Do vậy, Ngũ Hành có thể diễn tả như
là năm bước tuần tự lên trước, tượng trưng cho chu kỳ vĩnh hằng đến và
về qua năm thời. Các Hành tự tàn không ngừng, kế tiếp lần lượt trong
một chu kỳ không có điểm dừng.
Ngũ Hành đã thấy có trong thiên “Hồng phạm” của Kinh Thư. Ngũ
Hành gồm Mộc (gỗ), Hỏa (lửa), Thổ (đất), Kim (kim loại), Thủy (nước).
Chúng tương sinh theo theo thứ tự vừa nêu. Ngũ Hành ứng trong không
gian, thời gian như sau: Mộc là phía Đông và mùa Xuân, Hỏa là phía
Nam và mùa Hạ, Thổ nằm giữa và là trung tâm của không gian - thời
gian, Kim là phía Tây và mùa Thu, Thủy là phía Bắc và mùa Đông. Đấy
cũng là thứ tự của thời gian. Ngũ Hành còn được gắn với Ngũ Sắc gồm
xanh, đỏ, vàng, trắng, đen; Ngũ Âm trong âm nhạc; Ngũ Thường (vua
tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè) trong xã hội; Ngũ Đức (Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín); Ngũ Lễ tại gia, v.v... Các sự vật gắn với con số năm
còn được liệt kê nhiều hơn. Cuối cùng trong số đó còn phải kể đến Ngũ
Đế trị vì trên Thiên Giới.
Nếu thể hiện Ngũ Hành thành chữ thập thì ở điểm giao giữa là Thổ và
bốn điểm cực của hướng là bốn phương trời. Nếu lại chia tiếp điểm giữa
của bốn phương, chúng ta có một biểu đồ hướng gió và tám cực, cùng với
tâm, thành chín. Các con số 1, 2, 5 và 9 là những con số đặc biệt để chỉ
tuần hoàn số học và đo đạc của Trung Hoa thời Cổ đại. Chúng là những
con số thiêng. Trâu Diễn còn áp dụng Ngũ Hành vào lịch sử từ thuở vũ trụ
hỗn mang, trời đất chưa tách nhau cho đến thời đại mình và các thời đại
tương lai. Bằng hệ thống đó, ông nghĩ rằng, có thể hiểu được các thay đổi
trong lịch sử, mở đầu và kết thúc một triều đại. Dấu hiệu của Trời tương
ứng với Ngũ Đức của mỗi triều. Thời cai trị của Hoàng Đế (một vị vua
thần thoại) thuộc hành Thổ vì đã có điềm ứng xuất hiện vố số đất ở mọi
hướng và dế dũi báo hiệu hành Thổ đang lên. Nhà Hạ thuộc hành Mộc, nhà
Ân - Thương thuộc hành Kim, nhà Chu thuộc hành Hỏa. Tần Thủy Hoàng
thuộc hành Thủy. Tuy nhiên, Ngũ Hành có tương sinh thì cũng có tương
khắc: Mộc khắc Kim, Kim khắc Hỏa, Hỏa khắc Thủy, Thủy khắc Thổ, Thổ
khắc Mộc, có sinh song có chế ngự, Kinh Thư đã nói như vậy.
Ngũ Hành cũng như Âm, Dương, là những thành tố hội nhập và
thường xuyên trong sự phản ánh tôn giáo của người Trung Hoa.
Bậc hiền nhân có lòng tin không lay chuyển vào Thiên và Mệnh.
Nhiều đoạn trong kinh sách Khổng giáo chứng thực điều đó. Một hôm
Nguyễn Quốc Tuấn. Góp phần tìm hiểu Khổng giáo 21
Khổng Tử cùng học trò tập lễ ở dưới một gốc cây thuộc nước Tống chư
hầu, quan Tư mã nước Tống là Hoàn Đôi muốn hại Không Tử, sai người
chặt cây. Học trò sợ cho Khổng Tử. Khổng Tử nói: “Trời sinh đức cho ta,
Hoàn Đôi có thể làm gì ta”. Khổng Tử gặp nguy ở đất Khuông, nói rằng:
“Nếu Trời muốn thuyết (của các thánh vương) mất đi, làm sao ta có thể
biết sau Văn Vương mất đi? Vì Trời chưa muốn mất, vậy người Khuông
có thể làm gì được ta”. Có thể tìm thấy nhiều đoạn nữa trong kinh sách
Khổng giáo thể hiện ý niệm cơ bản của tôn giáo về sự phụ thuộc của con
người đối với lực lượng siêu phàm định trước định mệnh của con người
ấy, cũng có nghĩa nếu gặp điều xấu thì khó gỡ khỏi những tai họa giáng
xuống, lực lượng siêu phàm tiên định thành công hay thất bại. Cảm ý về
Thiên Mệnh và Định Mệnh luôn có trong Khổng giáo. Ngay cả với
những người hoài nghi thần linh, thì Thiên Mệnh và Định Mệnh được
Trời xác định vẫn được dùng để giải thích các sự kiện lịch sử và đời sống
con người.
Như đã nói, Kinh Dịch được cả Đạo giáo lẫn Khổng giáo đánh giá rất
cao. Ngay Khổng Tử cũng tự thán mình có quá ít thời gian chuyên chú
Kinh Dịch, ước mong Trời cho thêm vài năm để hiểu hết cuốn kinh này.
Kinh Dịch đứng đầu trong Ngũ Kinh, Tứ Thư của Khổng giáo.
Từ thời nhà Chu, một mặt Kinh Dịch như là một loại sách chuyên về
lý luận siêu hình, mặt khác lại là cẩm nang về bói tướng số. Về cơ bản,
hai mặt đó không những không mâu thuẫn với nhau, mà còn bổ sung cho
nhau. Kinh Dịch gồm trong đó cách giải thích của tám quẻ đơn hay quẻ
ba vạch, tức lấy các vạch liền hay vạch đứt lập thành các Hào (Bát Quái),
tức Tiên Thiên Bát Quái, hay như sách Chu Lễ gọi là Kinh Quái, và sáu
mươi tư quẻ kép (gồm hai quẻ đơn chồng lên nhau). Quẻ đơn và quẻ kép
thể hiện vũ trụ và tất cả những gì tồn tại. Chu Hy, trong lời bàn về Dịch
từng nói: “Thái cực (một tên khác của Đạo) sinh Lưỡng Nghi; Lưỡng
Nghi sinh Tứ Tượng; Tứ Tượng sinh Bát Quái; Bát Quái sinh thiện ác,
cát hung”. Bát Quái vì vậy là hình của vũ trụ và định mệnh của con
người, thể hiện việc cát hung (lành dữ, tốt xấu). Bát Quái không chỉ thể
hiện thực tế dưới dạng quẻ, mà còn là thực tại theo quan điểm của người
Trung Hoa.
Bát Quái, thực tại của mọi hiện tồn, sinh từ Vô Cực (trạng thái vô hạn)
là các vạch ngang, mà mỗi quẻ gồm ba vạch liền hoặc ba vạch đứt. Vạch
liền là Dương, vạch đứt là Âm. Các vạch nói lên sự thay đổi giữa tiến và
22 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014
thoái, giữa nở và co ở mức độ chuyển dịch thấp một cách trừu tượng lên
mức độ cao hơn của vũ trụ, vạn vật. Bắt đầu của Bát Quái là quẻ Kiền,
rồi quẻ Khôn, quẻ Chấn, quẻ Tốn, quẻ Khảm, quẻ Ly, quẻ Cấn, quẻ Đoài.
Nếu đem các quẻ đơn chồng lên nhau thì có sáu mươi tư quẻ kép. Tám
quẻ đơn và sáu mươi tư quẻ kép được xem là do Phục Hy, một vị vua
thần thoại, bắt chước vằn lưng con long mã hiện ra ở Sông Hà để chế ra.
Về sau, vua Văn Vương nhà Chu nhân đó mà làm thành Kinh Dịch4.
Cũng như Âm, Dương và Ngũ Hành, các quẻ thể hiện ý muốn hệ
thống hóa tư tưởng về thế giới siêu nhân và định mệnh con người do
Thiên Mệnh xác quyết. Giống như lời chỉ giáo của thần linh và Trời, các
quẻ này được dùng như những sự kiện ngẫu nhiên để quyết định hành
động sao cho phù hợp với Mệnh Trời. Nội dung 21 bộ chính sử của
Trung Quốc cung cấp nhiều ví dụ dùng các quẻ để xem xét chính sự.
Các lời sấm vĩ được lưu truyền thường biểu hiện thành các quẻ. Điềm
triệu cũng vậy. Dự đoán trước sự kiện và các dấu hiệu báo cho biết trời đất
muốn gì luôn được bộ máy nhà nước quân chủ Trung Hoa chú ý. Kinh
sách Khổng giáo cũng đề cập đến sự kết thúc triều đại cũ bằng một triều
đại mới qua những điềm triệu được giải mã là vui hay buồn, tốt hay xấu.
Những gì vừa trình bày, tuy chưa toàn diện, song có thể thấy phần nào
những quan niệm và ý niệm của tôn giáo chính thức đã có một ảnh hưởng
lâu dài, cho đến tận ngày nay.
4. Lễ nghi
Toàn bộ hành vi tôn giáo, trong đó hoàng đế bắt buộc phải như một
trung gian giữa Thiên và Nhân, Thiên Mệnh, thờ cúng tổ tiên, tế lễ, điềm
triệu sẫm vĩ, đều được cột chặt vào lễ nghi.
Lễ nghi toát ra từ Đạo và ở dưới dạng của Lễ thì nó là Đạo Đức, được
thực hiện trong thế giới con người. Thực hiện Lễ chu đáo là cần thiết để
hài hòa với Trời. Cần hiểu chữ Lễ ở đây gồm Đức Lễ, các tế tự, tức hành
vi thờ cúng cụ thể. Lễ nghi xuất hiện từ thời thượng cổ của Trung Quốc
và được coi là phẩm chất quan trọng của thánh nhân. Lễ và nghi thức
nhắm vào việc chuẩn mực hóa tất cả các phương diện và thái độ trong đời
sống chung cũng như riêng của người quý tộc và người quân tử. Lễ là
một đức lớn, đối lập với hình luật là loại chỉ dành cho đám Chúng, loại
người bị xem như không biết đến Lễ (Lễ không xuống đến thứ dân).
Trong trường hợp đó, Lễ đã được thiêng hóa và là đặc quyền của giới
Nguyễn Quốc Tuấn. Góp phần tìm hiểu Khổng giáo 23
thượng lưu của xã hội. Sau này, nhiều cuộc tranh luận giữa các nho sĩ về
lễ nghi, đặc biệt là phần liên quan đến trời đất, tổ tiên.
Sự thật thì lễ nghi, nếu đúng như trên, không tạo những tình cảm xuất
thần như khi hành lễ trong Đạo giáo, Phật giáo và tôn giáo dân chúng. Lễ
nghi không thừa nhận sự gắn bó tinh thần đối với các thực thể siêu nhiên.
Khổng Tử nói: “Vụ dân chi nghĩa. Kính quỷ thần nhi viễn chi” (Chăm
cho cái nghĩa của dân. Kính quỷ thần nhưng kính từ xa), tức là cần tôn
kính quỷ thần, song không tìm đến sự hợp nhất huyền bí với quỷ thần.
Kinh Thư cũng có một sự lưu ý như vậy khi cho rằng, sau khi vua Thuấn
sai Tượng Thần và Lôi Thần chặt đứt đường lên Trời thì thần linh ngừng
đi lại và không còn ở mặt đất nữa. Từ đó, Thiên Giới và Hạ Giới có ranh
giới rõ ràng. Sự ghê sợ chung lộn giữa hai thế giới trong kinh sách Khổng
giáo cũng giống như sự ghê sợ giữa cuộc lễ có đàn bà tham dự vậy.
Có người nói rằng, tôn giáo chính thức chỉ là chủ nghĩa lễ nghi hình
thức mà không phải là tinh thần thực sự tôn giáo. Không phải không có
hình thức chủ nghĩa trong lễ nghĩa Khổng giáo, nhưng nếu như vậy thì
nguy cơ đó là của mọi khuynh hướng tôn giáo. Nhìn thật kỹ, lễ nghi
Khổng giáo không loại trừ tình cảm sùng kính thực sự. Điều này thể hiện
rất rõ trong sự thờ cúng tổ tiên.
Tóm lại, giáo huấn của Khổng Tử, môn đệ và danh nho tạo thành cái
mà chúng ta gọi là tôn giáo chính thức hay tôn giáo nhà nước có hạt nhân
trung tâm là Thiên tối cao tuyệt đối và nguyên lý đạo đức hằng thường
của mối quan hệ Thiên - Nhân. Đó có thể xem như là một sự quay lại với
tín điều của thời thượng cổ, một dạng của chủ nghĩa phản kháng với sự
tha hóa của hiện thực xã hội, do đó cũng có thể dùng thuật ngữ tin lành/
tin mừng, thuật ngữ được dùng như một phạm trù lịch sử phổ quát của
các tôn giáo (trong đó Tin Lành giáo/ Protestantism phát triển từ thế kỷ
XVI ở Châu Âu chỉ là một trường hợp đặc biệt) để nói về tôn giáo chính
thức hay Khổng giáo.
Khổng giáo có cách phản ánh duy lý vào thời Khổng Tử thì về sau lại
là một thứ bất khả tri luận thuần khiết và đơn giản. Sau nhiều lần so sánh
các bản Luận Ngữ còn lại, có từ thế kỷ II trước Công nguyên đến năm
1917, nhiều học giả nước ngoài đã định ra rằng, các chú giải kinh nghĩa
theo lối bất khả tri luận chỉ có từ thời nhà Tống, tức phải hơn một nghìn
năm sau khi Khổng Tử mất. Bất khả tri luận không tồn tại trong học
thuyết chính thống của Khổng Tử.
24 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014
Dưới đây xin điểm một số loại lễ nghi chính trong hệ thống lễ thức
của Khổng giáo.
Cúng tế của hoàng đế và triều đình: Theo quan niệm của người
Trung Hoa, hoàng đế là trung tâm của thế giới con người, do sao cực tinh
chiếu mà theo Khổng giáo thì sao ấy bất động trong khi các sao khác
chuyển động quanh nó. Thể hiện như người trung gian giữa Thiên và
Nhân trong trật tự vũ trụ, hoàng đế chịu trách nhiệm tế cáo trời đất, thần
linh ở Thượng Giới. Tư cách đó hoàn toàn hòa nhập với vai trò chính trị
của ông. Có một sự thực là các triều đại Trung Quốc không phân biệt cơ
bản giữa tư tưởng triết học và cái mà chúng ta gọi là thần học, không có
sự khác biệt giữa mặt nào đó là tôn giáo và mặt kia là hiện thực do lợi ích
nhà nước áp đặt.
Vì vậy, các hành vi tôn giáo quan trọng nhất như lễ tế Thiên, Địa, Xã
Tắc sau kỳ Đông Chí dành cho hoàng đế. Vì vậy, ông ta có quyền thành
lập và ban bố lịch, có quyền phong tặng thần linh như một đấng chủ tể tối
cao. Sau đây là một số nghi lễ chính.
Tế Đông Chí: Ngày Đông Chí được coi là ngày khí Dương bắt đầu lên
lại và báo hiệu cho mùa Xuân. Hoàng đế tế Hạo Thiên Thượng Đế bằng
lễ nghi cực lớn. Tế này còn gọi là Tế Giao. Tế Giao được ghi trong Lễ Ký
và Trung Dung như một sự tiếp nối của tôn giáo Trung Quốc thời Cổ đại.
Tế này kéo dài suốt thời kỳ quân chủ Trung Quốc cho đến thời kỳ Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa.
Tế ngày Đông Chí là Tế Giao, cũng là Tế Nam Giao, bởi lễ lớn này
được tiến hành tại phía Nam của Bắc Kinh (ở đây chỉ nói đến các thời
Minh và Thanh). Phương Nam là phương của khí Dương. Khu đất lập đàn
tế là khu đất thiêng, nằm ở góc của vòng Thành Ngoại và cạnh phía Đông
của đường thiên lý Bắc Nam, con đường chia Kinh thành làm hai nửa.
Mặt bằng của khu đất hình chữ nhật được bao tường, chu vi khoảng
chừng sáu đến bảy cây số. Cạnh phía Bắc của khu đất có hình vòng cung
nhẹ. Trong khuôn viên bao tường đó, các loại cây như bách, tùng, thông,
các loại cây rừng, bãi cỏ chăn các vật hiến sinh tế lễ chiếm hầu hết diện
tích cho đến sát tận đàn Viên Khâu (nghĩa đen là gò đất tròn), phần chủ
yếu của Nam Giao. Nhìn toàn thể, đàn Nam Giao gồm các kiến trúc nằm
thẳng hàng từ Nam đến Bắc theo thứ tự đàn Viên Khâu, Trai Cung, là nơi
thường xuyên đặt bài vị thờ Trời ở đây, cuối cùng là Thiên Miếu, kiến
trúc chuyên dùng cầu đảo.
Nguyễn Quốc Tuấn. Góp phần tìm hiểu Khổng giáo 25
Đàn Viên Khâu hình tròn bởi quan niệm Trời tròn, cao bốn mét, chia
làm ba tầng ốp đá cẩm thạch theo kiểu xếp chồng viên giật cấp. Tầng
dưới cùng có đường kính khoảng bảy mươi mét, còn tầng trên cùng có
đường kính khoảng ba mươi mét. Toàn bộ ba tầng này tọa lạc trên một
mặt đế hình vuông, hình tượng trưng cho Đất.
Hoàng đế và các đại thần dự tế phải trai giới. Các đại thần chỉ làm
việc khi có việc khẩn cấp, không được nghe nhạc, không gần đàn bà,
không thăm viếng đám tang. Nếu gia đình có tang, họ không được dự tế,
dù đã trai giới. Buổi sáng trước ngày tế, hoàng đế ngồi kiệu rồng do ba
mươi sáu người khiêng đi từ Cấm Cung đến Nam Giao. Xung quanh kiệu
là đội ngự giá ăn mặc lộng lẫy vừa ngồi ngựa vừa đi bộ, tiếp đó là đội nhã
nhạc gồm ca vũ và nhạc thiều với trang phục mã công, cùng với các thầy
pháp vừa đi vừa làm động tác xua đuổi tà ma dọc đường đi. Họ đi trước
mười hai con voi. Còn các hoàng tử, quan lại Lục Bộ, đại thần quỳ làm
hàng rào. Sau khi kiểm tra việc chuẩn bị tế, hoàng đế lui về Trai Cung.
Đêm hôm ấy, đến khắc thứ bảy của canh năm, trước khi Mặt Trời mọc,
hoàng đế ra đàn Viên Khâu.
Trước đó, các quan đặt trên tầng cao nhất của đàn Viên Khâu bài vị
của Hạo Thiên Thượng Đế, mặt bài vị quay về hướng Nam, hướng hoàn
toàn Dương, bên trái và bên phải (hàng Chiêu, hàng Mục) bài vị Thiên là
bài vị các tiên đế, tiên hậu để tổ tiên chứng giám và bảo đảm cho lời khấn
lọt đến Trời. Ở tầng giữa, đặt bài vị của Nhật Tinh (thần Mặt Trời), tinh
tú ở phía Đông, bài vị Nguyệt Tinh (thần Mặt Trăng), các bài vị của thần
Vân, Vũ, Phong, Điện (mây, mưa, gió, sấm) ở phía Tây. Ý nghĩa của bài
vị ở chỗ khắc tên và thụy hiệu của thần hay người quá cố tức là nơi ngự
của thần và âm hồn. Cũng có nghĩa bài vị đó “đang sống”.
Hoàng đế mặc áo cổn, đi từ dưới lên, lần lượt đủ ba tầng đàn. Trong
khi đó, vị bồi tế châm lửa đốt củi, theo lệnh xướng của các quan bồi tế.
Hoàng đế dâng hương trước bài vị chính, bài vị phụ bằng các động tác
quỳ lạy theo hiệu xướng. Đấy có nghĩa là lời mờiThượng Đế, âm hồn tổ
tiên, thần linh phối hưởng. Nhạc thiều cử hành tụng ca cùng lúc với
hoàng đế khấn vái. Đây là những bài nhã nhạc do Bộ Lễ soạn chuyên
dùng cho tế tự. Lời văn tế viết bằng mực đỏ trên giấy xanh da trời, giọng
xướng ngân nga cao vang, hoàng đế quỳ để nghe. Cỗ Thái Lao cùng
nhiều món khác, rượu tế được đặt trước bài vị Thượng Đế và tổ tiên.
Rượu và thịt giờ đây đã trở thành thiêng và mang sức mạnh của thần.
26 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014
Sau cùng, giống như lúc khấn mời, kết thúc cuộc tế, hoàng đế khấn
tiễn các vị thần linh trở về. Các vật hiến sinh, sớ tấu, lụa và đồ tế
được thiêu.
Tế Nam Giao là loại tế cao nhất và ấn tượng nhất của tôn giáo chính
thức. Toàn bộ điển lễ, người tế, nghi thức bao giờ cũng là cao nhất.
Tế Hạ Chí: Ngày Hạ Chí tế thần Hậu Thổ, lúc đó Âm bắt đầu lên. Tế
này còn gọi là Tế Bắc Giao, bởi nó diễn ra ở phía Bắc của Kinh thành,
phía Bắc là phía hoàn toàn Âm. Khu đất làm đàn Hậu Thổ được bao
tường hình chữ nhật gần vuông với chu vi khoảng hơn hai cây số. Một gò
đất cao dựng trên nền vuông vì đất được quan niệm như hình vuông, do
đó có tên gọi là đàn Phương Trạch. Trên đàn đặt bài vị thần Hậu Thổ,
Sơn Thần là những núi linh thiêng, Hà Bá, Long Vương là những vị thần
đứng sau thần Hậu Thổ. Ngoài ra còn có thêm bài vị các thần nơi có lăng
tẩm của tiên đế, dù các vị thần này không được điển lễ kê tên, để một mặt
chứng minh mối quan hệ hiện tại giữa thần Hậu Thổ và các vị thần khác,
giữa thần Hậu Thổ với tổ tiên. Theo nghĩa đó, tổ tiên luôn được coi là
người tạo ra màu mỡ của đất đai ở mọi nơi.
Chi tiết của Tế Bắc Giao tương tự như Tế Nam Giao. Tế Bắc Giao chỉ
khác Tế Nam Giao ở chỗ, toàn bộ vật tế không bị thiêu, mà được đem
chôn vào một hố với ý nghĩa đồ tế được dâng cho thần một cách trực tiếp.
Tuy nhiên, ngay trong Cấm thành cũng lập một đền thờ thần Hậu Thổ,
ngay trước mặt nhà Thái Miếu (thờ linh vị các tiên đế, tiên hậu).
Lễ Tịch Điền: Gần với khu đàn Nam Giao, nhưng là ở phía Tây của
đường chính đạo hướng Bắc Nam của Kinh thành, là nơi thờ Thần Nông,
cũng gọi là thần Tiên Nông (vị thần sáng tạo ra nghề nông). Theo thần
thoại Trung Hoa thời Cổ đại, vị thần này đứng hàng thứ hai trong Tam
Hoàng (Phục Hy, Thần Nông, Chuyên Húc). Tam Hoàng là các vị thần
thuở khai thiên lập địa, mở đầu cho lịch sử thần thoại. Thần Nông đã
sáng chế ra cái cày và dạy dân nghề nông, do vậy vị thần này có quan hệ
rất thân thuộc với Thần Xã, Thần Tắc.
Nơi thờ Thần Nông nhỏ hơn khu đàn Viên Khâu, được bao bằng
tường có chu vi trên bốn cây số. Chọn ngày tốt đầu mùa Xuân, thường
sau mùng một tết âm lịch, vào ngày mùng năm đến mười tám tháng
Giêng, hoàng đế tế Tiên Nông, sau lễ Cáo Miếu tổ tiên. Ông bắt đầu một
mùa vụ bằng nghi lễ cổ là cày ruộng Tịch Điền gồm vài đường cày do hai
Nguyễn Quốc Tuấn. Góp phần tìm hiểu Khổng giáo 27
bò kéo. Ba đường cày tiến lại ba đường cày lui trên ruộng tịch điền. Ba
hoàng tử con đầu, quan Lục Bộ và các đại thần cùng theo sau hoàng đế
trong tiếng nhã nhạc nổi lên. Sau khi hoàng đế cày xong đến lượt các
hoàng tử cày mỗi người ba đường, quan đại thần mỗi người cày một
đường. Cuối cùng là các nô bộc cày hết ruộng tịch điền. Tiếp đó, các viên
quan gieo kê ở ruộng mới cày. Các loại ngũ cốc mọc trên tịch điền sau
khi thu hoạch sẽ được dâng cúng ở Thái Miếu.
Tế Phong và Tế Sơn: Dù đã tế Đông Chí, tế Hạ Chí huy hoàng rực rỡ,
Tế Phong (gió nhưng tượng trưng cho Trời), Tế Sơn (núi) vẫn có thể được
tiến hành trong tôn giáo chính thức. Tư Mã Thiên đã dành hẳn một chương
trong Sử Ký, và các sách khác nữa, để mô tả Tế Phong và Tế Sơn.
Dù được gán cho thời thượng cổ, song tế này chỉ thực sự xuất hiện
vào thời nhà Hán. Tế Phong và Tế Sơn rất ít được thực hiện. Lần thứ
nhất, Hán Vũ Đế tiến hành vào năm 110 trước Công nguyên và lặp lại
bốn lần nữa cho đến năm 93 trước Công nguyên. Một thế kỷ rưỡi sau,
vào năm 56 sau Công nguyên, Hán Quang Vũ thời Hậu Hán cử hành một
lần. Đến năm 666, tức hơn sáu thế kỷ, Đường Cao Tông cử hành một lần,
năm 725, Đường Hoàng Tông lặp lại. Lần cuối cùng Tế Phong và Tế Sơn
là dưới triều Tống Thần Tông, năm 1008.
Tế Phong và Tế Sơn phải do đích thân hoàng đế tiến hành lần lượt. Tế
Phong tại đàn thờ trên đỉnh núi Thái Sơn, Tế Sơn ở đàn thờ hình lục giác5
nằm trên đồi ngay dưới chân núi Thái Sơn.
Núi Thái Sơn (cao 1.545m) nằm giữa tỉnh Sơn Đông hiện nay. Với
người Trung Hoa, núi này là núi thiêng ở phía Đông đất nước, là phía
Mặt Trời mọc và được coi là nơi bắt đầu lên của khí dương. Tế Phong và
Tế Sơn nhằm kính cáo trời đất về nền thái bình thịnh trị của đất nước,
thực hiện mệnh Trời ban. Do vậy, Tế Phong và Tế Sơn chỉ cử hành vào
lúc đất nước phồn thịnh mà thôi. Năm 595, Tùy Văn Đế đã định tế,
nhưng vào lúc đó xảy ra hạn hán, nên phải hủy bỏ Tế Sơn. Tùy Văn Đế
định Tế Phong ở chân núi và bị hậu nho chê là mất đức.
Lễ Tiến Lịch: Điển lễ quy định bắt buộc hoàng đế lập và ban bố lịch
biểu hằng năm. Mỗi năm, hoàng đế lập ra một hội đồng các quan ở Khâm
Thiên Giám trong triều để thực hiện phận sự. Sự chuyển động của trời
đất, bốn mùa, sự màu mỡ của đất đai, sự sinh sôi của vật nuôi, của con
người được cư dân nông nghiệp Trung Hoa thời Cổ đại ghi nhận và tôn
28 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014
thờ. Vì vậy, quan niệm Thiên - Địa - Nhân tương dữ và chuyển dịch hằng
năm mang một tính chất thần linh.
Tương truyền, Hoàng Đế, một trong Ngũ Đế, trở thành bất tử bởi là
người lập ra lịch biểu hoàn thiện đầu tiên. Theo Kinh Thư, vua Nghiêu đã
ban lệnh tính kỹ đường quỹ đạo của tinh tú, báo cho mọi người biết dựa
vào thời biểu để làm những công việc khác nhau. Thiên “Nguyệt Lệnh”
trong Lễ Ký định ra lệ Thiên Tử cứ đến tháng thứ ba của mùa Đông tính
theo âm lịch phải xác định lịch biểu của năm sau. Lịch cung cấp thời gian
biểu cho các mùa, các ngày quan trọng đối với việc nông tang, đối với
các ngày tế lễ, các ngày tốt xấu. Loại lịch này tính theo chu kỳ Mặt Trăng
cho phù hợp với chu kỳ Mặt Trời, gồm mười hai tháng, mỗi tháng có hai
mươi tám ngày. Ở một số năm, người ta tính ngày thêm vào một tháng
gọi là tháng nhuận để trùng với năm tính theo Mặt Trời. Từ thế kỷ II
trước Công nguyên, lịch đã được nhập với Ngũ Hành, Ngũ Sắc, Ngũ
Âm... Vì vậy, sau cuộc cải tiến lịch lớn vào đời Hán Vũ Đế năm 104
trước Công nguyên, sau một cuộc tranh cãi giữa các Nho sĩ, thì Hành Thổ
và màu vàng được coi là tương ứng với nhà Hán (bởi nhà Tần thuộc
Hành Thủy, màu đen). Năm mới bắt đầu được tính từ ngày Đông Chí.
