Tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Hán và người Việt có một số
điểm giống nhau về hình thức thờ cúng, nhưng về tính chất thờ cúng của
hai tộc người lại khác nhau. Nguyên nhân của sự giống nhau là do sự
chỉnh hợp và người Việt chịu ảnh hưởng văn hóa dân gian của người Hán.
Còn nguyên nhân của sự khác nhau là do tầng sâu văn hóa mang tính
tượng trưng tín ngưỡng của hai tộc người khác nhau.
Thần Táo quân của người Hán ban đầu là vị Hỏa thần, Thái dương
thần dần hóa thân thành thần Táo quân, cuối cùng nhân cách hóa thành
một vị thần quan lại dưới thời phong kiến. Sự chuyển biến Táo quân
thành một vị thần mang tính xã hội có lẽ bắt đầu từ thời Tây Hán, đánh
dấu mức độ nhân cách hóa và chức năng xã hội của vị thần này lên một
cấp bậc cao hơn, từ một vị thần trông coi việc bếp núc trở thành vị thần
cai quản họa phúc, tuổi thọ của nhân gian, thậm chí trở thành vị Bồ tát -
một vị thần lưu truyền rộng rãi trong đời sống tín ngưỡng tôn giáo của
người dân Trung Quốc.
19 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 719 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tôn giáo - Nghiên cứu so sánh tín ngưỡng thờ táo quân của người việt ở Việt Nam và người hán ở Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
98 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
TRẦN HẠNH NGUYÊN (*)
NGHIÊN CỨU SO SÁNH TÍN NGƯỠNG THỜ TÁO QUÂN CỦA
NGƯỜI VIỆT Ở VIỆT NAM VÀ NGƯỜI HÁN Ở TRUNG QUỐC
Tóm tắt: Tín ngưỡng dân gian của người Việt ở Việt Nam và người
Hán ở Trung Quốc đều coi Táo quân là vị thần cai quản việc bếp
núc và là một trong những vị thần quan trọng của hệ thống thần
bảo hộ gia đình, gồm Thổ công, Thổ địa, Tổ tiên. Thần Táo quân
có nguồn gốc từ thời Cổ đại ở Trung Quốc. Khi truyền sang Việt
Nam, người Việt đã tiếp nhận và cải biên tín ngưỡng thờ thần Táo
quân cho phù hợp với phong tục tập quán của mình, nhưng vẫn
bảo lưu nhiều yếu tố thờ cúng, lễ vật, chức năng xã hội của người
Hán. Bài viết này thông qua việc nghiên cứu so sánh tín ngưỡng
thờ thần Táo quân của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ và người
Hán ở Trung Quốc để làm rõ chức năng xã hội và các yếu tố giống
nhau, khác nhau của loại hình tín ngưỡng này của hai tộc người
Việt - Hán.
Từ khóa: tín ngưỡng thờ thần Táo quân, tín ngưỡng thờ thần Bếp,
người Việt ở Việt Nam, người Hán ở Trung Quốc.
1. Nguồn gốc tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Việt ở Việt
Nam và người Hán ở Trung Quốc
Người Việt ngoài gọi tên thần Táo quân theo âm Hán Việt, còn gọi
theo tên Nôm là thần Bếp, và sau này, do thờ cùng với thần Thổ địa nên
được gọi chung là thần Thổ công. Người Hán có nhiều cách gọi tên thần
Táo quân như Táo quân, Táo thần, Táo vương, Táo vương gia, Táo công,
Táo mẫu, Đông trù Tư mệnh, Bản gia Tư mệnh, Trủng hỏa Lão mẫu
Nguyên quân, v.v
Táo quân là một vị thần có lịch sử lâu đời và lai lịch hiển hách trong
văn hóa tín ngưỡng truyền thống Trung Quốc. Trong lịch sử Trung Quốc,
từ thời Tiên Tần đến thời Minh Thanh, việc cúng tế thần Táo quân được
coi là một lễ tế quan trọng của triều đình phong kiến. Các thư tịch cổ của
*. Giảng viên, Đại học Tây Bắc, tỉnh Sơn La.
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 99
99
Trung Quốc có nhiều ghi chép về phong tục tế thần Táo quân. Ví dụ, Tư
Mã Thiên trong Sử ký - Vũ đế bản ký ghi: “Thiên tử sử thân tư táo”, nghĩa
là Thiên tử đích thân chủ tế Táo quân. Sách Hán thư viết: “Đại phu tế
môn, hộ, tỉnh, táo, trung lưu ngũ tế”(1), nghĩa là Đại phu đảm trách năm
loại lễ tế: Môn thần, Hộ thần, Tỉnh thần (thần Giếng), Táo thần (thần Bếp)
và Trung lưu thần. Sách Bạch hổ thông - Ngũ tế của Trần Lập, đời Thanh
giải thích: “Ngũ tế giả, hà vị dã? Vị môn, hộ, tỉnh, táo, trung lưu dã. Sở dĩ
tế hà? Nhân chi sở xứ xuất nhập, sở ẩm thực, cố vi thần nhi tế chi”(2),
nghĩa là Ngũ tế bao gồm lễ tế Môn thần, Hộ thần, Tỉnh thần, Táo thần,
Trung lưu thần. Vì sao phải cúng tế các vị thần này? Vì đi lại, ăn uống có
liên quan mật thiết với cuộc sống của con người. Thờ phụng các vị thần
đó để luôn được phù hộ bình an, may mắn trong cuộc sống.
Ở Trung Quốc lưu truyền nhiều ghi chép khác nhau về nguồn gốc của
thần Táo quân. Thời Tần Hán, thần Táo quân được coi là hiện thân hoặc
hậu duệ của các bậc đế vương thời Cổ đại của Trung Quốc như Hoàng Đế,
Viêm Đế, Chúc Dung,v.v Sách Sự vật nguyên hội viết: “Hoàng Đế tác
táo, từ vi Táo thần”(3), nghĩa là Hoàng Đế tạo ra bếp đun, sau khi mất, được
phong là thần Táo quân. Sách Hoài Nam tử - Phàm luận biên viết: “Viêm
Đế tác hỏa nhi tử vi táo”(4), nghĩa là Viêm Đế tạo ra lửa, nên sau khi mất
được phong làm Táo thần. Sách Chu lễ thuyết viết: “Chuyên Húc thị hữu
tử viết Lê, vi Chúc Dung, tế dĩ vi táo thần”(5), nghĩa là Chuyên Húc có con
là Lê, còn gọi là Chúc Dung, được thờ phụng như thần Táo quân.
Một số văn tịch cổ Trung Quốc cho rằng, thần Táo quân Chúc Dung là
một cụ bà phúc hậu. Sách Thái Bình ngự lãm quyển 59 dẫn sách Ngũ
Kinh dị nghĩa viết: “Táo thần Chúc Dung, thị lão phụ”, nghĩa là thần Táo
quân Chúc Dung là một cụ bà. Trịnh Huyền thời Hán chú thích rằng:
“Vương vi quần tính lập thất tế, viết táo, chủ ẩm thực dã, táo thần
Chúc Dung thị lão phụ”(6), nghĩa là vua lập ra thất tế cho dân chúng,
thần Táo quân chủ quản việc ăn uống, Táo thần là một cụ bà tên là Chúc
Dung. Theo sách Lễ khí: “Táo giả, thị lão phu nhân chi tế”(7), nghĩa là (tế)
thần Táo quân, là lễ tế một cụ bà.
Về sau, thần Táo quân từng bước được thế tục hóa, trở thành một nhân
thần có tên tuổi lai lịch và có dung mạo xinh đẹp như mỹ nữ. Thần cũng
có vợ con và cuộc sống gia đình bình thường. Trong sách Ngũ Kinh dị
nghĩa, Hứa Thận thời Đông Hán ghi: “Táo thần, tính Tô danh Cát Lợi,
phụ tính Vương danh Bác Giáp”(8), nghĩa là thần Táo quân, họ Tô tên là
100 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
100
Cát Lợi; vợ thần họ Vương, tên là Bác Giáp. Sách Hậu Hán thư - Âm
thức truyện trích dẫn sách Tạp ngũ hành thư viết: “Táo thần danh Thiềm,
tự Tử Quách, y hoàng y”(9), nghĩa là thần Táo quân tên là Thiềm, tự là Tử
Quách, mặc y phục màu vàng. Đời Đường, Đoạn Thành Thí trong sách
Tây Dương tạp trở - Nhược Cao ký thượng viết: “Táo thần danh Ngỗi,
trang như mỹ nữ, hựu tính Trương, danh Đơn, tự Tử Quách, phu nhân tự
Kị Khanh, hữu lục nữ giai danh Tế Hiệp”(10), nghĩa là thần Táo quân tên
là Ngỗi, bề ngoài trông như mỹ nữ. Thần họ Trương, tên là Đơn, tự là Tử
Quách; vợ thần tên là Kị Khanh. Vợ chồng thần có 6 con gái, đều tên là
Tế Hiệp.
Như vậy, theo ghi chép trong các thư tịch cổ của Trung Quốc, ban đầu
thần Táo quân là hiện thân của những vị thần nửa người nửa thú, là
những người đầu tiên biết sử dụng lửa hoặc phát minh ra bếp đun nấu. Họ
là một dạng biến thân của thần Ánh sáng và thần Lửa trong tín ngưỡng
nguyên thủy. Sự ra đời của tín ngưỡng thờ cúng thần Táo quân đã phản
ánh chân thực quá trình tín ngưỡng sùng bái tự nhiên hòa nhập vào không
gian sinh hoạt đời thường của con người thời Cổ đại. Về sau, thần Táo
quân dần biến thành một lão bà phúc hậu, chuyên quản việc bếp núc theo
quan niệm dân gian về thiên chức nấu ăn và chăm sóc gia đình của người
phụ nữ Trung Quốc. Cuối cùng, với việc cúng tế trở thành một phong tục
lưu truyền ngày càng rộng rãi trong dân gian, thần Táo quân trở thành
một vị nam thần có dung mạo xinh đẹp như mỹ nữ và có gia đình vợ con.
Tồn tại song song với những ghi chép trong thư tịch cổ, một số vùng
khác nhau ở Trung Quốc lại lưu truyền những câu chuyện về nguồn gốc
Táo thần với nội dung hết sức phong phú.
Vùng Phúc Châu lưu truyền câu chuyện về một người tên là Trương
Định Phúc, gia cảnh bần hàn, nhưng lại lười biếng, ham mê cờ bạc đến
mức khuynh gia bại sản, phải bán cả vợ. Người vợ vẫn thương xót chồng,
thường giấu giếm cho ăn. Về sau, Trương Định Phúc xấu hổ vô cùng,
đâm đầu vào bếp lò chết. Sau khi chết, Thượng Đế cho anh ta làm Táo
thần(11).
Vùng Sơn Đông lại lưu truyền câu chuyện: trước kia, một gia đình họ
Trương có hai vợ chồng già sống cùng con trai tên là Trương Lang và con
dâu tên là Đinh Hương. Trương Lang không thích làm ruộng, bỏ ra ngoài
đi buôn. Đinh Hương ở nhà một mình trồng cấy, gánh vác công việc nhà
chồng và chăm sóc cha mẹ chồng. Cuộc sống của nàng vô cùng vất vả.
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 101
101
Sau 5 năm biền biệt bặt vô âm tín, vừa về đến nhà, Trương Lang đuổi
Đinh Hương và lấy một người phụ nữ lẳng lơ về làm vợ. Đinh Hương
không nơi nương tựa được một bà lão đưa về nuôi, về sau trở thành con
dâu của bà và có cuộc sống viên mãn. Một năm nọ, gia đình Trương Lang
gặp phải đám cháy lớn, tài sản bị thiêu rụi, người vợ sau cũng bị thiêu
chết. Trương Lang bị thiêu mù đôi mắt, không còn cách nào đành lưu lạc
xin ăn ngoài đường. Một hôm, Trương Lang đến nhà Đinh Hương xin ăn.
Nàng không chỉ mang cơm ngon canh ngọt ra mời, mà còn tặng thêm
vàng bạc cho chồng cũ. Về sau, Trương Lang biết được người phụ nữ hảo
tâm chính là vợ cũ của mình, trong lòng hối hận, xấu hổ vô cùng, bèn
đâm đầu vào bếp lửa và bị chết cháy trong đó. Vì Trương Lang có họ
hàng với Ngọc Hoàng Thượng Đế, nên được Ngọc Hoàng phong cho làm
Táo vương(12).
Cư dân hai bên bờ sông Trường Giang cũng lưu truyền câu chuyện về
vị Táo vương bạc tình như sau: Ngày trước, có một chàng trai con phú
gia tên là Lý Hồi Tâm. Vợ anh ta tên là Vương Huệ Mẫn, vốn là con gái
một gia đình làm ruộng. Hai vợ chồng lấy nhau đã lâu mà không có con,
có bà mối gần nhà đã làm mối cho Lý Hồi Tâm lấy cháu gái mình làm vợ
lẽ. Không lâu sau, Lý Hồi Tâm nghe lời xúi giục của vợ bé đuổi Vương
Huệ Mẫn ra khỏi nhà. Vương Huệ Mẫn vô cùng đau khổ, bỏ đến một nơi
hoang vắng, tự khai hoang lập ấp. Nàng còn chiêu mộ, giúp đỡ thêm
nhiều người dân nghèo lang thang cơ nhỡ đến an cư lạc nghiệp ở đó. Mọi
người đồng cam cộng khổ, chăm chỉ lao động, xây dựng vùng đất hoang
vu ngày nào thành một trang ấp trù mật, giàu có. Mọi người trong ấp đều
nhất trí tôn Vương Huệ Mẫn làm thủ lĩnh. Còn về Lý Hồi Tâm, từ khi
đuổi vợ cả đi, hằng ngày ăn uống chơi bời với vợ lẽ. Vài năm sau, gia sản
ông cha để lại đã bị tiêu tán hết. Người vợ kế vốn lười làm ham chơi,
thấy chồng trở nên nghèo khó, đã vội vã đi lấy người khác. Lý Hồi Tâm
đành phải đi xin ăn để duy trì cuộc sống. Một hôm, anh ta đến xin ăn
đúng nhà Vương Huệ Mẫn. Mọi người trong nhà tiếp đón anh ta ân cần
tử tế. Về sau, nhận ra chủ nhà chính là người vợ cũ đã bị mình đuổi đi,
anh ta xấu hổ và hối hận vô cùng, bèn đâm đầu vào bếp lò chết cháy.
Vương Huệ Mẫn cũng qua đời ít lâu sau đó vì quá thương xót chồng.
Ngọc Hoàng Thượng Đế cho rằng Lý Hồi Tâm dũng cảm nhận sai, bèn
phong làm Táo thần; Vương Huệ Mẫn thông minh hiền thục được phong
làm Táo Vương Bà Bà(13).
102 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
102
Vùng Hồ Nam lưu truyền một câu chuyện dân gian về lai lịch của tục
cúng tế thần Táo quân như sau: Con gái út của Ngọc Hoàng Thượng Đế
là một cô gái hiền hậu đức độ, biết cảm thông và thương xót người nghèo
khó. Nàng yêu một chàng trai nghèo chuyên đi đốt bếp thuê dưới hạ giới.
Ngọc Hoàng biết được cảm thấy vô cùng phiền não, bèn đuổi nàng xuống
trần gian, chịu tội cùng chàng trai nghèo đốt than. Tây Vương Mẫu
thương con gái, bèn xin Ngọc Hoàng phong cho chàng trai chức Táo
vương. Từ đó, con gái út của Ngọc Hoàng cũng được làm Táo Vương Bà
Bà. Thấu hiểu sự nghèo khổ và thiếu thốn dưới trần gian, nên Táo Vương
Bà Bà thường lấy cớ về Thiên đình thăm cha mẹ đẻ, nhân tiện thấy có
của ngon vật lạ đều để dành mang về trần gian chia cho mọi người. Ngọc
Hoàng phát hiện ra chuyện này vô cùng giận dữ, bèn hạ lệnh chỉ cho
phép con gái và con rể mỗi năm về thăm Thiên đình một lần vào ngày 23
tháng Chạp. Táo Vương Bà Bà lại tranh thủ chuẩn bị những thực phẩm
như đậu phụ, thịt, gà, mỳ, rượu, bánh; nấn ná từ ngày 24 tháng Chạp đến
tối ngày 30 mới rời khỏi Thiên đình, đến tận canh 5 ngày mùng 1 mới về
đến trần gian. Vì vậy, trong đêm 30 tháng Chạp, mọi người thường ngồi
quanh bếp lửa, thắp hương, đốt vàng mã và đốt pháo để đón Táo Vương
Bà Bà về trần gian(14).
Những câu chuyện dân gian Trung Quốc về sự tích thần Táo quân có
nội dung phong phú, vừa ca tụng công đức, lại vừa châm biếm đả kích
thần. Qua đó, có thể thấy được tình cảm và thái độ của người dân với
thần Táo quân. Vì chuyên quản việc bếp núc, ăn uống, là “Nhất gia chi
chủ”, nên mọi người hết sức kính trọng và cảm ơn ân đức của thần. Tuy
nhiên, thần lại có trách nhiệm giám sát tội trạng, thiện ác của cả gia đình
trong một năm, để đến cuối năm “Thượng thiên bạch nhân tội”, nên mọi
người cũng hết sức nể sợ thần, từ sợ sinh ra ghét, nên xuất hiện các câu
chuyện trào lộng để châm biếm, đả kích Táo thần.
Còn ở Việt Nam lại lưu truyền câu chuyện dân gian gây xúc động lòng
người về nguồn gốc thần Táo quân như sau: Ngày xưa, có hai vợ chồng
nghèo khổ. Một năm nọ, Trời làm mất mùa, người chồng phải đi làm ăn
xa, đã nhiều năm trôi qua mà không thấy về. Người vợ để tang chồng rồi
nối duyên với một người đã cưu mang nàng. Một hôm, trong khi người
chồng mới đi vắng thì người chồng cũ sau bao năm bặt tin bỗng trở về.
Người vợ chỉ còn biết ôm người chồng cũ khóc than rồi đem cơm rượu
cho ăn. Rồi để tránh tiếng, người vợ bảo người chồng cũ ra đống rơm núp
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 103
103
tạm. Người chồng mới về vào bếp lấy tro bón ruộng không có, bèn ra đốt
đống rơm, vô tình giết chết người chồng cũ. Thấy người chồng cũ chết
oan trong đống rơm, người vợ thương xót quá bèn nhảy vào lửa cùng
chết. Người chồng mới thấy vậy, tuy không hiểu đầu đuôi, nhưng vì
thương vợ cũng nhảy vào lửa chết theo. Trời thấy ba người sống đầy tình
nghĩa bèn phong cho cả ba cùng làm Vua Bếp (Táo quân, ông Táo, do
vậy mà bếp có ba ông đầu rau) để được gần nhau mãi mãi và để lửa luôn
đốt nóng tình yêu của họ(15). Tuy dân gian còn lưu truyền nhiều dị bản
khác biệt một vài chi tiết nhỏ, nhưng nhìn chung, nội dung chính yếu vẫn
như câu chuyện nêu trên.
2. Chức năng xã hội của thần Táo quân
Thời Tiên Tần, thần Táo quân chỉ phụ trách việc ăn uống của mỗi gia
đình. Sách Thích danh - Thích cung thất viết: “Táo, tạo dã, sáng tạo thực
vật dã”(16), nghĩa là Táo thần là người tạo ra thức ăn. Còn theo sách Hán
thư - Ngũ hành chí: “Táo giả, sinh dưỡng chi bản”(17), nghĩa là Táo quân
là cái gốc của việc dinh dưỡng. Như vậy, có thể thấy, thời Tần Hán,
người ta coi Táo quân là vị thần chuyên quản lý chuyện ăn uống.
Sách Hậu Hán thư - Âm thức truyện ghi: “Âm Tử Phương, thời Tuyên
Đế, sống rất hiếu thảo, nhân đức. Vào buổi sáng sớm, ngày lạp nhật, ông
nhóm lửa ở bếp lên thì nhìn thấy Táo thần hiện thân. Âm Tử Phương vô
cùng kính cẩn lễ bái thần. Ông còn mổ thịt cả con dê vàng duy nhất trong
nhà làm lễ cúng Táo thần. Từ đó về sau, Táo thần phù hộ gia đình ông gặp
nhiều may mắn trong cuộc sống. Về già, ông có hơn 700 mẫu ruộng với vô
số gia súc, gia cầm và nô lệ. Người ta nói của cải của Âm Tử Phương giàu
có sánh ngang với các bậc đế vương. Vậy mà, ngày thường Âm Tử
Phương vẫn thường nói: “Sau này, con cháu ta còn hiển hách hơn ta”.
Thực vậy, đến tận ba đời sau, con cháu ông vẫn giàu sang phú quý, nhiều
người được làm quan to trong triều. Tiếng lành đồn xa, từ đó về sau, nhiều
gia đình học theo ông giết dê vàng làm lễ cúng tế thần Táo quân vào ngày
23 tháng Chạp”(18). Như vậy, đến đời Hán, chức vị của thần Táo quân đã
được mở rộng phụ trách tài vận và công danh của con người.
Sang đời Tấn, thần Táo quân phụ trách việc tăng giảm tuổi thọ của
con người dựa trên những hành vi thiện ác của họ, ghi chép tội lỗi của
con người và theo định kỳ bẩm báo lên Thiên giới. Sách Hoài Nam vạn
tốt thuật viết: “Táo thần hải nhật quy thiên, bạch nhân tội”(19), nghĩa là
thần Táo quân về Trời vào các ngày nguyệt hải để bẩm báo với Thiên
104 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
104
đình tội trạng của con người. Cát Hồng, thời Đông Tấn, trong sách Bão
Phác tử nội biên - Vi chỉ cũng viết: “Nguyệt hải chi dạ, Táo thần diệc
thượng thiên bạch nhân tội trạng. Đại giả đoạt kỷ. Kỷ giả tam bách nhật
dã. Tiểu giả đoạt toán. Toán giả, tam nhật dã”(20), nghĩa là vào đêm cuối
tháng, thần Táo quân lên chầu Trời để bẩm báo với Ngọc Hoàng về tội
trạng của con người dưới hạ giới. Ai phạm tội nặng thì sẽ bị trừ đi 300
ngày tuổi thọ, ai phạm tội nhẹ sẽ bị trừ đi 3 ngày tuổi thọ. Như vậy,
đương thời, Táo thần cuối mỗi tháng đều lên Trời bẩm báo với thần Tư
mệnh về tội lỗi của con người. Thần Tư mệnh sẽ căn cứ vào những báo
cáo của Táo thần về tội trạng con người để trừ đi tuổi thọ của họ, tội nhỏ
trừ 3 ngày, tội lớn trừ 300 ngày. Quyền năng của Táo thần từ chỗ chỉ
chuyên quản lý ăn uống trong một gia đình biến thành quản lý chuyện
sinh tử phúc họa trong nhà, lúc nào cũng có thể ghi chép lại công tội,
thiện ác của con người.
Từ đời Đường đến đời Thanh, Đạo giáo phát triển hưng thịnh, thần
quyền của Táo quân càng trở nên rộng rãi, trở thành vị thần vạn năng cai
quản và trông nom mọi sự trong dân gian. Năm Tuyên Thống triều Thanh,
Trùng Thuyên trong cuốn Táo Vương phủ quân chân kinh viết: “Táo
vương gia tư đông trù nhất gia chi chủ, nhất gia nhân phàm tác sự khán
đích phân minh. Thùy tác thiện thùy tác ác quan sát hư thực. Mỗi nguyệt
lý tam thập nhất tấu báo thiên đình”(21), nghĩa là Táo thần là thần cai quản
nhà bếp, là “Nhất gia chi chủ”; nhìn rõ mọi việc làm của các thành viên
trong gia đình, quan sát, phân biệt rõ những việc làm thiện ác của họ.
Vào ngày 30 hằng tháng, Táo thần đều lên Thiên đình để bẩm báo lại
những điều mắt thấy tai nghe.
Táo thần của người Việt là một hệ thống “Tam vị nhất thể”. Trong bộ
ba đó, Thổ công trông nom việc trong bếp, Thổ địa trông coi việc trong
nhà, Thổ kỳ là phụ nữ nên đảm nhiệm trông coi việc chợ búa. Người Việt
cũng phong ba vị thần Táo quân thành “Nhất gia chi chủ”, có nhiệm vụ
trông coi nhà cửa, kỵ tà tránh quỷ, và ngày 23 tháng Chạp hằng năm báo
cáo lại mọi chuyện khách quan với Ngọc Hoàng Thượng Đế, nhằm định
đoạt phúc họa gia đình trong năm mới. Người Việt không có cách nói hối
lộ Táo quân. Dân gian cho rằng, bởi vì ba vị Táo quân sinh tiền trọng tình
trọng nghĩa, sau khi hóa thành thần linh có thể phù hộ cho gia đình bình
an hạnh phúc, tránh được bệnh tật, nên nhận được sự sùng bái và thờ
cúng của người đời. Táo quân ghi lại một cách khách quan các chuyện tốt
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 105
105
xấu ở trần thế, chức trách này là việc của thần thánh, mà Ngọc Hoàng
Thượng Đế sẽ căn cứ vào báo cáo của Táo thần để định ra họa phúc cho
các gia đình. Lễ cúng tế Táo thần vì thế trở nên vừa nghiêm trang vừa
thần thánh. Đồng thời, niềm tin này làm cho người ta thường xuyên nhắc
nhở mình làm việc gì cũng phải phù hợp với quy phạm đạo đức và nhân
tình thế thái, nhằm bảo vệ phúc lộc của cả gia đình. Điều này thể hiện
quan niệm thẩm mỹ nội tại và xu hướng giá trị của người Việt Nam.
3. Hình tượng thần Táo quân
Từ rất sớm, các thư tịch cổ của Trung Quốc đã ghi chép về hình tượng
của thần Táo quân. Trong sách Trang Tử - Đạt Sinh, Tư Mã Bưu viết:
“Táo thần, trác xích y, trang như mỹ nữ”(22), nghĩa là Táo thần mặc áo đỏ,
trông như mỹ nữ xinh đẹp. Lý Hiền trong sách Hậu Hán thư - Âm Thức
truyện đã chú dẫn sách Tạp ngũ hành thư viết: “Y hoàng y, dạ bị phát
tòng táo trung xuất”(23), nghĩa là (Táo thần) mặc áo vàng, giữa đêm xuất
hiện giữa bếp, v.v... Những ghi chép này khác với hình dạng của thần
Táo quân trong các bức tranh mộc bản lưu truyền rộng rãi trong dân gian
ngày nay.
Các bức tranh này thường có các màu vàng, xanh lục, đen, đỏ, với các
kích cỡ khác nhau, trong đó hình tượng thần Táo quân thường có hai kiểu.
Một là, hình tượng “Táo thần mặt to”, tức là khuôn mặt của thần thường
không được tô màu và vẽ to hơn hẳn các chi tiết khác trong tranh. Hai là,
hình tượng “Táo thần mang châu báu”, tức là trên người thần thường vẽ
thêm nhiều thỏi vàng, thỏi bạc hay các xâu tiền. Ngoài ra, trong các bức
tranh hoặc bức tượng thờ, thần Táo quân hiếm khi xuất hiện một mình,
mà thường xuất hiện cùng với Táo Vương Bà Bà, hay hình tượng Phật Bà
Quan Âm, Tài thần, Môn thần, Thổ địa, Lâm Tuyền đồng tử, Thất Cô
phu nhân, v.v... Những bức tranh thờ này thường vẽ Táo thần ngồi uy
nghiêm ở vị trí trung tâm, bên cạnh có Táo Vương Bà Bà và các thị vệ.
Thần Táo quân được vẽ như một vị quan dưới thời phong kiến, mặt đen,
râu dài, đầu đội mũ kim quan, thân mặc triều phục. Táo Vương Bà Bà là
một phụ nữ xinh đẹp, phúc hậu, ăn mặc sang trọng. Phía trước bức tranh
có các loại vật nuôi trong nhà như gà, chó, chậu tích tiền, cây treo tiền.
Phía bên trên bức tranh vẽ Nam Thiên Môn. Một số bức tranh còn vẽ
thêm hình Bát tiên, Chiêu tài đồng tử, Lợi thị tiên quan, v.v... Ngày trước,
phía trên tranh thờ Táo thần ở Trung Quốc thường in thêm bảng 24 tiết
khí trong lịch âm để tiện cho nông dân tính toán thời vụ, xem thời tiết.
106 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
106
Trong dân gian Trung Quốc còn lưu truyền một dạng tranh thờ Táo
thần chia làm ba phần: phần trên cùng vẽ Quan Âm tống tử ngồi trên đài
sen, tay bế một bé sơ sinh hồng hào, mập mạp; phần giữa vẽ Trương Táo
quân và phu nhân lần lượt ngồi hai bên phải trái; phần dưới vẽ hình Tài
thần tay giữ chậu tích tiền; ngoài ra còn có bát tiên lần lượt đứng hai bên.
Tại chùa Nam Sơn, thành phố Côn Minh, Trung Quốc, người ta đặt
pho tượng Tài thần bằng sứ với hình dáng giống như tượng Di Lặc cùng
với bài vị của thần là Bồ tát Vi Na La Vương trong góc bếp, thờ cúng với
các nghi lễ như với thần Táo quân. Trong các gia đình cũng thường thờ
tượng vợ chồng thần Táo quân là tượng hai cụ già mặc trang phục sang
trọng, dung mạo hiền từ phúc hậu, nụ cười hiền hòa trên khuôn mặt. Hình
tượng này phù hợp với hướng phát triển nhân cách hóa của Táo thần của
người Hán, gần với thế giới hiện thực của nhân dân, là thế giới quỷ thần
được phản ánh trong hiện thực.
Còn ở Việt Nam, Táo thần thường được thờ với hình tượng hai nam
một nữ. Người Việt thường dùng ba cái mũ giấy (hoặc một cái) và ba cái
bài vị (hoặc một cái) tượng trưng cho ba vị thần linh. Hằng năm, vào lúc
tế lễ Táo quân đều phải đốt cái cũ và thay cái mới vào. Hai cái mũ nam
để vào hai bên, hai bên mũ có cánh chuồn hơi vểnh lên, mũ nữ không có
hai cánh đặt ở giữa. Nếu chỉ dâng cúng một cái mũ thì đó là của Thổ
công. Mỗi cái mũ còn kèm theo một bộ quần áo và một đôi giày, dưới mũ
đặt thêm tiền giấy. Tiền giấy cũng thường có năm màu, tượng trưng cho
ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Trên bài vị của ba vị thần này viết:
Thổ công chủ quản nhà bếp, Thổ địa chủ quản các sự việc trong nhà, Thổ
kỳ chủ quản chuyện chợ búa và vườn rau. Nếu chỉ dâng lên một cái bài vị,
tức là “Tam vị nhất thể”, thì trên bài vị có dòng chữ Hán Việt như sau:
“Định phúc Táo quân”, hoặc “Bản gia Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần
quân”, hay “Bản gia Thổ địa Long mạch Tôn thần”, hoặc “Bản gia Ngũ
phương Ngũ thổ Phúc đức Chính thần”. Điều này phản ánh quan niệm
của người Việt coi Táo thần là “Nhất gia chi chủ”. Mỗi gia đình đều phải
thờ cúng Táo thần của gia đình mình, vì thế phía trước các dòng chữ Hán
Việt trên bài vị thờ thần Táo quân đều phải có chữ “Bản gia”.
4. Địa điểm cúng tế thần Táo quân
Người Hán ở các vùng nông thôn Trung Quốc thờ cúng thần Táo quân
ở góc nhà bếp, thường ở trên bệ bếp đun. Bàn thờ thần đơn giản, có gia
đình tận dụng không gian bên cạnh bếp đun làm nơi đặt bài vị, bát hương;
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 107
107
có gia đình mua khám thờ nhỏ giống như khám thờ thần Tài, bên trong
khám thờ có bài vị viết chữ Hán trên mặt kính hoặc gỗ; có gia đình thì
bài vị viết trên mảnh gỗ để thờ; có gia đình thì treo bàn thờ thần Bếp trên
vách tường bếp, v.v...
Với người Việt thì không có tục thờ thần Bếp ở góc bếp mà phổ biến
là có một ban thờ riêng, gọi là ban thờ Thổ công. Ban thờ Thổ công cũng
rất đa dạng, phổ biến là dùng mặt tủ để làm ban thờ, hoặc dùng mảnh gỗ
treo lên trên vách tường hoặc dùng khung tre làm khám thờ (giống như
ngôi nhà nhỏ). Vị trí thờ thần Táo quân thường đặt ở phía đầu hồi phía
tây của ngôi nhà. Vì theo kinh nghiệm của dân gian “Đông phòng Tây
táo”, có nghĩa là buồng ngủ thì làm bên hướng đông, thờ thần Táo quân
thì ở hướng tây. Trên ban thờ đều có bát hương và các đồ thờ khác. Hiện
nay, nhà ở của người Việt đang chuyển dần từ nhà gỗ sang nhà kiên cố
xây tường bằng gạch, nhà mái bằng, nhà tầng, nên nhiều gia đình thay
đổi vị trí thờ Thổ công. Họ thường thờ thần Táo quân tại ban thờ Tổ tiên
ở gian chính giữa ngôi nhà; bát hương thần Thổ công luôn đặt ở bên trái
(phía Tây), ở giữa và hơi cao lên một chút là ban thờ Bà cô tổ của gia
đình, bát hương bên phải là thờ Tổ tiên. Với gia đình mới ra ở riêng, họ
chỉ lập một ban thờ Thổ công ở trên mặt tủ ở gian chính giữa ngôi nhà và
ban thờ Bà cô tổ trong gia đình thì đặt trên ngàm cửa buồng phía Đông
của ngôi nhà.
Ngoài ra còn một điểm khác biệt là hình thức trang trí ở nơi thờ thần
Táo quân của người Việt ở Việt Nam và người Hán ở Trung Quốc. Bởi vì,
câu đối được dán ở địa điểm thờ cúng thần Táo quân phản ánh niềm tin
tôn giáo của mỗi tộc người. Người Hán thường chọn câu đối “Thượng
thiên ngôn hảo sự/ Hạ giới bảo bình an”, nghĩa là lên Trời nói lại những
việc tốt lành/ Dưới hạ giới bảo hộ gia đình được bình yên. Như vậy, nội
dung câu đối này đã thể hiện sự mưu lợi của mỗi cá nhân, gia đình của
người Hán đối với thần Táo quân. Trái lại, người Việt trước đây cũng có
tục dán câu đối vào dịp Tết ở hai bên ban thờ thần Táo quân, với nội
dung “Hữu đức năng tư hỏa/ Vô tư khả đạt thiên”, nghĩa là sự đức độ của
thần có thể điều khiển được lửa/ Sự vô tư của thần thấu lên tận trời cao.
Câu đối này thể hiện thái độ sùng kính của người Việt với sự đức độ và
sự vô tư của thần Táo quân.
5. Nghi thức cúng tế thần Táo quân
Tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Hán và người Việt đều có
108 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
108
đặc điểm chung là tính lợi ích, tức mưu cầu thần ban phát cho một vấn đề
nào đó được sở nguyện như ý. Song từ việc linh thiêng hóa đến thế tục
hóa thần Táo quân của người Hán và người Việt dẫn đến ý thức văn hóa
và tập tục thờ cúng vị thần này có sự khác nhau giữa hai tộc người.
Người Hán tin rằng, Ngọc Hoàng phái thần Táo quân đến ngự ở trong
bếp mỗi gia đình để giám sát mọi hành vi của con người, đến dịp cuối
năm lên Thiên đình bẩm báo lại với Ngọc Hoàng để định họa phúc, thọ
mệnh cho con người. Để tránh tai họa cho gia đình, người Hán đã hiện
thực hóa đời sống tâm linh theo tư duy “Trần sao Thần vậy”, coi thần
Táo quân là vị quan lại thời phong kiến thường nhận tiền hối lộ, nên họ
cũng hối lộ để thần che chở cho gia đình những điều xấu không tấu lên để
Ngọc Hoàng tiếp tục ban thưởng phúc lành cho gia đình. Vì vậy, hằng
ngày trước khi nấu ăn, người Hán thường thắp hương lên ban thời thần
Táo quân, thi thoảng đặt lên trước ban thờ thần một ít hoa quả, bánh kẹo
hoặc các thỏi vàng bạc bằng giấy. Thời xưa, ngoài dâng hoa quả, người
Hán còn cúng cả đồ mặn cho thần Táo quân. Nhưng đến thời nhà Thanh,
họ chỉ cúng hoa quả và đồ chay. Hiện nay, họ chỉ cúng 1 - 3 chiếc bánh
kẹo hay củ lạc, một quả táo, quả lê hoặc quả chuối cho thần mà thôi. Như
vậy, lễ vật dâng cúng cho thần Táo quân của người Hán đã có sự thay đổi
từ đa dạng đến đơn giản. Thông qua lễ vật dâng cúng, chúng ta cũng thấy
rõ nguồn gốc cúng thần Táo quân của người Hán ban đầu của Đạo giáo.
Nhưng sang đến nhà Thanh và cho đến hiện nay, đã có sự hòa trộn yếu tố
Phật giáo vào trong loại hình tín ngưỡng dân gian. Cụ thể, thần Táo quân
đã trở thành vị Bồ tát và dâng cúng đồ chay, đồ ngọt (chủ yếu là đường
phèn và bánh kẹo), đồ mặn (muối trắng) cho thần, nhằm hạn chế việc sát
sinh để tạo nghiệp phúc và mong thần nói những lời ngọt ngào hay mặn
mà với Ngọc Hoàng giống như lễ vật dâng cúng. Ngoài ra, nhiều gia đình
người Hán ở vùng nông thôn còn dâng cúng thêm lạc, đậu phụ, gạo, tiền
vàng, bạc, với mong muốn thần phù hộ cho gia đình được ấm no, mùa
màng bội thu; dâng cúng cỏ ngọt cho ngựa của thần Táo quân ăn, v.v...
Trong các ngày lễ liên quan đến thần Táo quân trong năm, thì ngày 23
tháng Chạp là quan trọng nhất và cũng dâng cúng nhiều lễ vật nhất. Sau
lễ cúng, các gia đình đốt các thỏi vàng bạc làm bằng giấy màu; đốt hình
nhân hay bài vị của thần và đến chiều tối ngày 30 Tết (có nơi sáng mùng
5 Tết) thì dán bài vị hay đặt tượng thần Táo quân mới để thờ, vì mỗi năm
có một vị thần Táo quân xuống trần gian trông coi. Tập tục thờ cúng và lễ
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 109
109
vật dâng cúng cho thần Táo quân của người Hán hiện nay thể hiện rõ
nhận thức tôn giáo của họ đã có sự thay đổi từ thần linh hóa đến thế tục
hóa và bao hàm văn hóa Đạo giáo, Phật giáo và tín ngưỡng dân gian,
trong đó tính dân gian nổi trội.
Với người Việt, thần Táo quân chiếm vị trí rất cao trong hệ thống thần
linh bảo hộ gia đình. Mỗi khi trong nhà có người chuẩn bị đi làm ăn xa
hay khi trở về nhà, vào ngày rằm và mùng một hằng tháng, các ngày lễ
tết hay các việc đại sự (sinh đẻ, cưới xin, tang ma, giỗ chạp,...), người
Việt đều thắp hương và cúng xôi, thịt, rượu hoặc hoa quả cho thần Táo
quân để nhận sự bảo hộ của thần với các thành viên trong gia đình. Lễ vật
dâng cúng tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình. Ngày sóc
vọng hằng tháng, phổ biến cúng chay (hoa quả, trầu cau, tiền vàng, bánh
kẹo), ngày lễ tết có thêm đồ cúng mặn (rượu, cơm nếp, gà, chân giò). Đối
với người Việt, thần Táo quân không phải là vị quan thời phong kiến
thích ăn hối lộ, nên họ không nói hối lộ thần Táo quân, mà luôn nói thắp
hương dâng cúng thần.
Ngày 23 tháp Chạp hằng năm, người Việt cũng thường tổ chức lễ
cúng thần Táo quân về Trời. Đây được coi là ngày lễ quan trọng nhất
trong năm. Vào ngày này, ngoài các lễ vật thường gặp như hoa quả, xôi
thịt, trầu cau, mỗi gia đình đều phải chuẩn bị ba bộ mũ áo, bài vị và tiền
vàng. Khoảng vài chục năm gần đây, tục thờ thần Táo quân của người
Việt ở khu vực thành thị, ngoài lễ vật truyền thống nêu trên, còn cúng cá
chép (có gia đình cúng ba con cá chép làm bằng giấy trang kim) cho các
thần làm phương tiện lên Trời bẩm báo tình hình cuộc sống ở hạ giới để
Ngọc Hoàng phán xét. Theo lệ tục vào dịp đầu xuân, ngày lễ hạ cây nêu
cũng là ngày thỉnh thần Táo quân tới nhà để thờ cúng. Nhưng ngày nay,
đại bộ phận gia đình thỉnh mời thần Táo quân vào nhà ngay sau lễ cúng
giao thừa. Bời vì, họ quan niệm, trong ba ngày Tết, trên bàn thờ Tổ tiên
đèn hương luôn thắp cháy, mùi hương lan tỏa khắp nơi, ma quỷ, cô hồn
ngửi thấy thường lui tới mang lại các điều không may cho gia đình. Cho
nên, họ muốn thỉnh thần Táo quân vào thờ trong nhà ngay từ ngày đầu
năm mới để ma quỷ nào có vào nhà thì đã có thần Táo quân trông giữ. Có
thể thấy, lễ cúng tiễn thần Táo quân lên Trời và thỉnh mời thần trở lại của
mỗi gia đình, địa phương có nhiều điểm không giống nhau là do phong
tục tập quán của mỗi vùng miền.
Thần Táo quân đã từng chiếm vị trí quan trọng nhất trong hệ thống
110 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
110
thần linh bảo hộ gia đình của người Hán và người Việt. Tập tục thờ cúng
vị thần này có từ đời Hán và được lưu truyền rộng rãi đến nay cũng đã
gần 2.000 năm ở hai nước Trung - Việt. Nhưng hiện nay, tín ngưỡng thờ
thần Táo quân của người Hán ở Trung Quốc và người Việt ở Việt Nam
đã có sự thay đổi ít nhiều như đã trình bày. Song, với người Việt ở Việt
Nam, thần Táo quân vẫn được coi là một trong những vị thần bảo hộ gia
đình quan trọng, hầu như nhà nào cũng có ban thờ thần Thổ công và địa
vị của thần chỉ xếp sau thần Tổ tiên. “Mặc dù địa vị đứng sau, nhưng
quyền lực lại to nhất, là đệ nhất gia chi chủ”(24). Mỗi lần gia đình có giỗ
đều phải mời thần Thổ công trước, xin phép thần cho phép Tổ tiên được
trở về nhà hưởng thụ lễ cúng. Như vậy, có thể thấy, trong khi thần Táo
quân của người Hán trải qua quá trình từ hưng thịng đến suy vi, thì trái
lại, thần Táo quân của người Việt vẫn giữ được địa vị khá cao trong hệ
thống thần linh bảo hộ gia đình.
6. Nguyên nhân của sự giống nhau và khác nhau trong tín ngưỡng
thờ thần Táo quân giữa người Hán ở Trung Quốc và người Việt ở
Việt Nam
Tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Hán và người Việt có một số
điểm giống nhau về hình thức thờ cúng, nhưng về tính chất thờ cúng của
hai tộc người lại khác nhau. Nguyên nhân của sự giống nhau là do sự
chỉnh hợp và người Việt chịu ảnh hưởng văn hóa dân gian của người Hán.
Còn nguyên nhân của sự khác nhau là do tầng sâu văn hóa mang tính
tượng trưng tín ngưỡng của hai tộc người khác nhau.
Thần Táo quân của người Hán ban đầu là vị Hỏa thần, Thái dương
thần dần hóa thân thành thần Táo quân, cuối cùng nhân cách hóa thành
một vị thần quan lại dưới thời phong kiến. Sự chuyển biến Táo quân
thành một vị thần mang tính xã hội có lẽ bắt đầu từ thời Tây Hán, đánh
dấu mức độ nhân cách hóa và chức năng xã hội của vị thần này lên một
cấp bậc cao hơn, từ một vị thần trông coi việc bếp núc trở thành vị thần
cai quản họa phúc, tuổi thọ của nhân gian, thậm chí trở thành vị Bồ tát -
một vị thần lưu truyền rộng rãi trong đời sống tín ngưỡng tôn giáo của
người dân Trung Quốc.
Tín ngưỡng thờ cúng thần Táo quân của người Việt chịu ảnh hưởng
của người Hán từ thời Tống. Nét chung của tập tục này là bài vị của thần
Táo quân được viết bằng chữ Hán. Tuy nhiên, người Việt tiếp thu tín
ngưỡng thờ Táo quân có chọn lọc và cải biên cho phù hợp: hư cấu truyền
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 111
111
thuyết về thần Táo quân, từ độc thần là nam thần của người Hán thành
tam vị thần có cả nam lẫn nữ của người Việt. Đây có thể được coi là bản
sắc văn hóa của người Việt: “Hòa đồng chứ không hòa tan”.
Ngày nay, văn hóa bếp của người Việt đã có nhiều thay đổi, từ ba ông
đầu rau đun bằng rơm rạ, chuyển sang bếp kiềng sắt đun bằng củi, bếp lò
đun bằng than và bếp đun bằng ga. Tuy loại hình có thay đổi, nhưng chức
năng của bếp và đời sống văn hóa tinh thần liên quan đến bếp thì vẫn tồn
tại trong cuộc sống hiện đại. Tín ngưỡng thờ thần Táo quân không chỉ có
ở Trung Quốc, Việt Nam, mà còn có ở nhiều quốc gia Nam Á. Điều này
cho thấy, trước khi tập tục thờ thần Táo quân của người Hán ảnh hưởng
đến khu vực Bách Việt, có thể ở đây đã có những truyền thuyết tương
ứng với hình tượng vị thần này và được ẩn sâu trong hệ thống tín ngưỡng
thờ đa thần của người Việt.
Chúng tôi cho rằng, ban đầu sự sùng bái đối với bếp lửa có ba ông đầu
rau chính là tầng sâu tính biểu tượng và nội hàm văn hóa của tín ngưỡng
thờ cúng thần Thổ công kiểu “Tam vị nhất thể” của người Việt, đã tồn tại
trước khi tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Hán truyền sang. Hình
thái tín ngưỡng cổ truyền đó là sự kế thừa từ thời xa xưa của các bậc tiền
nhân và lưu truyền cho đến tận ngày nay. Dựa trên các chứng cứ khảo cổ
học, Trần Quốc Vượng đã chứng minh: cách đây gần 10.000 năm, chủ
nhân của văn hóa Hòa Bình đã sử dụng bếp lửa có ba ông đầu rau. Các di
chỉ thời đồ sắt của Việt Nam ở Đường Mai (Hà Nội), Nội Cầm (Bắc Ninh)
đã phát hiện ra những chiếc bếp có ba ông đầu rau được chế tạo bằng
gốm đất nung dường như không khác biệt nhiều so với ngày nay(25).
Nhưng dưới góc độ Dân tộc học, tín ngưỡng thờ thần Táo quân của
người Việt có từ thời viễn cổ, chứ không phải như luận cứ của Trần Quốc
Vượng đưa ra dựa trên cứ liệu khảo cổ học là từ tục thờ thần Đá chuyển
sang tín ngưỡng thờ thần Táo quân. Sùng bái đá có nguồn gốc lâu đời ở
khu vực Đông Nam Á. Sự sùng bái này có liên quan đến lửa, vì đá có thể
tạo ra lửa. Nhưng hiện tượng ba hòn đá tạo thành chỉnh thể của “Tam vị
nhất thể” lại là tượng trưng của đống lửa và có quan hệ mật thiết với sùng
bái đá từ thời xa xưa. Bếp lửa bao hàm nội hàm văn hóa và tích lũy lịch
sử một cách sâu sắc, từ chức năng đơn thuần là chiếu sáng, sưởi ấm, nấu
ăn đến hình thành một tín ngưỡng vừa mang nội dung văn hóa xã hội vừa
là nơi để người và thần giao tiếp với nhau. Đồng thời, bếp lửa cũng là
tượng trưng của gia đình với nhiều chức năng khác nhau. Bếp lửa, có thể
112 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
112
nói, là một trong những điểm khởi đầu cho cuộc sống tinh thần của mỗi
dân tộc.
Người Việt ngày nay sùng bái Thổ công chính là sự kế thừa tập tục
thờ cúng thần Lửa, thần Bếp trước đây, là sự tri ân của con người với bếp
lửa. Trong quá trình diễn biến từ sùng bái bếp lửa đến tín ngưỡng thờ
thần Táo quân của người Việt là một quá trình xã hội hóa và sự tiếp thu
văn hóa Hán của người Việt cho thấy rõ, người Việt tiếp nhận văn hóa
ngoại lai có tính sàng lọc, sau đó cải biên thành cái riêng của dân tộc
mình. Đáng nói là, tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Việt bắt
nguồn từ việc sùng bái bếp lửa có ba ông đầu rau của con người thời Cổ
đại. Nhưng vì sự khác nhau của môi trường xã hội, lịch sử, địa lý..., nên
người Hán và người Việt đã lựa chọn những phương thức khác nhau để
thờ thần Táo quân. Tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Việt bảo lưu
được nhiều yếu tố tượng trưng và nội hàm văn hóa của việc sùng bái lửa
và bếp lửa. Ngược lại, tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Hán lại
có những biến dị tương đối lớn, mất đi nội hàm văn hóa cổ và mang
nhiều tượng trưng của xã hội thế tục, thậm chí còn đưa cả yếu tố văn hóa
Phật giáo vào trong bếp lửa, đó là việc nhân cách hóa thần Táo quân trở
thành vị Bồ tát.
Một vấn đề khác cần được lý giải là vì sao người Việt lại có sự chuyển
hóa từ thần Táo quân thành Thổ công? Theo chúng tôi, điều này do mấy
nguyên nhân sau đây. Trước tiên là tính quan trọng và chức vụ của thần
Táo quân không ngừng được mở rộng và đề cao trong gia đình người
Việt. Ban đầu, thần Táo quân của người Việt chuyên quản lý lửa, trông
coi việc bếp núc liên quan đến sinh kế trong gia đình. Khi tiếp nhận văn
hóa Hán, thần Táo quân của người Việt có thêm chức vụ quán xuyến, báo
cáo những việc tốt xấu của con người dưới trần gian để Ngọc Hoàng định
họa phúc cho mỗi gia đình.
Thứ hai, tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Việt có chịu ảnh
hưởng của phong cách và quan niệm tín ngưỡng thờ Thổ địa của dân gian
Trung Quốc, vì từ thời Đường Tống, hình thái chính trị quan phương của
xã hội phong kiến đã thâm nhập vào trong mỗi gia đình. Để thích ứng với
hình thái này, tín ngưỡng thờ Thổ địa cũng bắt đầu thay đổi cho phù hợp,
nên sự phân công trách nhiệm, quản lý của thần Thổ địa cũng rõ ràng hơn.
Ngoài ra, xã hội ở thời Đường đã có những thay đổi về quan hệ kinh tế.
Sang thời Tống, các quan phủ phong kiến chủ trương cho dân gian phát
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 113
113
triển thần Thổ địa theo xu hướng tự nhiên. Cho nên, chức năng, nhiệm vụ,
quyền uy và phép thuật của thần Thổ địa không ngừng được nâng cao.
Chính sự thay đổi về nhận thức và phương thức sùng bái thần Thổ địa
của người Hán, người Việt đã kết hợp với quan niệm về gia đình được
hình thành trong bối cảnh văn hóa nông nghiệp và ý thức sùng bái thần
Thổ địa để từ đó tiến hành chỉnh hợp lần thứ nhất với tín ngưỡng dân
gian người Việt. Quan niệm “đất có Thổ công, sông có Hà bá” đã ăn sâu
vào đầu óc của người Việt. Mặt khác, chức năng, nhiệm vụ, quyền uy của
ba vị thần Táo quân tương đương với chức năng của thần Thổ địa bảo hộ
trong mỗi gia đình, nên người Việt đã hợp nhất ba vị thần này thành một
thần Thổ công. Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Sở dĩ Thổ công vừa là thần
Thổ địa vừa là Táo thần là bởi vì đất đai, nhà và bếp đối với các dân cư
định canh định cư là đồng nhất, địa vị của chúng đều hết sức quan
trọng”(26).
Táo thần chịu ảnh hưởng của Thổ địa thần và sự xuất hiện của Thổ địa
thần trong gia đình là ý thức sùng bái đất đai của con người được phản
ánh trong không gian cư trú. Trong bối cảnh văn hóa nông nghiệp truyền
thống của người Việt, thần Táo quân ngầm hàm chứa ý thức sùng bái đất
đai của con người hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Ý thức này cực kỳ
thâm căn cố đế, dẫn đến thần Thổ công trong phạm vi gia đình đã kiêm
chức của cả Táo thần và Thổ địa thần và trở thành vị thần quan trọng của
người Việt. Việc thờ cúng Thổ công vì thế cũng thường xuyên được tiến
hành song song với việc thờ cúng Tổ tiên. Thổ công cũng giống như Tổ
tiên có khuynh hướng huyết thống hóa và gia đình hóa. Thần Thổ công
và thần Tổ tiên trong các gia đình đều cùng nhau chủ trì sinh lão bệnh tử,
phát đạt hay suy vong của gia đình, cùng nhau giữ sự kéo dài của mối
quan hệ huyết duyên, địa duyên trong thời gian sinh tồn và không gian
sống của các gia đình.
7. Thay lời kết luận
Sự hình thành tín ngưỡng thờ thần Táo quân của người Việt ở Việt
Nam là quá trình chỉnh hợp văn hóa bản địa của người Việt và văn hóa
của người Hán. Trong quá trình này, văn hóa người Việt, đặc biệt là văn
hóa dân gian, hoàn toàn không tiếp thu phong tục văn hóa dân gian của
người Hán một cách thụ động. Hai đối tượng trên không phải quan hệ
cho nhận một cách giản đơn. Sự định hình của nó vẫn là một sự chỉnh
hợp thực hiện sau quá trình thẩm thấu, lựa chọn và tái cấu trúc của văn
114 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
114
hóa bản địa. Tín ngưỡng thờ thần Táo quân đã phản ánh một cách khá
điển hình tín ngưỡng dân gian người Việt và quy luật chủ yếu của sự hình
thành văn hóa Việt nam. Kỳ thực, tín ngưỡng dân gian nói riêng, văn hóa
dân gian nói chung là một vấn đề quan trọng trong nghiên cứu so sánh
quan hệ văn hóa hai nước Việt - Trung đáng được đi sâu nghiên cứu./.
CHÚ THÍCH:
1. Hán thư, Quyển nhị thập ngũ thượng Trịnh tư chí (tiếng Trung), Nxb. Trung
Hoa thư cục, 2006: 1194.
2. Trần Lập (1994), Bạch hổ thông sơ chứng (tiếng Trung), Nxb. Trung Hoa thư
cục, Bắc Kinh: 77.
3. Lý Phương (1960), Thái Bình ngự lãm, quyển 186 trích dẫn (tiếng Trung), Nxb.
Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh.
4. Cố Thiên dịch và chú giải (2009), Hoài Nam tử (tiếng Trung), Nxb. Trung Hoa
thư cục, Bắc Kinh: 171.
5. Vương Lợi Khí (1981), Phong tục thông nghĩa hiệu chú (tiếng Trung), Nxb.
Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh: 310.
6. Dẫn theo Dương Phúc Tuyền (1995), Dân tục Trung Hoa - Bếp và thần Bếp
(tiếng Trung), Nxb. Học Uyển, Bắc Kinh: 53.
7. Dương Phúc Tuyền (1995), Dân tục Trung Hoa - Bếp và thần Bếp (tiếng
Trung), sách đã dẫn: 54.
8. Dương Phúc Tuyền (1995), Dân tục Trung Hoa- Bếp và thần Bếp (tiếng
Trung), sách đã dẫn: 55.
9. Hậu Hán thư, quyển 32 Âm thức truyện (tiếng Trung), Nxb. Trung Hoa thư cục,
2006: 1133.
10. Dương Phúc Tuyền (1995), Dân tục Trung Hoa - Bếp và thần Bếp (tiếng
Trung), sách đã dẫn: 46.
11. Tuyển tập các câu chuyện dân gian Trung Quốc (tiếng Trung), Ban Biên tập
Văn học Dân gian Phúc Châu, 1989: 179.
12. Ngô Tử Tân (1957) “Lai lịch của thần Táo quân” (tiếng Trung), Tạp chí Văn
học Dân gian, số 12.
13. Hồ Học Minh, “Câu chuyện Táo thần”, trong Từ Hoa Long, Ngô Cúc Phấn
(1985), Các truyền thuyết phong tục dân gian Trung Quốc (tiếng Trung), Nxb.
Nhân dân Vân Nam.
14. Cát Tinh (1985), Truyện cổ tích Trung Quốc (tiếng Trung), Nxb. Văn nghệ Dân
gian Trung Quốc: 219 - 220.
15. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa Giáo dục: 139.
16. Dẫn theo Lý Hiện Hồng (2012), “Từ thời gian hình thành phong tục tế thần Bếp
nghiên cứu những biến đổi của văn hóa tín ngưỡng thần Bếp” (tiếng Trung),
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, số 2: 51.
17. Lý Hiện Hồng (2012) “Từ thời gian hình thành phong tục tế thần Bếp nghiên cứu
những biến đổi của văn hóa tín ngưỡng thần Bếp” (tiếng Trung), bài đã dẫn: 51.
Trần Hạnh Nguyên. Nghiên cứu so sánh 115
115
18. Hậu Hán thư, quyển 32 Âm thức truyện (tiếng Trung), Nxb. Trung Hoa thư cục,
2006: 1133.
19. Dương Phúc Tuyền (1995) Dân tục Trung Hoa - Bếp và thần Bếp (tiếng Trung),
sách đã dẫn: 57.
20. Cát Hồng (Cố Cửu dịch, 1995) Bao Phác tử nội biên toàn dịch (tiếng Trung),
Nxb. Nhân dân Quý Châu: 161.
21. Táo vương phủ quân chân kinh (tiếng Trung), khắc lại năm Tuyên Thống nhà
Thanh, bản lưu của Tuyên Hóa phủ, Trương Gia khẩu, ngõ Triều Dương: 3 - 4.
22. Phương Dũng (2008), Trang Tử giảng độc (tiếng Trung), Nxb. Đại học Sư
phạm Hoa Đông: 173.
23. Hậu Hán thư, quyển 32 Âm thức truyện (tiếng Trung), Nxb Trung Hoa thư cục,
2006: 1133.
24. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa Giáo dục: 139.
25. Trần Quốc Vượng (1976), Tết và phong tục Việt Nam, Nxb. Văn hóa: 59 - 60.
26. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Thành phố
Hồ Chí Minh: 283.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dư Hân (2005), “Khảo sát về tín ngưỡng thờ thần Bếp ở Đôn Hoàng” (tiếng
Trung), Tạp chí Đôn Hoàng học, số 3: 155-160.
2. Dương Phúc Tuyền (1995), Dân tục Trung Hoa - Bếp và thần Bếp (tiếng
Trung), Nxb. Học Uyển, Bắc Kinh.
3. Hà Tinh Lượng (1992), “Sơ lược về tín ngưỡng sùng bái lửa” (tiếng Trung),
Khoa học xã hội Nội Mông Cổ, số 1: 73 - 80.
4. Hoàng Vĩnh Phong (2006), “Sơ lược về tín ngưỡng thờ thần Bếp” (tiếng Trung),
Đạo giáo Trung Quốc, số 5: 34 - 37.
5. Lâm Kế Phúc (2006), “Nội hàm văn hóa và lịch sử của hình tượng thần Bếp”
(tiếng Trung), Báo Đại học Sư phạm Hoa Trung, số 1: 99 - 105.
6. Lý Hiện Hồng (2012) “Từ thời gian hình thành phong tục tế thần Bếp nghiên
cứu những biến đổi của văn hóa tín ngưỡng thần Bếp” (tiếng Trung), Tạp chí
Nghiên cứu Dân tộc, số 2: 50 - 60.
7. Tào Diễm Hồng (2003), “Sơ lược về tín ngưỡng thần Tư mệnh trong dân gian
xã hội cổ đại” (tiếng Trung), Báo Trường Cao đẳng Cao Minh, số1: 57 - 60.
8. Tào Diễm Hồng (2003), “Sơ lược về sùng bái thần Bếp trong tín ngưỡng dân
gian thời Tiên Tần, Lưỡng Hán” (tiếng Trung), Tạp chí Quản tử, số 3: 80 - 84.
9. Thiềm Thạch Sương, Trương Tú Phương (1994), “Thảo luận về lửa và hình
tượng thần Bếp” (tiếng Trung), Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, số 1: 81 - 92.
10. Từ Phương Vũ (2006), “Nghiên cứu so sánh tín ngưỡng thờ thần Bếp của người
Việt và người Hán” (tiếng Trung), Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3: 87 - 91.
11. Trương Hiểu Tĩnh (2010), “Lịch sử phát triển của phong tục thờ cúng thần Bếp
trong dân tục truyền thống của Trung Quốc” (tiếng Trung), Hoa Chương, số 18: 19.
116 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2014
116
Abstract
A COMPARATIVE STUDY ON THE WORSHIP OF
KITCHEN GOD OF VIETNAMESE IN VIETNAM AND OF
CHINESE IN CHINA
The folk belief of Vietnamese in Vietnam and of Chinese in China
regards kitchen god as deity who manages cooking. He is one of the
important deities protecting family. These deities are kitchen god, god of
soil and ancestors. The origin of kitchen god was in China in ancient
times. When the worship of kitchen god was spread to Vietnam, the
Vietnamese changed it to correspond with their custom, but they
observed the elements of worship and offerings to kitchen god of Chinese.
Through comparative study on the worship of kitchen god of Vietnamese
in the Northern delta and of Chinese in China, the writer would like to
bring out social function of kitchen god and the similar and different
elements of the worship of kitchen god in two countries - Vietnam and
China.
Key words: The worship of kitchen god, Vietnamese, Chinese,
Vietnam, China.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23758_79462_1_pb_6511.pdf