Những bức thư của Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn và các vị giám mục
cho thấy, giới Công giáo Miền Nam đang lo lắng một cuộc bách hại sắp
xảy ra. Điều này có thể bắt nguồn từ những lời đồn đại rằng cộng sản
bách hại tôn giáo vì chủ nghĩa vô thần. Tuy nhiên, việc chủ động hòa
giải, hòa hợp dân tộc, sẵn sàng cùng chính quyền cách mạng xây dựng
đất nước không phải do sợ bị bách hại, mà như đã trình bày, hàng giám
mục Việt Nam đã có những bước chuẩn bị khá lâu dài và chu đáo. Trong
Thông cáo chung ngày 20/12/1975 hay Thư chung 1976 của Hội nghị
Giám mục Miền Nam đều nói rõ, Công giáo là thành phần của cộng đồng
dân tộc, hòa mình vào cuộc sống của đồng bào, cùng chung nỗi vui
mừng, niềm hy vọng và nỗi âu lo của toàn dân; giữa đức tin Kitô giáo và
chủ nghĩa Mác - Lênin tuy có xung khắc, nhưng không vì thế mà không
thể không có đối thoại và cộng tác chân thành giữa những ai cùng phục
vụ con người trong xứ mạng cá nhân và xã hội
16 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 707 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tôn giáo - Quá trình hình thành đường hướng “sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc đồng bào” của hội đồng giám mục Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 – 2014 35
NGUYỄN NGỌC PHÚC(*)
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG HƯỚNG
“SỐNG PHÚC ÂM GIỮA LÒNG DÂN TỘC ĐỂ PHỤC VỤ
HẠNH PHÚC ĐỒNG BÀO” CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
VIỆT NAM
Tóm tắt: “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc
đồng bào” là đường hướng mục vụ của Hội đồng Giáo mục Việt
Nam đề ra trong Thư chung 1980, thể hiện sự hợp tác của Hội
đồng Giám mục Việt Nam với Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, trên
thực tế, đường hướng này được người Công giáo Việt Nam thực
hiện khá lâu trước năm 1980. Bài viết này sẽ góp phần tìm hiểu về
vấn đề đó.
Từ khóa: Thư chung 1980, Hội đồng Giám mục Việt Nam, Công
giáo Việt Nam, Công đồng Vatican II.
1. Dẫn nhập
Đường hướng sống Phúc âm giữa lòng dân tộc được hàng giám mục
Công giáo Việt Nam thực hiện từ khá lâu trước khi khẳng định trong Thư
chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Muốn sống Phúc âm
giữa lòng dân tộc, tín đồ Công giáo phải đồng hành cùng dân tộc. Giám
mục Bùi Tuần đã giải thích về sự đồng hành cùng dân tộc của người
Công giáo Việt Nam như sau: “Đồng hành ở đây là sự có mặt trong đời
sống đồng bào, là một sự đối thoại thân tình giữa ta với Cha và với Dân
tộc (...). Trên con đường cuộc sống hôm nay, tôi thấy dân tộc tôi đang lo
phát triển về nhiều mặt, tôi nhìn sang Chúa Kitô, hỏi Người xem tôi phải
làm gì cho chương trình phát triển ấy. Và qua Phúc âm, Chúa trả lời tôi
rằng: Trước đây và bây giờ, Cha vẫn ưu tiên cho việc đào tạo môn đệ,
xây dựng con người, để những con người được đào tạo tốt sẽ có thể tự
phát triển mình và xã hội mình. Cha muốn con và cộng đoàn của con hãy
bắt chước Cha như vậy, để những người tốt sẽ là những đốm sáng Tin
* ThS., Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Vĩnh Thạnh, Thành phố Cần Thơ.
36 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014
mừng được nhân lên mãi, làm nền tảng vững chắc cho mọi sự phát
triển”1.
Đường hướng mục vụ “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ
hạnh phúc đồng bào” được đề ra trong Thư chung 1980 như một lời
khẳng định cho sự đồng hành cùng dân tộc của Hội đồng Giám mục Việc
Nam. Để hình thành được đường hướng mục vụ nêu trên, trước 1980,
hàng giám mục Công giáo Việt Nam đã từng bước có sự thay đổi từ quan
điểm đến hành động.
2. Tác động của yếu tố khách quan đến đường hướng hoạt động
của Công giáo ở Việt Nam từ 1945 đến 1975
Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức lãnh đạo
đất nước. Mặc dù sau năm 1945, Chính phủ lâm thời của Chủ tịch Hồ Chí
Minh tỏ rõ quan điểm tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhưng xem ra chừng đó
chưa đủ để tránh một cuộc đối đầu giữa người Công giáo với Đảng Cộng
sản Việt Nam. Dưới đây là một số yếu tố dẫn đến cuộc đối đầu này.
1.1. Ảnh hưởng từ Tòa Thánh Vatican
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ II kết thúc, hệ thống xã hội chủ
nghĩa được thiết lập trên phạm vi thế giới, Tòa Thánh Vatican đã lo ngại
về sự lớn mạnh của chủ nghĩa cộng sản. Lập trường chống cộng của Tòa
Thánh Vatican được khẳng định rất rõ trong Sắc chỉ Divini Redemptoris
do Giáo hoàng Pio XI ban hành năm 1937, trong đó có đoạn: “Chủ nghĩa
cộng sản hiện nay che phủ một ý tưởng giải thoát sai lầm hơn bất cứ
phong trào nào trong lịch sử. Toàn cục học thuyết đó nung nấu một lý
trưởng sai lầm về chính nghĩa, về công bằng và tình bác ái cộng với một
thứ chủ nghĩa thần bí nào đó. Bằng những lời hứa hão huyền, nó chinh
phục quần chúng, lôi cuốn họ vào những phong trào nhiệt huyết bằng
lòng hăng hái nhiệt tâm”2. Giáo hoàng Pio XII đã tiếp nối quan điểm nêu
trên, và cho rằng, cộng sản là sự đe dọa lớn lao nhất của thời đại đối với
Dân Chúa và nhân loại. Vì thế, vị Giáo hoàng này đã lái Giáo hội Công
giáo về các quốc gia dân chủ Phương Tây, đồng thời tìm cách kêu gọi
giáo dân thế giới chống lại cộng sản.
Cuộc chiến tranh ở Việt Nam từ 1945 đến 1975 là thời kỳ trị vì của ba
vị Giáo hoàng. “Dưới thời Giáo hoàng Pio XII không thể có sự thỏa hiệp,
bắt tay với chủ nghĩa cộng sản. Từ sau Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Nguyễn Ngọc Phúc. Quá trình hình thành đường hướng 37
37
được thành lập tháng 10 năm 1949, Tòa Thánh công khai ủng hộ Pháp,
chống lại Chính phủ Hồ Chí Minh. Tháng 7 năm đó, Giáo hoàng Pio XII
ban hành sắc chỉ nhắc lại nội dung cơ bản của Sắc chỉ Divini Redemptoris
cấm người Công giáo Việt Nam hợp tác với những người cộng sản. Chủ
nghĩa cộng sản là duy vật chống lại Đức Kitô. Cả khi những nhà lãnh đạo
cộng sản trên lời nói đảm bảo rằng, họ không chống tôn giáo, thì bằng
học thuyết và hành động của họ cũng cho thấy, họ là kẻ thù của Chúa, kẻ
thù của tôn giáo chân chính và Giáo hội Đức Kitô”3. Tòa Thánh Vatican
huấn thị cho Công giáo thế giới “tuyệt đối ngăn ngừa mọi dân tộc khỏi bị
tiêm nhiễm tà thuyết cộng sản lầm lạc và nguy hại, phải giải phóng dân
chúng khỏi ách nô lệ của một thứ lý thuyết đang đặt ra mục đích buộc
sinh hoạt của con người vào sự khoái lạc của thế giới hiện đại... Ta vui
lòng nhắc lại ở đây lời ta đã nói với Hội đồng các Hồng y và Giáo chủ
trong bài diễn văn ta đọc năm 1942 nhân dịp Lễ Giáng sinh: Giáo hội đã
lên án nhiều môn phái khác nhau thuộc chủ nghĩa mác xít. Giáo hội còn
duy trì mãi bản án ấy, vì nhiệm vụ và quyền lợi vĩnh viễn của Giáo hội là
phải chặn đón những dòng nước mãnh liệt của những ảnh hưởng tai hại
đang đẩy nhân loại đến nguy đốn phần rỗi...”4.
Trên tinh thần ủng hộ nhiệt thành huấn thị nêu trên, các giám mục
Đông Dương ra Thư chung 1951 để loan báo về vấn nạn cộng sản vô thần
duy vật. Thư chung cho rằng: “Chủ nghĩa cộng sản xung khắc tuyệt đối
với Công giáo đến nỗi Đức Thánh Cha đã tuyên bố rằng, không bao giờ
có thể vừa theo cộng sản vừa theo Công giáo và người Công giáo nào gia
nhập cộng sản thì ngay lập tức bị khai trừ ra khỏi Giáo hội. Chẳng những
không được gia nhập Đảng Cộng sản, mà lại anh em không thể cộng tác
bất kỳ dưới hình thức nào có thể giúp họ nắm chính quyền Anh em hãy
kháng cự ngay từ đầu, đừng để mình bị lường gạt bởi mật ngọt cộng sản
hãy trung thành với Thiên Chúa, hãy thức tỉnh, can đảm và vững tâm
trong đức tin”5.
Trong Thư chung 1960, các giám mục Miền Nam cũng bày tỏ thái độ
bất hợp tác với Đảng Cộng sản. Họ cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin và
học thuyết Công giáo hoàn toàn xung khắc nhau. Thư chung này cấm
người Công giáo gia nhập hay ủng hộ Đảng Cộng sản dưới bất kỳ hình
thức nào.
Tóm lại, lập trường của Tòa Thánh Vatican dưới thời Giáo hoàng Pio
XII đã ảnh hưởng đáng kể đến hàng giám mục Công giáo Việt Nam khi
38 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014
đó. Bởi vì, phần lớn người đứng đầu Hội đồng Giám mục Việt Nam
đương thời là thừa sai Châu Âu. Một số chức sắc Công giáo Việt Nam
khi ấy mặc dầu có tinh thần dân tộc, nhưng vì chịu ảnh hưởng của việc
thổi phồng sự đối trọng giữa vô thần và hữu thần đã bất hợp tác với
Chính phủ Hồ Chí Minh6.
1.2. Ảnh hưởng từ việc thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta và
sự can thiệp của đế quốc Mỹ
Ngay khi quay lại xâm lược Miền Nam, thực dân Pháp đã chuẩn bị
những cánh tay đắc lực phục vụ cho công việc này. Công giáo là một
trong những đối tượng giúp thực dân Pháp thực hiện mục tiêu trên. Jean
LeRo là một trong những người tiêu biểu cho việc huy động và thành lập
các lực lượng vũ trang Công giáo. Đến tháng 7/1947, Jean LeRo thành
lập được ba Chiến đoàn Lưu động Công giáo (Unites Mobiles de Défense
des Chrétiens, viết tắt là UMDC). UMDC mang khẩu hiệu “vì Chúa và
Tổ quốc”. “Vì Chúa” thì đã rõ, vì lực lượng này được thành lập để bảo vệ
Công giáo. “Vì Tổ quốc” đôi khi bị hiểu nhầm. Thực ra, “Tổ quốc” ở đây
là nước Pháp chứ không phải là Việt Nam. Lực lượng UMDC ngày càng
lớn mạnh. Trong mấy năm kế tiếp, lực lượng này được tổ chức thành 88
đơn vị, mỗi đơi vị có 71 người, tổng số là 6.200 người. Đồng thời, dưới
ảnh hưởng sự bài xích cộng sản của Tòa Thánh Vatican, Tòa Tổng Giám
mục Sài Gòn đã ủng hộ việc thành lập Đảng Dân chủ Công giáo. Cả
UMDC và Đảng Dân chủ Công giáo đều là những lực lượng phụ trợ cho
quân Pháp. Hơn nữa, vào tháng 2/1950, Tòa Thánh Vatican công nhận
chính quyền Bảo Đại do thực dân Pháp dựng lên. Khâm sứ John Dooley,
người có lập trường chống cộng cực đoan được cử sang thay thế Tổng
Giám mục Antoni Drapier. Ở Miền Bắc, Phong trào Quốc gia Tự vệ hình
thành từ khi được Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến trao quyền tự trị cho
toàn quận Kim Sơn với 150.000 dân, Khu an toàn Phát Diệm được thành
lập. Lực lượng tự vệ Công giáo Bùi Chu - Phát Diệm trở thành công cụ
cho thực dân Pháp. Sau Hiệp định Giơnevơ, Tòa Thánh Vatican là quốc
gia đầu tiên trên thế giới ủng hộ chính quyền Ngô Đình Diệm. “Tuy
không chủ động nhưng Tòa Thánh Vatican đã thờ ơ và tạo điều kiện cho
một số vị hàng giám mục Công giáo tại Việt Nam đứng ra vận động,
cưỡng ép người Công giáo di cư vào Nam. Theo Trần Tam Tỉnh năm
1952, Tòa Thánh có chỉ thị cho phép các giáo sư thần học và chủng sinh
di cư trong trường hợp người Pháp thất bại7.
Nguyễn Ngọc Phúc. Quá trình hình thành đường hướng 39
39
Như vậy, trong giai đoạn 1945 - 1975, ảnh hưởng của Tòa Thánh
Vatican và Thư chung các năm 1951 và 1960 làm người Công giáo Việt
Nam phân hóa thành ba bộ phận rõ rệt. Một bộ phận bị thực dân Pháp lợi
dụng, lôi kéo khiến họ quên dần và xa rời cuộc kháng chiến của dân tộc,
thậm chí giúp đỡ tích cực quân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, trở thành
lực lượng đối đầu gay gắt với Đảng Cộng sản Việt Nam. Một bộ phận ý
thức được vai trò và trách nhiệm trong công cuộc chống ngoại xâm, giác
ngộ tinh thần cách mạng, nên đã sát cánh cùng Đảng Cộng sản Việt Nam
kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Một bộ phận lo trau dồi đức tin, đứng
ngoài thời cuộc, thái độ chính trị trung lập.
2. Sự chuyển hướng hành đạo của Hội đồng Giám mục Việt Nam
trước 1980
2.1. Một vài yếu tố tác động đến sự chuyển hướng hành đạo của
Hội đồng Giám mục Việt Nam
2.1.1. Tác động từ phong trào yêu nước của đồng bào Công giáo
Việt Nam
Một trong những chức sắc Công giáo có tinh thần yêu nước sâu sắc,
góp phần không nhỏ trong việc giúp giáo dân đến với cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc là Linh mục Phạm Bá Trực. Khi Cách mạng tháng
Tám thành công, ông hăng hái tham gia phong trào cách mạng và đi giải
thích cho đồng bào Công giáo chính sách đoàn kết lương giáo và tự do tín
ngưỡng của Chính phủ Việt Nam. Linh mục vinh dự được bầu làm đại
biểu Quốc hội khóa đầu tiên năm 1946. Uy tín ngày càng được khẳng
định hơn khi ông được bầu vào Ban Thường trực Quốc hội vào tháng
11/1946. Cũng trong năm này, ông còn là một trong những người sáng
lập ra Hội Liên Việt và là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương của Hội8.
Từ 1951 đến 1954, với uy tín của một nhà tu hành, một đại biểu Quốc
hội, một thành viên của Hội Liên Việt, Linh mục Phạm Bá Trực tiếp tục
tích cực vận động, giải thích cho đồng bào Công giáo hiểu rõ chính sách
tự do tín ngưỡng tôn giáo của Chính phủ Việt Nam; về những âm mưu
của Mỹ - Diệm nhằm chia rẽ đoàn kết lương giáo9. Bên cạnh đó, nhiều cá
nhân, tổ chức Công giáo yêu nước kháng chiến chống thực dân Pháp
(1946 - 1954) dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam hay theo
phong trào yêu nước tự do, trong đó không thể không nhắc đến các
trường hợp như Giáo sư Bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng, Giám đốc Nha
Thông tin Chính phủ Lâm thời, Ủy viên Thường vụ Quốc hội; Luật sư
40 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014
Thái Văn Lung ở Sài gòn; Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, Giám đốc Sở Tài
chính Nam Bộ, Chủ tịch Công giáo Cứu quốc Nam Bộ; Trần Công
Chính, Bí thư Công giáo Cứu quốc Trung ương; Ngô Tử Hạ, Bộ trưởng
Bộ Thương binh10.
Ở Nam Bộ, cuộc kháng chiến chống Pháp của đồng bào Công giáo
cũng diễn ra sôi nổi. Ngày 18/5/1946, tại Sài Gòn, một cơ quan lãnh đạo
phong trào yêu nước của người Công giáo được tổ chức xây dựng với 81
giáo dân và linh mục. Ngày 15/8/1948, Hội Công giáo Kháng chiến Nam
Bộ được thành lập do Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh làm Hội trưởng. Dưới
sự điều hành của Ban Chấp hành Công giáo Kháng chiến Nam Bộ, Ban
Chấp hành Công giáo các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá,
Long Châu Hà, Long Châu Sa, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Bến Tre, Long
An, Trà Vinh lần lượt ra đời. Công việc của Hội là vận động phong
trào yêu nước trong đồng bào Công giáo; tuyên truyền đường lối cách
mạng của Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Việt Minh; vận động tài vật,
lương thực, thuốc men ủng hộ kháng chiến; vận động thanh niên Công
giáo tòng quân giết giặc; xây dựng phát triển tổ chức hội, tổ chức các
cuộc hội thảo để đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái của kẻ thù
xâm lược11.
Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước bị chia cắt, với tinh thần
yêu nước sâu sắc các linh mục Hồ Thành Biên, Võ Thành Trinh, Trần
Quang Nghiêm, Lương Minh Ký, Nguyễn Hiếu Lễ mặc dù đã tập kết ra
Miền Bắc, nhưng vẫn liên lạc với đồng bào Công giáo yêu nước ở ba
miền để thành lập Ủy ban Liên lạc Công giáo. Họ tích cực tham gia hoạt
động cách mạng, thành lập Ủy ban Liên lạc Công giáo một số tỉnh, tham
gia Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, làm đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh, đại
biểu Quốc hội, tham gia Ủy ban Bảo vệ Hòa bình Thế giới của Việt Nam,
tham dự Hội nghị Hội đồng Kitô giáo Thế giới, qua đó góp phần tranh
thủ sự đồng tình ủng hộ của các tổ chức Kitô giáo thế giới đối với cuộc
kháng chiến giành độc lập của dân tộc Việt Nam12.
Tại miền tây Nam Bộ có “Thầy Năm” Nguyễn Văn Tú, một chiến sĩ
cách mạng người Công giáo được Đảng tin tưởng và giao nhiều trọng
trách, trong đó có việc vận động giáo dân ủng hộ phong trào chống Mỹ -
Ngụy. Linh mục Nguyễn Văng Luyến di cư từ Miền Bắc vào năm 1954
và được chính quyền Mỹ - Ngụy cho định cư ở dinh điền Cái Sắn, tham
gia cách mạng từ năm 1962. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Thạnh An, ông
Nguyễn Ngọc Phúc. Quá trình hình thành đường hướng 41
41
đã dùng nhà thờ làm nơi nuôi giấu, bảo vệ cán bộ cách mạng, đào hầm bí
mật dưới sàn nhà xứ, dành phòng cho tổ chức cán bộ hội họp, ăn nghỉ,
cung cấp lương thực, thuốc men cho cách mạng13.
Ở Sài Gòn, phong trào yêu nước của người Công giáo nổ ra dưới
nhiều hình thức như dùng ngòi bút để đấu tranh với sự ra đời của các tờ
báo Hành trình, Tin Mừng hôm nay, nhất là phong trào Thanh - Lao -
Công, có tác dụng giác ngộ người Công giáo đến với những vấn đề nóng
bỏng của dân tộc đương thời như chiến tranh xâm lược, áp bức bất công,
chia cắt đất nước. Ngoài ra, lực lượng Công giáo tiến bộ còn tiến hành
nhiều hoạt động với nội dung tìm về dân tộc, chống đàn áp sinh viên,
chống chế độ lao tù, Có thể nói, lực lượng Công giáo tiến bộ thời gian
này biết dựa vào những thay đổi của Giáo hội có lợi cho phong trào để
chọn hướng đi thích hợp cho hoàn cảnh Miền Nam, biết vận dụng sự ủng
hộ quốc tế, biết kết hợp với các tổ chức cách mạng, đoàn kết trong Mặt
trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Nhờ đó, phong trào đấu tranh của
đồng bào Công giáo yêu nước ngày càng mở rộng và lớn mạnh14.
Có thể thấy, phong trào yêu nước của người Công giáo nêu trên không
xuất phát từ chủ trương của Hội đồng Giám mục Việt Nam, mà từ tinh
thần yêu đất nước, tin tưởng vào chiến thắng của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Phong trào là chiếc cầu nối quan trọng để Hội đồng Giám mục Việt
Nam có cái nhìn khách quan hơn về Đảng Cộng sản Việt Nam. Phong
trào còn khơi lại truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết của nhân dân
Việt Nam qua nhiều thế kỷ, để rồi khi công cuộc thống nhất đất nước
được hoàn thành, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã nhanh chóng chuyển
hướng hành đạo.
2.1.2. Tác động từ Công đồng Vatican II
Tinh thần canh tân, hòa giải, thích nghi, đoàn kết, đối thoại,... của
Công đồng Vatican II (1962 - 1965) đã tác động mạnh mẽ đến sự chuyển
hướng hành đạo của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Sau Công đồng Vatican II, Tòa Thánh Vatican gần như đoạn tuyệt với
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Trong cuộc viếng thăm Châu Á, Giáo
hoàng Phaolô VI đã không ghé Việt Nam, một đất nước có tỷ lệ giáo dân
lớn. Hơn thế, Giáo hoàng Phaolô VI không tiếp Nguyễn Văn Thiệu, một
tín đồ Công giáo, khi vị Tổng thống Sài Gòn này đến diện kiến, nhưng lại
tiếp phái đoàn của bà Nguyễn Thị Bình đi thương thuyết Hiệp định Paris.
42 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014
Đặc biệt, từ năm 1968, Giáo hoàng Phaolô VI đã lập ra Ngày quốc tế hòa
bình, cổ vũ cho hòa bình bằng thương thuyết ở Việt Nam. Tòa Thánh
Vatican xác định chấm dứt chiến tranh, quan hệ tốt với Miền Bắc và
Chính phủ lâm thời Miền Nam. Từ đó, nhiều phong trào phản đối
Nguyễn Văn Thiệu nổ ra ở Miền Nam. Phong trào chống tham nhũng do
Linh mục Trần Hữu Thanh đứng đầu đã tạo ra một cuộc biểu tình rầm rộ,
rộng khắp thu hút hàng chục ngàn giáo dân tham gia. Nhóm do Linh mục
Trương Bá Cần lãnh đạo có cảm tình với chính quyền cách mạng đã lợi
dụng các buổi thuyết giảng tại nhà thờ để công khai tuyên truyền đường
hướng giải phóng dân tộc. Khi tổ chức đại hội, các tuyên úy Công giáo
rao giảng với giáo dân rằng, cộng sản cũng là con cái của Chúa, Công
giáo và cộng sản có thể sống chung hòa bình.
2.1.3. Tác động từ chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt
Nam
Ngay sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Tín
ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”. Trong thư gửi Liên đoàn Công giáo
và Nhà dục anh Thái Bình ngày 10/5/1946, Hồ Chủ tịch đã đưa ra
phương châm cho đồng bào Công giáo là “Phụng sự Tổ quốc, phụng sự
Chúa Trời”. Khi Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, ngày 14/6/1955, Hồ Chí
Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 234/SL về vấn đề tôn giáo. Điều 13 của
sắc lệnh này ghi rõ: “Riêng về Công giáo, quan hệ về tôn giáo giữa Giáo
hội Việt Nam và Tòa Thánh La Mã là vấn đề nội bộ của Công giáo”. Từ
đó, phần lớn giáo sĩ và đại bộ phận giáo dân ngày càng thêm tin tưởng
vào chính sách của Nhà nước Việt Nam.
Sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, ngày
11/11/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Nghị Quyết 297-CP về
một số chính sách đối với tôn giáo trong đó quy định: Nhà tu hành và
người chuyên hoạt động tôn giáo được tự do giảng đạo tại nơi thờ cúng
và trong các cơ quan tôn giáo. Khi truyền bá tôn giáo, ngoài việc giảng
giáo lý, họ còn có nhiệm vụ động viên tín đồ làm tốt nghĩa vụ công dân
và chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước; không được tuyên
truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa, chống chính quyền, chống chính
sách, pháp luật của Nhà nước, không được tuyên truyền chia rẽ đoàn kết
dân tộc, tôn giáo, tuyên truyền mê tín dị đoan.
2.2. Sự chuyển hướng của hàng giám mục Việt Nam
Nguyễn Ngọc Phúc. Quá trình hình thành đường hướng 43
43
Công đồng Vatican II đã thúc đẩy các giám mục Việt Nam nhìn lại
đường hướng mục vụ và hướng dẫn giáo dân thực hiện theo đường
hướng mà công đồng này vạch ra. Ngay sau khi kết thúc khóa 2
(29/9/1963 - 21/11/1964) của Công đồng Vatican II, các giám mục Việt
Nam đã gửi Thư Luân lưu 1964 yêu cầu toàn thể Dân Chúa trên đất nước
Việt Nam phải tự kiểm thảo; kêu gọi người Công giáo đoàn kết với nhau
và đoàn kết với người không theo Công giáo, coi nhau như anh em ruột
thịt; đưa ra cái nhìn thoáng hơn trong việc giáo dân gia nhập các đảng
phái chính trị: “Hết mọi người Công giáo với tư cách là người công dân
đều có thể tự do ghi tên gia nhập đảng này hay đảng khác tùy ý, bất cứ là
đảng ấy thành lập rồi, hay là sẽ được những công dân đầy đủ khả năng,
can đảm thành lập về sau”15.
Đóng góp quan trọng cho hàng giám mục Việt Nam trong quá trình
chuyển hướng đồng hành cùng dân tộc là việc Giáo hoàng Phaolô VI
luôn kêu gọi các đảng phái chính trị, tổ chức cá nhân, Giáo hội Công giáo
mang lại hòa bình cho dân tộc Việt Nam. Trong Sứ điệp gửi các tổng
giám mục và giám mục Việt Nam năm 1966, Giáo hoàng nói: “Ta tưởng
không cần nhắc lại đây rằng, những vấn đề của quốc gia cao quý này, Ta
luôn coi như của mình, và không ngừng khẩn khoản mời gọi tất cả mọi
người, cả những ai đang cầm vận mệnh dân tộc trong tay hãy làm sao để
gây được sự tâm đồng ý hợp giữa mọi người, đó là những yếu tố cần thiết
khả dĩ giúp công cuộc an cư lạc nghiệp và thực hiện những cải tạo xã hội,
các cơ cấu chính trị như mọi người hằng mong muốn”16.
Hưởng ứng nỗ lực của Giáo hoàng Phaolô VI, ngày 5/01/1968, Hội
đồng Giám mục Việt Nam đã ra Thông cáo kêu gọi người Công giáo
bằng hành động cụ thể “hãy năng kiểm thảo về phần thực hành và cứ gia
tăng việc cầu nguyện, học tập cho đến khi được lại hòa bình. Đồng thời
cũng kêu gọi các tôn giáo bạn hãy kiến tạo cho sự hòa bình. Cuối cùng,
Hội đồng Giám mục Việt Nam khