Một khi loại phản ánh, nhận thức như vậy cần thực thi bởi hành động
của con người, biến thành hiện thực, nó cần phải có phương thức đặc thù
để thực hiện điều đó. Trên thực tế, với tư cách là một hiện tượng mang
tính tinh thần, tính tâm thức của con người, tác dụng trở lại của tôn giáo
tới hiện thực xã hội là không giống với các hình thức hoạt động văn hóa
tinh thần khác. Thông thường, tôn giáo thông qua tổ chức chặt chẽ, chức
sắc chuyên nghiệp và nghi lễ quy chuẩn khiến nó trở thành một lực lượng
xã hội quan trọng và hình thành nên phương thức hành vi đặc thù, từ đó
ảnh hưởng và tác dụng đến đời sống và sự phát triển của con người.
17 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 690 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tôn giáo - Lý giải về bản chất tôn giáo từ góc độ triết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 – 2014 3
LÝ LAN PHẦN*
LÝ GIẢI VỀ BẢN CHẤT TÔN GIÁO
TỪ GÓC ĐỘ TRIẾT HỌC
Tóm tắt: Trên cơ ở đề cập đến sự tương đồng ẩn sau những phân
rẽ của định nghĩa về tôn giáo, bài viết tập trung bàn lại về ý nghĩa
và phương pháp lý giải bản chất tôn giáo, cũng như hai phương
diện cơ bản của tôn giáo từ góc độ triết học.
Từ khóa: Bản chất, định nghĩa, tôn giáo, triết học.
1. Sự tương đồng ẩn sau những phân rẽ của định nghĩa tôn giáo
Giống như mọi ngành khoa học quy chuẩn, trong ngành nghiên cứu
tôn giáo, việc đưa ra định nghĩa về đối tượng nghiên cứu là công việc tất
yếu đầu tiên. Điều này liên quan đến việc khởi đầu cho một nghiên cứu,
cũng như sự tự giác của người nghiên cứu đối với giới hạn và ý nghĩa
trong giải thích của mình. Cho nên, mỗi định nghĩa tôn giáo không những
thể hiện góc nhìn và phương pháp tiếp cận của người nghiên cứu, mà còn
thể hiện lý giải của người nghiên cứu về ý nghĩa và tác dụng của tôn giáo.
Trên thực tế, nhà nghiên cứu tôn giáo ngoài việc đứng từ góc độ khoa
học và vận dụng quy tắc khoa học nhất định, còn phải xuất phát từ thể
nghiệm đời sống con người để lý giải tôn giáo. Những định nghĩa tôn
giáo khác nhau đều được đưa ra từ các góc độ, quy tắc và thể nghiệm cá
nhân khác nhau. Các nhà nghiên cứu khác nhau cùng đứng từ góc độ
khoa học giống nhau cũng đưa ra những định nghĩa khác nhau về tôn
giáo. Như vậy, sự phân rẽ giữa các định nghĩa tôn giáo không chỉ bởi sự
khác nhau về góc độ khoa học và quy tắc khoa học, mà còn bởi vấn đề
thể nghiệm đời sống cá nhân. Nhưng sự phân rẽ này hoàn toàn không dẫn
đến việc không công nhận ý kiến của nhau về tôn giáo giữa các nhà
nghiên cứu. Tranh luận của họ thường xảy ra ở chỗ, loại định nghĩa nào
đáng tin cậy nhất và có thể thay thế định nghĩa khác. Còn nguyên nhân
chủ yếu của việc bất đồng ý kiến và tranh luận thì hoàn toàn do không
nhìn thấy tính hạn chế của bản thân1.
*
GS.TS., Trường Đại học Trung Sơn, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông,
Trung Quốc.
4 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
4
Nếu như không đi sâu vào bất đồng ý kiến và tranh luận giữa các phân
rẽ, thì chung quy chúng vẫn hướng đến một đối tượng. Điều này phải
chăng vì đối tượng của mọi định nghĩa đều vận dụng một từ giống nhau
là tôn giáo? Hay là thông qua hàm nghĩa của định nghĩa, mọi ý hướng
đều ngầm chỉ một đối tượng? Kỳ thực, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự
bất đồng ý kiến và tranh luận không phải là vấn đề dùng từ, mà là vấn đề
hàm nghĩa. Hàm nghĩa khiến các định nghĩa phân rẽ, cũng khiến các nhà
nghiên cứu hiểu rõ sự phân rẽ này là phân rẽ trong giới thuyết về vấn đề
(đối tượng) giống nhau, mà không phải phân rẽ trong giới thuyết về vấn
đề (đối tượng) khác nhau.
Nhà nghiên cứu Đài Loan Tăng Ngưỡng Như trong sách Triết học về
tôn giáo từng làm rõ sự khác nhau trong định nghĩa mặt chữ và nghĩa của
từ “tôn giáo” giữa Phương Tây và Trung Quốc:
Chữ “tôn giáo” (宗 教) trong tiếng Trung tạo thành bởi chữ “tôn”/
“tông” (宗) và chữ “giáo” (教). Trong sách cổ của Trung Quốc đều có hai
chữ này, nhưng không tìm thấy tổ hợp hai chữ “tôn giáo”. Cho nên, từ “tôn
giáo” chỉ thông dụng từ thời Cận đại, do người Nhật Bản dịch và tạo ra.
“Tông” (宗) gồm bộ “miên” (宀) là mái nhà và bộ “thị” (示) là thần.
Cho nên, “tông” tức là tông miếu tổ tiên, cũng có những nghĩa khác như
tôn (kính) (尊), gốc (bản) (本), chủ (主), chúng (众),v.v...
“Giáo” (教) là “trên thực thi dưới bắt chước”, như Kinh Dịch viết:
“Thánh nhân dĩ thần đạo thiết giáo, nhi thiên hạ phục hĩ” (圣 人 以 神 道
设 教,而 天 下 服 矣/ Thánh nhân căn cứ đạo thần để giáo hóa dân
chúng, thiên hạ theo đó mà phục theo). Ở đây, “giáo” có nghĩa là giáo
dục. Nhưng “giáo” cũng có nghĩa là tôn giáo, vì mục đích của nó là “trên
thực thi dưới bắt chước”. Thánh nhân khiến dân chúng noi theo mọi niềm
tin, thờ cúng và thực hành kính lễ đối với thần thánh thiêng liêng tối cao
vô thượng. Cho nên, nghĩa mặt chữ của từ tôn giáo là “có sự thờ kính để
làm việc giáo hóa” (giải thích của Từ Hải), hoặc “dùng đạo thần để giáo
hóa, thiết lập điều răn cấm, khiến mọi người tin theo và thờ cúng” (giải
thích của Từ Nguyên).
Nguyên văn của tôn giáo là tiếng Latinh: Religio, theo Marcus T.
Cicero, được biến thể từ động từ relegere, nghĩa là đọc lại, xem lại, suy tư
(to read over, to think over divine things).
Lý Lan Phần. Lý giải về bản chất tôn giáo 5
5
Lactantius (260 - 340) cho rằng, danh từ tôn giáo bắt nguồn từ động từ
religare, có nghĩa là gắn bó, liên kết với Thượng Đế (to bind to God).
Augustin chủ trương dùng động từ reeligere, tức là tái lựa chọn, lại có
được (to choose again God lost by sin).
Thomas tương đối đồng thuận ý kiến của Lactantius khi cho rằng,
religare nghĩa là liên kết, liên kết giữa con người và Thần/ Thượng Đế.
Nhưng ông cũng không bỏ qua các ý kiến khác. Bởi vì, theo ông, “từ tôn
giáo hoặc có nghĩa gốc là đọc lại hoặc lại có được, nhưng đã mất dần ý
nghĩa này do bị coi nhẹ; hoặc bắt nguồn từ sự bó buộc, nhưng ý nghĩa
chủ yếu là chỉ mối liên hệ giữa con người và Thượng Đế. Bởi vì, Thượng
Đế là suối nguồn không thể thiếu mà con người cần gắn bó; con người vì
tội lỗi mà đánh mất Thượng Đế, cần phải tin tưởng và phục tùng Ngài để
lại có được Ngài”2.
Dưới đây là một số định nghĩa mô tả về tôn giáo của các ngành khoa
học hữu quan:
Samuel Koenig trong sách Xã hội học đưa ra định nghĩa tôn giáo theo
quan điểm xã hội học là “một loại niềm tin tôn giáo đối với lực lượng
siêu nhiên hoặc lực lượng thần bí, loại niềm tin này kết hợp với sự tôn
kính, sợ hãi và thành tâm, rồi biểu hiện ra bên ngoài các hoạt động tôn
giáo nhằm ứng xử với lực lượng siêu nhiên và thần bí”.
James G. Frazer trong sách Cành vàng (The Golden Bough) định
nghĩa tôn giáo là “hướng đến lực lượng siêu nhân đang dẫn dắt, khống
chế tự nhiên và tiến trình đời sống loài người để chuộc tội (cầu xin tình
cảm) và giảng hòa”.
W. Robertson Smith cho rằng, tôn giáo là “toàn thể thành viên trong
cộng đồng nảy sinh mối liên hệ với một loại thế lực, thế lực này quan tâm
đến lợi ích của cộng đồng, bảo hộ trật tự của luật lệ và đạo đức của cộng
đồng”.
Emile Durkheim trong công trình Những hình thức sơ khai của đời
sống tôn giáo (The Elementary Forms of Religious Life) giải thích, tôn
giáo là “hệ thống liên kết các niềm tin và thực hành liên quan đến sự vật
thiêng”.
James Martineau cho rằng, tôn giáo là “niềm tin đối với Thượng Đế
vĩnh hằng thống lĩnh vũ trụ và có mối quan hệ tinh thần với con người”.
6 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
6
Herbert Spencer nhấn mạnh, tôn giáo là “biểu hiện sự thừa nhận vạn
vật đều là một lực lượng mà con người không thể lý giải (tri thức siêu
nhân loại)”.
Theo Immanuel Kant, “tôn giáo là sự công nhận mọi nghĩa vụ của con
người đều tốt đẹp như mệnh lệnh của Thượng Đế”.
Thomas Henry Huxley cho rằng, “tôn giáo là sự tôn trọng và yêu quý
đối với lý tưởng luân lý, tiếp đến nguyện thực hiện lý tưởng đó vào trong
đời sống”.
Morris Jastrow trong sách Nghiên cứu tôn giáo (The Study of Religion)
xuất bản năm 1901 cho rằng: “Tôn giáo có ba điểm lớn: thứ nhất là, thừa
nhận sự tồn tại của một thần linh hoặc một số thần linh mà con người
không thể khống chế; thứ hai là, đối với thần linh, con người có cảm giác
lệ thuộc; thứ ba là, con người lĩnh hội được mối quan hệ nào đó với thần
linh. Nếu liên kết ba điểm lớn này lại với nhau, tôn giáo là một loại niềm
tin tự nhiên của con người đối với một thần linh hoặc một số thần linh mà
con người không thể khống chế, đồng thời cũng là một cảm giác lệ thuộc
đối với thần linh. Loại niềm tin và cảm giác này xúc tác nên tổ chức tôn
giáo, hành vi tôn giáo và luật lệ tôn giáo, vì vậy tạo dựng nên những mối
quan hệ nào đó giữa con người với thần linh”.
Max Schmidt trong sách Dân tộc nguyên thủy của loài người
(Primitive Races of Mankind) cho rằng: “Tôn giáo là niềm tin đối với
thần linh nào đó. Đối với đời sống tình cảm của con người mà nói, thần
linh là căn nguyên của mọi vật, đồng thời là nguồn gốc mọi hiện tượng
phát sinh trong giới tự nhiên và đời sống con người”3.
Trong sách Triết học tôn giáo (宗 教 哲 学), nhà nghiên cứu Trung
Quốc Tạ Phù Nhã đã phê bình vấn đề dịch thuật từ “tôn giáo”, từ đó khái
quát cách nhìn của ông về hàm nghĩa của “tôn giáo” như sau: “Từ D. E.
Khaitun trở về sau, Tây học chuyển hướng sang Phương Đông, sự bất hạnh
của danh từ dịch thuật không gì hơn hai chữ tôn giáo. Khảo cứu từ religion
của Phương Tây hiện nay sử dụng so với cái mà Trung Quốc gọi là tôn
giáo (宗 教) thực tế là không ăn nhập. Danh từ này được người Nhật Bản
dịch rồi truyền vào Trung Quốc, trải qua nhiều năm, dùng lâu trong xã hội
và văn tự, tuy muốn sửa cũng đã quá muộn. Người ban đầu dịch chữ này,
không rõ là ai, đã căn cứ theo câu “Thánh nhân dĩ thần đạo thiết giáo”
trong Kinh Dịch. Còn nguồn gốc chữ “tôn” (tông) là từ sách Thư kinh -
Lý Lan Phần. Lý giải về bản chất tôn giáo 7
7
Nghiêu điển (书 经 ·尧 典), Thư kinh - Thuấn điển (书 经 · 舜 典). Trong
sách này có câu “yên vu lục tông” (湮 于 六 宗), (Lục tông chỉ sáu loại
thần linh cần phải tế tự, có khi gồm nhật (Mặt Trời), nguyệt (Mặt Trăng),
lôi (sấm), phong (gió), trạch (ao đầm); có khi gọi Thiên tông, gồm nhật,
nguyệt, tinh tú, núi, sông, biển; có khi là bốn mùa, nói chung là bất nhất).
Còn tôn giáo, ý nghĩa trong văn tự tiếng Hán chỉ là sự thờ cúng nhất thần
hay nhiều thần mà thôi, không khái quát hết cả Phật giáo vô thần và Nho
giáo nửa vô thần nửa hữu thần, cũng không bao hàm hết trải nghiệm liên
thông với thần và các hành vi luân lý. Nếu tìm trong từ điển Trung Quốc
danh từ tương đương với religion, chỉ có từ “đạo” (道) miễn cưỡng chấp
nhận được. “Đạo” kiêm cả hai mặt bản chất nội tại lẫn biểu hiện ngoại tại,
religion cũng có hai mặt tôn chỉ lẫn phương pháp. Đạo có thể biểu thị hoàn
toàn mối quan hệ khăng khít giữa con người với bản thể vũ trụ, đồng thời
nói đến hoạt động và thích ứng của con người đối với xã hội. Tiếc là chữ
này phổ biến dùng riêng cho Đạo giáo, chuyển sang dùng để dịch religion
dễ bị nhầm lẫn vô bổ. Nay mong rằng, người trong nước (Trung Quốc)
đừng có suy diễn ý nghĩa từ mặt chữ, cần lưu ý đến nội dung các tôn giáo
lớn trên thế giới và tự xây dựng nên một quan niệm về tôn giáo gần như có
thể tránh được mọi mắc mớ không cần thiết”4.
Lã Đại Cát trong sách Tôn giáo học thông luận (宗 教 学 通 论) giải
thích gốc gác của từ tôn giáo như sau: Thư tịch cổ Trung Quốc không có
từ tôn giáo. Từ ngoại lai này có hai nguồn gốc. Thứ nhất là từ Phật giáo
Ấn Độ. Phật giáo lấy lời Phật thuyết làm “giáo”, lấy lời đệ tử thuyết làm
“tông”, tông là phái (phân nhánh) của giáo, gọi gộp là tôn giáo, nghĩa là
giáo lý của Phật giáo. Trong Cảnh Đức truyền đăng lục - Khuê Phong
Tông Mật Thiền sư đáp Sử Sơn nhân thập vấn có từ “tông giáo” với ý
nghĩa là tông phái của Phật giáo. Từ tôn giáo mà người Trung Quốc sử
dụng hiện nay bắt nguồn từ tiếng Tây religion, ý nghĩa của nó rộng rãi
hơn nhiều ý nghĩa từ tôn giáo trong Phật giáo, hơn nữa nó phiếm chỉ
niềm tin vào thần linh. Cho dù đây là khái niệm ngoại lai, nhưng thư tịch
cổ Trung Quốc cũng có cách nói tương tự. Tư tưởng “dĩ thần đạo thiết
giáo” phản ánh một quan niệm tôn giáo của người xưa. Họ lý giải tôn
giáo như một phương thức dùng đạo thần (神 道 设 教) để giáo hóa dân
chúng. Lễ ký - Tế nghĩa viết: “Hợp quỷ dữ thần, giáo chi chí dã” (合 鬼
与 神,教 之 至 也), nghĩa là niềm tin và thờ cúng đối với quỷ thần là
sự chí lý trong việc giáo hóa dân chúng, đó cũng là lẽ phải căn bản của
8 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
8
tôn giáo. Một số người Trung Quốc thời Cận đại vẫn theo truyền thống
này, căn cứ mặt chữ để giải thích nghĩa của tôn giáo: tôn (tông) là gốc;
tôn giáo có nghĩa gốc là giáo dục (giáo hóa). Cái gọi là gốc (bản), hay các
đạo thần, là cách nói khác của “thần đạo thiết giáo”5.
Nhà nghiên cứu Hoa Kỳ Leonard Swidler từng hợp tác với nhà thần
học nổi tiếng Hans Küng đề xướng tư tưởng “luân lý toàn cầu” nỗ lực
đưa ra một định nghĩa đầy đủ về tôn giáo: Tôn giáo theo cách gọi truyền
thống là “một loại lý giải về ý nghĩa sau rốt của cuộc sống và tương ứng
với điều đó là nên sống như thế nào”. Thông thường, các tôn giáo đều
gồm: tín điều, quy tắc/ luật lệ, sự thờ cúng và kết cấu đoàn thể (4C =
creed, code, cult, community structure), được hình thành trên cơ sở quan
niệm về cái siêu việt (transcendent).
Tín điều là chỉ phương diện nhận thức tôn giáo, thuyết minh về ý
nghĩa rốt ráo của cuộc sống.
Quy tắc, luật lệ là chỉ quy phạm về hành vi và luân lý, bao gồm mọi
quy tắc hành động và tập quán hoặc nhiều hoặc ít đi cùng với một
phương diện nào đó của tín điều.
Sự thờ cúng (sùng bái) là chỉ những hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp
khiến cho tín đồ liên quan với một phương diện nào đó của cái (đấng)
siêu việt. Cầu nguyện là ví dụ về mối liên quan trực tiếp, còn những hành
vi chính thức của đại diện cho đấng siêu việt, như chức sắc tôn giáo
chẳng hạn, là ví dụ về mối liên quan gián tiếp.
Kết cấu cộng đồng là chỉ các loại quan hệ giữa tín đồ, có thể không
tương đồng với nhau ở các mức độ khác nhau, từ mối quan hệ bình đẳng
(như quan hệ giữa tín đồ hệ phái Quaker của Tin Lành), kết cấu kiểu
cộng hòa (như tín đồ hệ phái Trưởng Lão của Tin Lành), cho đến kết cấu
kiểu quân chủ (như tín đồ hệ phái Hasidic của Do Thái giáo).
Cái (đấng) siêu việt, đúng như từ gốc transcendent, chỉ cái vượt ra
ngoài kinh nghiệm đối với bề ngoài của thực tại thường nhật và phổ
thông. Nó có thể là tinh linh, thần linh, Thượng Đế có nhân cách, Thượng
Đế phi nhân cách, hư vô, v.v...6
Trong rất nhiều định nghĩa tôn giáo nêu trên, sự phân rẽ gần như tập
trung ở hai phương diện:
Thứ nhất, tôn giáo thông qua tính siêu việt nào để thể hiện ý nghĩa và
tác dụng của nó đối với đời sống con người. Sự phân rẽ này ngoài thể
Lý Lan Phần. Lý giải về bản chất tôn giáo 9
9
hiện sự khác nhau về định nghĩa mặt chữ giữa Trung Quốc và Phương
Tây, còn biểu hiện ở sự khác nhau của các góc độ khoa học khi giới
thuyết đối tượng. Ví dụ, các nhà nghiên cứu Phương Tây giới thuyết về
tôn giáo từ góc độ nhân học và xã hội học như Samuel Koenig, James G.
Frazer, Emile Durkheim, Max Schmidt; giải thích về tôn giáo từ góc độ
triết học như Herbert Spencer, James Martineau, Jastrow; giải thích về
tôn giáo từ góc độ luân lý học như W. Robertson Smith, Immanuel Kant,
Thomas Henry Huxley.
Thứ hai, hiện tượng tôn giáo thông qua con đường nào để thể hiện bản
chất của nó: là niềm tin, tình cảm kết hợp với hành động (theo Koenig),
hay là tình cảm kết hợp hành động (theo Huxley); là hệ thống liên hợp giữa
niềm tin và hành vi (theo Durkheim), hay là một cộng đồng gồm niềm tin,
cảm giác, tổ chức, hành vi, quy tắc/ luật lệ (theo Jastrow), hoặc là sự kết
hợp 4C trên cơ sở quan niệm về cái siêu việt (theo Swidler), hoặc là biểu
hiện của sự công nhận đối với một lực lượng siêu việt (theo Spencer, Kant),
biểu hiện mối liên hệ giữa con người với một thế lực (theo Smith), biểu
hiện như một sự chuộc tội hoặc giảng hòa (theo Frazer).
Không khó nhận ra bản thân sự phân rẽ nêu trên cũng biểu hiện một
mặt đồng thuận của các nhà nghiên cứu tôn giáo. Điều đó nói lên rằng,
các nhà nghiên cứu tôn giáo có cách nhìn khác so với kết quả quan sát,
phân tích và giải thích về tôn giáo của người khác, từ đó dẫn đến tranh
luận, thậm chí là đối chọi nhau, nguyên nhân căn bản là do họ có cách
nhìn khác nhau về một đặc điểm, đó là tôn giáo ra sao với tư cách một
hiện tượng đặc biệt. Họ đều công nhận, tôn giáo có nền tảng đặc biệt và
phương thức biểu hiện đặc thù. Vấn đề chỉ là, cái gì làm nền tảng đặc biệt
của tôn giáo, và tôn giáo thể hiện phương thức đặc biệt của mình như thế
nào. Hai vấn đề này một khi trở thành nội dung được các nhà nghiên cứu
mô tả, phân tích và giải thích sẽ có được những đáp án khác nhau.
2. Bàn lại về ý nghĩa và phương pháp lý giải bản chất tôn giáo
Hiển nhiên, những nhà nghiên cứu tôn giáo khác nhau khi quan sát,
mô tả, giải thích về hiện tượng tôn giáo, bất kể là đồng thuận hay phân rẽ
quan điểm đều xoay quanh vấn đề chủ yếu là nên giải thích như thế nào
về đặc điểm của tôn giáo. Cố nhiên, các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tôn
giáo đặc biệt, hơn nữa cái đặc biệt của nó có thể biểu hiện ra ngoài và
quan sát được. Vậy vấn đề đầu tiên là, tôn giáo đặc biệt ở chỗ nào, hoặc
bản chất của tôn giáo là gì.
10 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
10
Khi so sánh các loại định nghĩa tôn giáo, không khó nhận thấy, các
nhà nghiên cứu đều coi đặc điểm (hoặc bản chất) của tôn giáo là tôn giáo
thông qua khơi dậy tình cảm, niềm tin hoặc cảm giác của con người đối
với cái (tính) siêu việt, từ đó ảnh hưởng và tác dụng đối với sự sinh tồn
và phát triển của con người, hoặc nói cách khác là mang đến ý nghĩa cho
nhân sinh. Như định nghĩa mặt chữ trong ngôn ngữ Phương Tây nhấn
mạnh mối quan hệ sống còn giữa con người với vũ trụ (Tạ Phù Nhã);
“Thánh nhân dùng đạo thần để giáo hóa” (Tăng Ngưỡng Như và Lã Đại
Cát đều dùng cách nói này của cổ văn Trung Quốc để lý giải hàm nghĩa
của từ tôn giáo. Nhà nghiên cứu sử dụng định nghĩa mô tả cũng nhấn
mạnh, tôn giáo là niềm tin của con người đối với lực lượng siêu nhiên
hoặc thần bí (siêu nhân, vật thiêng, lực lượng không thể giải thích, mệnh
lệnh của thần linh, lý tưởng luân lý, một thế lực quan tâm lợi ích cộng
đồng, bảo hộ luật lệ và trật tự luân lý cộng đồng, các hiện tượng mà con
người không thể khống chế nhưng lại là căn nguyên của mọi vật, nảy
sinh trong thế giới tự nhiên và đời sống con người, v.v...) và các hoạt
động xuất phát từ niềm tin đó (định nghĩa trong sách Triết học về tôn
giáo của Tăng Ngưỡng Như).
Đằng sau sự phân rẽ của các định nghĩa tôn giáo ẩn chứa một tính
thống nhất có thể suy đoán, bản chất tôn giáo là niềm tin của con người
đối với cái (tính) siêu việt.
Nhưng trong tiến trình hàng trăm năm của ngành tôn giáo học, các nhà
nghiên cứu luôn nhiệt tâm với việc mô tả bản chất tôn giáo biểu hiện cụ
thể như thế nào, cố giữ lập trường nghiên cứu và phương pháp luận của
từng người trong mô tả về tôn giáo. Do đó, họ dần quên mất truy vấn bản
chất tôn giáo đằng sau các hiện tượng tôn giáo khác nhau, cũng như ý
nghĩa của việc truy vấn này đối với tri thức nhân loại và việc nghiên cứu
tôn giáo.
Nhà sáng lập ngành tôn giáo học Max Müller muốn đem nghiên cứu
tôn giáo trở thành một môn khoa học (science), mục đích căn bản là
muốn thông qua phương thức nghiên cứu và thao tác nghiên cứu khác
nhau đi tới quy chuẩn hóa, cố gắng loại bỏ thiên kiến giá trị mà người
nghiên cứu thường mang vào trong giải thích tôn giáo, khiến cho thành
quả nghiên cứu tôn giáo được chấp nhận rộng rãi với ý nghĩa phổ cập và
vượt lên tính hạn chế của chủ quan cá nhân. Tôn giáo học trong nhãn
quan Max Müller không phải là để thuyết minh người này hay người kia
Lý Lan Phần. Lý giải về bản chất tôn giáo 11
11
nhìn nhận, cảm thụ và suy nghĩ thế nào về tôn giáo, mà là cần thông qua
nghiên cứu một cách lý trí về tôn giáo, lý giải tôn giáo có cơ sở gì trong
tâm hồn nhân loại, cuối cùng đạt tới mục đích hiểu được con người,
thuyết phục con người với con người cần hiểu biết lẫn nhau7. Bởi vậy,
ông đã trao một sứ mệnh thiêng liêng cho những người đối diện và lý giải
tôn giáo bằng lý trí, thông qua tìm kiếm phương pháp thích hợp để
nghiên cứu tôn giáo, chỉ ra khởi nguồn của tôn giáo trong tâm thức và tư
tưởng của con người, chỉ ra các con đường liên hệ lẫn nhau giữa tôn giáo
với đạo đức và thần thoại8.
Nếu nói phương pháp miêu tả tôn giáo từ góc độ quan sát chủ quan
chỉ rõ các hiện tượng về mối liên quan giữa tôn giáo với con người, thì
bước tiếp theo cần giải thích là các hiện tượng về mối liên quan này tại
sao được gọi chung là mối liên quan giữa tôn giáo với con người. Nhà
nhân học người Anh W. James từng nói, giả dụ muốn lý giải bản chất của
việc nghiên cứu tôn giáo và nội dung không ngừng phát triển của nó, giả
dụ việc nghiên cứu tôn giáo được xây dựng trên cơ sở chân thực tốt đẹp,
thì bất kể vì mục đích học thuật hay với tư cách một phương thức của đời
sống, vì sự hiểu biết lẫn nhau giữa các tôn giáo và nền hòa bình quốc tế,
nghiên cứu tôn giáo vừa cần nghiên cứu lịch sử và khoa học, vừa cần có
đánh giá của thần học và triết học9.
Trong nghiên cứu tôn giáo, triết học lý giải như thế nào về tính đặc thù
của tôn giáo hoặc bản chất của tôn giáo? Triết học chủ yếu quan tâm vấn
đề căn bản và phổ biến về sự sinh tồn và phát triển của con người. Tại sao
tôn giáo lại thuộc một trong những vấn đề nói trên, tính tất yếu và tính khả
năng của nó khi trở thành một trong những vấn đề nói trên..., đều trở thành
nguyên nhân quan trọng để triết học từ góc độ của mình nghiên cứu và lý
giải bản chất tôn giáo. Trên thực tế, nhiệm vụ của nghiên cứu triết học về
tôn giáo (còn gọi là triết học tôn giáo) là thông qua các phân tích tổng hợp,
giải thích mối quan hệ giữa đặc tính tôn giáo với bản tính loài người, về
khả năng và tính tất yếu của việc tôn giáo với tư cách là một thế giới quan,
nhân sinh quan tác động và ảnh hưởng đến đời sống con người. Nó có cách
giải quyết cụ thể khác với các ngành nghiên cứu tôn giáo khác đối với
quan hệ giữa tôn giáo và nhân sinh, chú trọng giải quyết vấn đề một cách
toàn diện và căn bản. Ví dụ, các ngành nghiên cứu tôn giáo khác đứng trên
cơ sở mô tả thực tế, đưa ra phân tích và thuyết minh cụ thể về quan hệ giữa
tôn giáo và nhân sinh. Còn nghiên cứu triết học về tôn giáo lại đứng trên
cơ sở phân tích và thuyết minh cụ thể đó, đi tới khái quát về bản tính của
12 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
12
tôn giáo, đưa ra phân tích và thuyết minh chân thực về ý nghĩa của mối
quan hệ giữa tôn giáo và con người10.
Nhưng từ góc độ khoa học, nghiên cứu và lý giải về tôn giáo là công
việc có mức độ nhất định. Từ góc độ triết học giải thích về bản chất tôn
giáo cũng không nằm ngoài điều đó. Mức độ của nó nằm ở hai phương
diện sau đây:
Thứ nhất, triết học xuất phát từ so sánh đặc trưng của các hiện tượng
văn hóa tinh thần để giải thích bản chất hoạt động văn hóa tinh thần có tính
đặc thù như tôn giáo. Tức là, triết học khi nhấn mạnh tôn giáo có nền tảng
của riêng mình thì hoàn toàn không nói một cách chung chung về đặc tính
thông thường các trạng thái của con người và tự nhiên, mà xuất phát từ so
sánh đặc trưng của các sinh hoạt văn hóa tinh thần. Nói rõ điểm này giúp
cho việc giới thuyết về bản chất tôn giáo sẽ không bị mở rộng vô hạn, sẽ
không làm cho thuyết minh về bản chất tôn giáo lan man tới giải thích bản
chất các hiện tượng vật lý, hóa học, sinh vật một cách vô nghĩa.
Thứ hai, triết học khi giải thích bản chất tôn giáo như một hoạt động
văn hóa tinh thần đặc thù cũng nhấn mạnh không thể đem đặc tính làm
nên nền tảng của tôn giáo phân tách khỏi các hoạt động văn hóa tinh thần
khác, coi nó là riêng có của tôn giáo, coi nó là giới tuyến giữa tôn giáo và
các hoạt động văn hóa tinh thần khác. Triết học nhấn mạnh, bất cứ đặc
tính và bản chất hiện tượng nào cũng là biểu hiện nổi trội, đầy đủ nhất ở
hiện tượng đó, chứ không có nghĩa là không liên quan đến các hiện tượng
khác, cũng không phải không thể biểu hiện ở các hiện tượng khác. Cố
nhiên, mọi sự vật đều có quan hệ tương hỗ, tác động lẫn nhau, cùng tồn
tại trong vũ trụ, vậy thì mỗi hiện tượng trong quá trình quan hệ, tác động
lẫn nhau thường khiến cho mỗi phương diện đều để lại dấu ấn trong các
sự vật, hiện tượng khác. Cái làm nên bản chất hoặc đặc trưng nổi trội
nhất của một sự vật, hiện tượng cũng sẽ để lại dấu ấn ở các sự vật, hiện
tượng khác trong quá trình quan hệ lẫn nhau. Từ ý nghĩa đó, triết học
không thừa nhận việc giải thích bản chất của sự vật, hiện tượng là sở hữu
riêng của sự vật, hiện tượng đó. Cũng giống như nói rằng, bản chất tôn
giáo là biểu hiện niềm tin và tình cảm của con người đối với cái siêu việt
thì không phải có riêng ở tôn giáo, mà chỉ là nói tôn giáo biểu hiện điều
này mạnh mẽ nhất và đầy đủ nhất.
Rõ ràng là, triết học cơ bản đứng từ góc độ tri thức và hành vi để lý
giải đặc trưng hoạt động văn hóa tinh thần của con người. Cho nên, từ hai
Lý Lan Phần. Lý giải về bản chất tôn giáo 13
13
mức độ nêu trên, việc lý giải bản chất tôn giáo từ góc độ triết học có hai
nhiệm vụ chủ yếu, đó là từ hai phương diện chức năng phản ánh, nhận
thức và chức năng thực tiễn, hành động, phân tích bản chất tôn giáo như
một hoạt động văn hóa tinh thần đặc thù.
3. Hai phương diện của bản chất tôn giáo
Trước hết, khác với các hình thức hoạt động văn hóa tinh thần khác,
tôn giáo và các loài (gồm cả con người) và sự vật bên ngoài (có mối quan
hệ tới sự sinh tồn và phát triển của con người) nảy sinh tác dụng tương hỗ
sẽ dẫn đến sự phản ánh và nhận thức có tính niềm tin mãnh liệt. Ở đây
nói về sự thật khách quan. Tính chân thực khách quan được phản ánh và
nhận thức trong ngôn ngữ triết học (khi biến thành lý luận gọi là chân lý
khách quan), tức là con người có thể dựa vào diện mạo của sự vật đang
nảy sinh mối quan hệ (tác dụng) tương hỗ với mình để đối xử. Việc dựa
vào diện mạo của sự vật (bao gồm con người) để đối xử cho thấy, con
người trong quá trình phản ánh và nhận thức cố gắng gác tình cảm và
thiên kiến cá nhân (người quan sát) sang một bên, khiến cho việc mô tả,
phân tích và lý giải về đối tượng (bị quan sát) có thể khách quan, chính
xác về bản chất sự vật (và con người). Mọi người đều có thể mô tả và
giải thích về mức độ chiếu sáng của Mặt Trời, sự cấu thành gen di truyền
của con người, sự tăng trưởng kinh tế và thực hiện phúc lợi của một quốc
gia (một khu vực), sự hình thành núi non và biển cả, tốc độ gió bão,
nguyên nhân sấm chớp, nguyên nhân sinh lão bệnh tử của đời người,...
một cách hiện thực khách quan, không thiên kiến chủ quan.
Nhưng tôn giáo mô tả và giải thích về nhiều sự việc liên quan đến con
người hoặc trực tiếp là của bản thân con người, lại không thể không
mang theo thành phần chủ quan khi hoàn toàn chân thực khách quan hóa.
Có điều, niềm tin trong phản ánh và nhận thức tôn giáo không có nghĩa
tôn giáo phản ánh về con người và sự vật đều là đen trắng lẫn lộn, nhào
nặn tùy tiện. Nói một cách tương đối, sự phản ánh và nhận thức của tôn
giáo đối với sự vật và con người ngay từ khởi đầu đã mang màu sắc chủ
quan, khiến cho sự phản ánh và nhận thức của tôn giáo không xuất phát
từ diện mạo vốn có của sự vật và con người, ngược lại, chủ yếu xuất phát
từ tình cảm và ý muốn của con người. Nếu nói biểu hiện nổi trội của đặc
tính con người khi nảy sinh quan hệ với vạn vật (gồm cả con người với
con người) thông qua tâm thức và tình cảm, thì tất yếu xuất hiện tính chủ
động và tính tự giác của con người trong lựa chọn quan hệ. Vậy thì, nhân
14 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
14
tố quan trọng ảnh hưởng đến sự lựa chọn của con người là tính chủ động,
tính tự giác và tính năng động theo hướng có lợi cho con người trong
những mối quan hệ đó. Trong đó, tính năng động mà con người thể hiện
khi thay đổi các nhân tố bất lợi hoặc tận dụng các nhân tố có lợi cho
mình trong mối quan hệ với tự nhiên đều có quan hệ với niềm tin tôn
giáo khi phản ánh và nhận thức sự vật. Điều này có nghĩa là, con người
luôn có phần chủ quan khi nhìn nhận sự vật cũng như bản thân con người.
Đây là sự phản ánh và nhận thức của một loại tình cảm mang tính mục
đích của con người đối với các nhân tố có lợi và bất lợi trong bất kỳ mối
quan hệ nào, trong đó con người ẩn chứa kỳ vọng của mình về loại tác
dụng và ảnh hưởng nào tốt nhất mà quan hệ mang đến.
Sự phản ánh và nhận thức của các hình thức hoạt động văn hóa khác
có lẽ cũng cố gắng tách bạch sự kỳ vọng này của con người với bản thân
đối tượng được phản ánh và nhận thức, để sự phản ánh và nhận thức đó
được khách quan chân thực, khi hành động lại đem sự thực kết hợp cùng
với mục đích mà bản thân muốn cải biến và cảm thụ tình cảm đối với đối
tượng, quyết định chỗ nào thì tác dụng trở lại tới đối tượng. Tính chân
thực khách quan trong phản ánh và nhận thức là một yêu cầu tự giác mà
con người dần đặt ra cho mình trong tiến trình lịch sử lâu dài, nhằm làm
cho sự tác dụng trở lại tới đối tượng không vì cảm thụ tốt xấu mà khiến
bản thân sa vào nhận thức không rõ ràng.
Tôn giáo chủ động đem nhân tố chủ quan của con người ẩn chứa
trong phản ánh, nhận thức và hành động thể hiện ra bên ngoài. Nó hoàn
toàn không đem cái xấu của đối tượng vốn đang có quan hệ với con
người nói thành cái tốt. Nó nhấn mạnh, nên nhận thấy trong đối tượng có
một mặt tốt đối với con người, nên nhận thấy năng lực con người có thể
khiến bản thân từ chỗ hữu hạn đi đến vô hạn (bao gồm con người có thể
đem cái xấu của đối tượng biến thành cái tốt, con người có thể khiến bản
thân mối quan hệ đối lập với đối tượng trở thành quan hệ thống nhất, hài
hòa, v.v...).
Nếu nói các hình thức hoạt động văn hóa tinh thần khác khi biểu hiện
chức năng phản ánh và nhận thức thường chú tâm đến việc con người cần
phải xuất phát từ nhận thức, phản ánh về bản tính sự vật đã hiện hữu,
thực hiện nguyện vọng của mình trong phạm vi hữu hạn, tác dụng trở lại
với các sự vật (bao gồm con người) đang có quan hệ với mình thì, tôn
giáo với tư cách là một hiện tượng mang tính tâm thức, tinh thần đặc biệt
Lý Lan Phần. Lý giải về bản chất tôn giáo 15
15
chú trọng đến việc con người nên không ngừng nỗ lực hướng đến mục
tiêu hòa hợp, thống nhất các mối quan hệ như từng làm trong quá khứ
chứ không chỉ chú ý đến hiện tại. Bởi vì, mối quan hệ giữa sự vật và con
người (bao gồm quan hệ con người với con người) bất kể ở đâu và khi
nào đều tồn tại một mặt hòa hợp, và con người lại là con người chủ động
và năng động. Nói cách khác, tôn giáo nhấn mạnh sự hòa hợp quan hệ
đối với sự sinh tồn và phát triển của con người, tức là sự tồn tại tự nhiên,
nhưng chỉ có được thông qua nỗ lực của con người. Mối quan hệ tự nhiên
như vậy trong thực tế chỉ là một mặt của quan hệ giữa con người với sự
vật, con người với con người, mà không phải là toàn bộ. Hơn nữa,
phương diện biểu hiện sự hòa hợp lúc này sẽ không giống phương diện
biểu hiện sự hòa hợp lúc khác. Sự sinh tồn và phát triển của con người
cần nhận được nguồn vốn và điều kiện từ các mối quan hệ, cần thiết phải
nhận thức sâu sắc về sự tồn tại của cái siêu việt, cái hữu hạn hiện tồn
trong các mối quan hệ hòa hợp. Từ góc độ tôn giáo mà nói, cũng giống
như triết học, việc thừa nhận sự sâu sắc này không đơn thuần rút ra trực
tiếp từ nhận thức của con người đối với sự vật, quan hệ trước mắt. Sự sâu
sắc này cần thiết lập trên sự tương thông và bao quát lẫn nhau của các
loại nhận thức khác nhau. Mặt khác, tôn giáo cho rằng, việc có được sự
sâu sắc này càng quan trọng hơn ở chỗ, dựa vào tinh thần mang tính bản
tính con người, không ngừng theo đuổi mối quan hệ hòa hợp và cần có cả
niềm tin vững bền. Người không có loại nhu cầu, định hướng và niềm tin
đó, cho dù có thực hiện hành động, thì hiệu quả thu được nhất định có cả
mặt bất lợi cho bản thân.
Tính niềm tin chỉ giới hạn ở việc biểu đạt tôn giáo với tư cách một
loại phản ánh và nhận thức mang hình thức đặc biệt. Nó theo đuổi một
phương diện có lợi cho con người trong việc giải thích mối quan hệ giữa
sự vật và con người, con người và con người từ góc độ vĩnh cửu, vô hạn.
Nó được thiết lập trên sự hướng thượng, sự theo đuổi và niềm tin, mà
không chỉ là sự phản ánh, nhận thức khách quan và chủ động thực hành
trên phương diện có lợi cho bản thân.
Rất rõ ràng, tôn giáo không chỉ đem một phương diện nào đó trong
mối quan hệ giữa con người và sự vật, con người và con người, mà còn
đem một phương diện nguyện vọng chủ quan của con người từ trong sự
tồn tại hữu hạn của thời gian và không gian biểu hiện ra ngoài thành đối
tượng của sự phản ánh, nhận thức có tính trừu tượng và vĩnh cửu.
16 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
16
Loại phản ánh, nhận thức như vậy do thấm nhuần khuynh hướng tình
cảm, giá trị, nên bản tính của đối tượng được phản ánh, nhận thức không
giống với đối tượng của các hình thức phản ánh, nhận thức khác - chỉ là
diện mạo vốn có, hữu hạn và hiện hữu, mà ngược lại, là đối tượng thiêng
liêng, chí cao vô thượng.
Một khi loại phản ánh, nhận thức như vậy cần thực thi bởi hành động
của con người, biến thành hiện thực, nó cần phải có phương thức đặc thù
để thực hiện điều đó. Trên thực tế, với tư cách là một hiện tượng mang
tính tinh thần, tính tâm thức của con người, tác dụng trở lại của tôn giáo
tới hiện thực xã hội là không giống với các hình thức hoạt động văn hóa
tinh thần khác. Thông thường, tôn giáo thông qua tổ chức chặt chẽ, chức
sắc chuyên nghiệp và nghi lễ quy chuẩn khiến nó trở thành một lực lượng
xã hội quan trọng và hình thành nên phương thức hành vi đặc thù, từ đó
ảnh hưởng và tác dụng đến đời sống và sự phát triển của con người.
Hiển nhiên, tôn giáo không chú tâm vào phương diện hiện hữu hoặc
sở hữu trong mối quan hệ giữa sự vật và con người, con người và con
người, cũng không chú tâm các phương diện chức năng mang tính tinh
thần của con người. Cho nên, phương thức thực hiện khi biến đổi từ tư
tưởng, nhận thức, lý luận sang hành động, hiện thực tất nhiên cũng khác
so với các hình thức hoạt động văn hóa tinh thần khác.
Tôn giáo chú trọng thông qua nỗ lực của con người để phát huy mặt
hòa hợp đồng thuận trong các mối quan hệ. Nó tất nhiên coi nguyện vọng,
niềm tin và ý chí của con người về sự việc tốt đẹp là nguồn động lực để
con người nỗ lực và hành động vì điều đó. Điều này cũng có nghĩa là, tôn
giáo coi quan điểm nội tâm của con người đồng nhất với hành động thực
tế của con người. Căn cứ và nguồn gốc của hành động đều từ niềm tin
nội tâm của con người, mà không phải từ sự can thiệp ép buộc bởi lực
lượng bên ngoài.
Nhưng với tư cách là một hình thức hoạt động văn hóa có sự phản ánh,
nhận thức và tất nhiên có hành động thực tế, tôn giáo tuy chú trọng ý nghĩa
và tác dụng phương diện nào đó của thực tại và tâm thức con người có ý
nghĩa đối với đời sống con người, song lại không thể không nhìn nhận thực
tại và tâm thức con người về mặt khách quan có ít nhất hai phương diện
khác nhau cùng tồn tại. Để có thể ứng phó hữu hiệu với tác dụng mặt trái
của thực tại và tâm thức, để khiến cho niềm tin con người không bị lung
lay khi gặp phải hiện thực khách quan tàn khốc, tôn giáo trong lịch sử đã
Lý Lan Phần. Lý giải về bản chất tôn giáo 17
17
dần phát triển được phương thức hành vi đặc thù để duy trì niềm tin và
hình thức tổ chức có sự khích lệ, giám sát và chế ngự lẫn nhau giữa những
tín đồ. Giống như niềm tin cần xuất phát từ nội tâm, tính đặc thù của hành
vi và tổ chức tôn giáo về mặt nguyên tắc mà nói, chỉ là sáng tạo ra điều
kiện và từ phương diện tình cảm, lý trí thuyết phục tín đồ kiên trì niềm tin
tôn giáo và không ngừng nỗ lực trong hành vi và trong cộng đồng nhất
định, tạo ra một môi trường và không khí niềm tin tôn giáo cho tín đồ.
Nói một cách đơn giản, tôn giáo thể hiện chức năng thực tiễn của nó
không giống với các hình thức hoạt động văn hóa tinh thần khác. Trước
tiên, tôn giáo kiên trì một cách cố chấp rằng, căn cứ để nó phát huy chức
năng thực tiễn là một mặt của sự hòa hợp vĩnh cửu trong mối quan hệ
tương hỗ, là sự theo đuổi, lý tưởng và niềm tin con người đối với loại bản
tính sự vật này một cách chủ động và không biết mệt mỏi. Vậy thì, mục
đích thực tiễn tôn giáo không nên giới hạn trong sự toan tính được mất về
lợi ích trước mắt của con người. Phương thức thực hiện mục tiêu thực
tiễn tôn giáo cũng không nên tính toán có được trong sự tồn tại cụ thể của
con người. Nói cách khác, tiêu điểm của thực tiễn tôn giáo không phải là
tác dụng tức thời, ảnh hưởng tức thời và cải biến tức thời đối với sự vật,
con người và đối với quan hệ. Nó hy vọng đạt được tác dụng vĩnh cửu,
ảnh hưởng phổ biến và cải biến triệt để của sự siêu việt đối với sự vật,
con người và quan hệ tương hỗ. Bởi vậy, tôn giáo tất yếu phát triển
phương thức thực tiễn đồng nhất với mục tiêu bản thân.
Ngoài ra, tôn giáo khi thể hiện chức năng thực tiễn của mình đã nhận
thấy rằng, mắt xích để có thể thực hiện được tác dụng vĩnh cửu, ảnh
hưởng phổ biến và cải biến triệt để đối với sự vật, con người và quan hệ
tương hỗ không phải ở chỗ con người cải biến cái không thể cải biến đối
với sự vật, con người và quan hệ giữa con người và sự vật, giữa con
người và con người (như cưỡng chế biến đổi trật tự hiện hữu, biến đổi
nhân tạo diện mạo hiện có của sự vật hoặc con người, v.v...); mà chỉ có
thể ở chỗ bồi dưỡng niềm tin kiên định trong tâm thức con người đối với
lý tưởng hòa hợp vĩnh cửu mà họ đang theo đuổi, đồng thời thúc đẩy con
người nguyện vì điều đó mà nỗ lực không mệt mỏi. Cũng tức là, tôn giáo
nhận thấy mắt xích của việc thực hiện được hay không chức năng thực
tiễn ở chỗ có khiến con người thoát ra khỏi những toan tính được mất,
những lợi ích cụ thể hữu hạn, thiết lập lòng tin đối với sự hòa hợp vĩnh
cửu, đồng thời sẵn lòng hy sinh để thực hiện điều đó. Từ ý nghĩa đó, tôn
giáo chủ yếu đem thực tiễn của mình đặt vào sự cải biến tâm thức và tinh
18 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
18
thần con người, nhấn mạnh sự cải biến đó không thể thực hiện bằng
phương thức mang tính vật chất. Con đường mà tôn giáo cải biến lòng
người chỉ có thể là ôn hòa, như: thuyết phục con người bằng tình cảm và
lý trí, gây cảm động và ảnh hưởng tới con người bằng sự kết nối lẫn nhau
giữa người với người, kiên định niềm tin vào sự hòa hợp vĩnh cửu bằng
tu luyện hành vi một cách tự giác, v.v...
Thông qua tính đặc thù của mục đích và phương thức chức năng thực
tiễn của tôn giáo lý giải tính đặc thù hiệu quả thực tiễn của tôn giáo nhằm
nhấn mạnh, tôn giáo sẽ thông qua phương thức đặc thù để tác dụng, ảnh
hưởng, cải biến tâm thức và đời sống con người, khiến cho lý tưởng của
tôn giáo đối với thế giới từ niềm tin biến thành chân thực.
Rõ ràng, tôn giáo là cái đặc biệt. Ít nhất tôn giáo đưa ra chiều kích có
ý vị đặc biệt về tri thức và hành vi nhằm giải quyết vấn đề lý tưởng của
con người được định vị ra sao và thực hiện như thế nào./.
Trần Anh Đào dịch
CHÚ THÍCH:
1 Tác giả từng thảo luận về sự liên quan giữa tính chất của bộ môn khoa học về tôn
giáo và sự phân rẽ định nghĩa tôn giáo trong bài “Giải thích lại về hàm nghĩa, tác
dụng và mức độ của quy phạm nghiên cứu tôn giáo học”, đăng trên tập san Đại
học Sư phạm Hoa Đông, số 4/2000.
2 Tăng Ngưỡng Như (1989), Triết học về tôn giáo, Nxb. Nhân dân Sơn Đông: 72 - 74.
3 Tăng Ngưỡng Như (1989), Triết học về tôn giáo, Sđd: 87 - 91.
4 Tạ Phúc Nhã (1998), Triết học tôn giáo. Nxb. Nhân dân Sơn Đông: 204 - 205.
5 Lã Đại Cát chủ biên (1989), Tôn giáo thông luận, Nxb. Khoa học xã hội Trung
Quốc: 48.
6 Leonard Swidler (1995), “Hướng tới Tuyên ngôn phổ quát toàn cầu” (bản dịch
Trung văn), Đông Phương, số 2.
7 Eric J. Sharpe (Lã Đại Cát, Hà Quang Hộ, Từ Đại Kiến dịch, 1988), Comparative
Religion: A History (Lịch sử tôn giáo học so sánh), Nxb. Nhân dân Thượng Hải: 56.
8 Eric J. Sharpe (Lã Đại Cát, Hà Quang Hộ, Từ Đại Kiến dịch, 1988),
Comparative Religion: A History (Lịch sử tôn giáo học so sánh), Sđd: 48.
9 Eric J. Sharpe (Lã Đại Cát, Hà Quang Hộ, Từ Đại Kiến dịch, 1988),
Comparative Religion: A History (Lịch sử tôn giáo học so sánh), Sđd: 372. Các
nhà nghiên cứu tôn giáo quan tâm sự phát triển của tư tưởng đương đại luôn thảo
luận về mối quan hệ giữa tôn giáo và triết học chỉ ra rằng, lý giải tôn giáo từ góc
độ triết học là không thể thiếu. Tham khảo: John Macquarrie (Cao Sư Ninh, Hà
Quang Hộ dịch, 1988), Twentieth Century Religious Thought (Tư tưởng tôn giáo
thế kỷ XX), Nxb. Nhân dân Thượng Hải; Luther J. Binkley (Mã Nguyên Đức
dịch, 1986), Conflict of Ideals (Sự xung đột của các lý tưởng), Thương vụ ấn thư
quán; Hà Quang Hộ (2000), “Tiếng nói trăm năm của ngành tôn giáo học”, trong
Tư liệu báo chí Đại học Nhân dân Trung Quốc - Tôn giáo, số 3.
Lý Lan Phần. Lý giải về bản chất tôn giáo 19
19
10 Loại hình nghiên cứu được gọi là “triết học tôn giáo về cơ bản không cần xuất phát
từ lập trường một tôn giáo nào đó, nó không phải là một phân ngành của Thần học
(John Hick, 1988, Philosophy of Religion/ Triết học tôn giáo, bản dịch Trung văn,
Tam Liên thư điếm), mà là “nghiên cứu tôn giáo từ quan điểm triết học, hoặc qua
nhãn quan khách quan, cởi mở và điềm tĩnh của lý trí con người, thảo luận về giải
đáp của tôn giáo đối với các vấn đề quan trọng của nhân sinh, như sinh tử, thiện ác,
thưởng phạt, sướng khổ, v.v...; để xem ý nghĩa sứ mệnh và tâm nguyện của tôn
giáo trong cứu nhân độ thế; nghiên cứu về hiện tượng của tôn giáo; tư duy về khởi
nguyên của tôn giáo; phê phán sự phát triển của tôn giáo; quan sát và phân loại tôn
giáo; phân tích chức năng của tôn giáo; tìm hiểu tìm cảm của tôn giáo; nghiên cứu
bản chất và nhân tố của tôn giáo; khảo cứu các hoạt động và hành vi của nó”
(Tăng Ngưỡng Như, 1989, Triết học về tôn giáo, Sđd: 3).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luther J. Binkley (Mã Nguyên Đức dịch, 1986), Conflict of Ideals (Xung đột tư
tưởng), Thương vụ ấn thư quán.
2. Lã Đại Cát chủ biên (1989), Tôn giáo thông luận, Nxb. Khoa học xã hội Trung
Quốc.
3. John Hick (1988), Philosophy of Religion (Triết học về tôn giáo), bản dịch Trung
văn, Tam Liên thư điếm.
4. Hà Quang Hộ (2000), “Tiếng nói trăm năm của ngành tôn giáo học”, trong Tư
liệu báo chí Đại học Nhân dân Trung Quốc - Tôn giáo, số 3.
5. John Macquarrie (Cao Sư Ninh, Hà Quang Hộ dịch, 1988), Twentieth Century
Religious Thought (Tư tưởng tôn giáo thế kỷ XX), Nxb. Nhân dân Thượng Hải.
6. Tạ Phúc Nhã (1998), Triết học tôn giáo, Nxb. Nhân dân Sơn Đông.
7. Tăng Ngưỡng Như (1989), Triết học về tôn giáo, Nxb. Nhân dân Sơn Đông.
8. Lý Lan Phần (2000), “Giải thích lại về hàm nghĩa, tác dụng và mức độ của quy
phạm nghiên cứu tôn giáo học”, Đại học Sư phạm Hoa Đông, số 4.
9. Eric J. Sharpe (Lã Đại Cát, Hà Quang Hộ, Từ Đại Kiến dịch, 1988),
Comparative Religion: A history (Lịch sử tôn giáo học so sánh), Nxb. Nhân dân
Thượng Hải.
10. Leonard Swidler (1995), “Hướng tới Tuyên ngôn phổ quát toàn cầu” (bản dịch
Trung văn), Đông Phương, số 2.
Abstract
INTERPRETATION OF THE NATURE
OF RELIGION FROM PHILOSOPHY
Basing on the obscure homogeneity in the differences of religious
definitions, this article focused on re-discussing on significance and
method to interpret the nature of religion as well as two basic aspects of
religion from philosophy.
Keywords: Nature of religion, philosophy, religious definition.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26585_89301_1_pb_5737.pdf