Tuy nhiên, loại lịch này chưa phải được tính hoàn toàn chính xác, nhưng
nó vẫn được sử dụng trong suốt các triều đại về sau, có lúc thêm, có lúc
bớt, đến năm 1911.
Các nghi lễ tế tự khác: Ngoài những loại lễ do hoàng đế và nhà nước
tiến hành, tôn giáo chính thức còn có các loại lễ do các quan châu, quận,
phủ tiến hành, cố nhiên là thay mặt cho Thiên Tử.
Trước hết là tế Thần Xã, Thần Tắc của từng địa phương vào mùa
Xuân, mùa Thu. Hoàng đế thì làm Lễ Tịch Điền, còn các quan đứng đầu
địa phương rồi sau đó là các vị trưởng làng được thông báo một số sự
kiện về thời tiết, khí hậu, xác định ngày tốt để bắt đầu việc nông tang.
Các vị đầu địa phương này gửi các bản sao đến mỗi làng một tờ lịch biểu.
Các quan đứng đầu địa phương còn phải chịu trách nhiệm tế lễ các vị
thần gắn với Trời như Nhật Tinh, Nguyệt Tinh, các tinh tú, Mưa, Gió,
Sấm, Sơn Thần, Thủy Thần... Ngoài ra, họ còn phải cúng tế Khổng Tử và
các vị tiên nho. Năm 195 trước Công nguyên, Hán Cao Tổ đã đến viếng
mộ Khổng Tử và tế lễ. Đây là cuộc hành hương đầu tiên trong các triều
đại Trung Quốc. Nhưng phải đến năm 442, miếu thờ Khổng Tử đầu tiên
mới xuất hiện. Sau đó, ở lỵ sở mỗi châu, quận, phủ cũng lập một miếu
Nguyễn Quốc Tuấn. Góp phần tìm hiểu Khổng giáo 29
thờ riêng, tên là Văn Miếu nếu ở kinh đô, Học Miếu nếu ở lỵ sở. Văn
Miếu và Học Miếu có vị trí trang trọng trong các trường học địa phương.
Các quan đứng đầu địa phương khi đến trấn nhậm bắt buộc phải đến lễ ở
Học Miếu. Người ta còn thấy hiện tượng Khổng Tử biến thành thần trong
các sách nho không chính thống.
Hoàng đế thay mặt và thừa mệnh Trời còn có quyền ban sắc phong
cho các vị thần ở địa phương. Sự chính thức hóa đó được ghi vào điển lễ
triều đình. Có thể thấy, đây là sự nhượng bộ đối với tôn giáo dân chúng,
thể hiện sự cố kết thông qua tôn giáo trong một nước thống nhất và có
một vai trò xã hội, chính trị to lớn. Chính sự phong thần này cho phép
nhà nước can thiệp vào hoạt động tôn giáo nằm bên ngoài tôn giáo chính
thức, đồng thời thu hẹp hành vi tôn giáo ngoài lề vốn nhiều vô kể của tôn
giáo dân chúng trong mức độ cho phép.
Do được sắc phong, nên cũng có thể nói rằng, các vị thần được phong
(gồm nhiều dạng) là một phần của tôn giáo chính thức. Các ngày lễ
chung thì các vị thần đó đều được thụ hưởng. Mặt nào đó, việc được
phong tặng cũng là một điều kiện cho thần tồn tại. Có nhiều anh hùng
lịch sử hay huyền thoại, hiền nhân, quan thanh liêm, các liệt nữ trung
trinh hiếu tiết là những đức lớn được cả nho sĩ và người bình dân xưng
tụng. Bên cạnh đó, những sự kỳ dị phi thường được gán cho sự linh ứng
đều là đối tượng phong tặng. Trường hợp của Quan Vũ là một ví dụ. Ông
là một nhân vật thời Tam Quốc có lòng trung thành tuyệt đối với nhà
Thục. Hình tượng của ông sống động qua nhiều thế kỷ. Ông được thờ
như vị thần có nhiều dũng khí, trung với lời thề, rất hiển linh, hơn thế là
mối khiếp sợ đối với quỷ ác trong con mắt người Trung Hoa.
Ví dụ khác là về phong Thành hoàng. Đây là thần giúp việc trên Thiên
đình, chuyên quản hình luật cho Ngọc Hoàng Thượng Đế. Nhưng thần
này cũng được coi là vị thần trông nom về sự an lành về ban đêm, cao
hơn là của sự thịnh vượng, đạo đức, phù hộ dân chúng chống lại ác họa.
Thần có nhiều viên chức giúp việc. Mỗi năm mới, thần này trình lên
Ngọc Hoàng những việc chi tiết trong sự dẫn dắt đạo đức của người dân
vùng thần cai quản. Thần cũng kiểm soát việc ở Hạ Giới và cả dưới mặt
đất. Mỗi châu phủ đều có một vị Thành hoàng. Hàm phẩm của Thành
hoàng, tương tự như Thổ Thần ứng với hàm phẩm của hương hào thôn
quê, dập lại hàm phẩm của bộ máy triều đình. Từ thời nhà Đường và nhà
Tống về sau, Thành hoàng được chính thức hóa, có một vị trí quan trọng
30 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014
trong các cuộc tế lễ. Bây giờ mỗi nơi có một miếu thờ Thành hoàng
riêng. Các quan địa phương khi về nhậm chức thường phải ngủ đêm đầu
tiên ở miếu. Tương truyền, những lời báo mộng của thần trong đêm ấy sẽ
giải trước các nghi án, hay đưa ra được những lời nghị án chính xác. Qua
trường hợp thần Thành hoàng, người Trung Hoa không có cách nào khác
hơn để hình dung về thế giới siêu việt khi hình dung ra khía cạnh đẳng
cấp của các thần giống như một loại viên chức.
(Kỳ sau đăng tiếp)
CHÚ THÍCH:
1 Câu chuyện mang tính giai thoại huyền kỳ này cho thấy, hậu thế đã thiêng hóa
các vĩ nhân. Ngay Khổng Tử, dù được xác định như một nhân vật có thật, cũng
không tránh khỏi. Có thể liên hệ huyền thoại này với câu chuyện về sự ra đời của
Phật Tổ. Khổng Tử được coi là người siêu phàm trong hàng chục thế kỷ sau,
được tôn vinh tột đỉnh, việc đó cho thấy tính cách giáo chủ của ông.
2 Thiên “Nhan Uyên”, sách Luận Ngữ.
3 Thiên “Lương Huệ Vương hạ”, sách Mạnh Tử.
4 Có thể nói đến sự kiện Sông Hà hiện Đồ, Sông Lạc hiện Thư, rồi thánh nhân bắt
chước làm ra Hà Đồ, Lạc Thư. Đồ là vằn lưng con long mã, còn Thư là các vạch
trên mu con rùa.
5 Số 6 cũng như tất cả các số chẵn là số Âm, tất cả số lẻ đều là Dương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
2. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
3. Lê Quý Đôn (1962), Vân đài loại ngữ, tập 1, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
4. Marcel Granet (1968), La Civilisation Chinoise, Édition Albin Michel, Paris.
5. Trần Đình Hượu (1994), “Nho giáo với tư cách là một tôn giáo”, trong Những
vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Trần Trọng Kim (1929), Nho giáo, Nhà in Tân Việt, Sài Gòn.
7. Hoàng Thọ Kỳ, Trương Thiện Văn (1999), Chu Dịch Dịch Chú, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
8. Ngô Sĩ Liên (1971), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
9. Ngô Sĩ Liên (1972), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
10. Ngô Sĩ Liên (1972), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
11. Ngô Sĩ Liên (1974), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 4, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
12. Henri Maspero (2000), Đạo giáo và các tôn giáo Trung Quốc, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
13. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 6, 7, 8,
Nxb. Thuận Hóa, Huế.
Nguyễn Quốc Tuấn. Góp phần tìm hiểu Khổng giáo 31
14. Henri Charles Puech chủ biên (1976), Histoire des religions, tome III,
Encyclopédie de la Pléide, Édition Gallimard, Paris.
15. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Nxb. Thuận
Hóa, Huế.
16. Ngô Đức Thọ chủ biên (1993), Các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà
Nội.
17. Ngô Tất Tố (1991), Kinh Dịch, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Nguyễn Quốc Tuấn (1993), “Thờ cúng Thành hoàng làng Việt ở Bắc Bộ: nhận
thức nguồn gốc”, trong: Văn hóa vì con người, Nxb. Văn hóa và Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
19. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1991), Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
20. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Viện Triết học (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Abstract
CONTRIBUTION TO RESEARCH ON CONFUCIANISM
IN VIETNAM
Confucianism or religion of Confucius - Mencius had many
contributions towards Vietnamese traditional culture. In general,
Confucianism was studied as a social- political doctrine. However, on the
process of existing, Confucianism had a system of conception, rite and
practice along with the principles of thought on cosmology and human
life which created a base for recognizing it as a religion. This text
clarifies the religious aspect of Confucianism and Confucianism in
Vietnam.
Keywords: Confucianism, Confucius, dominant religion, legitimate
religion.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26696_89724_1_pb_922.pdf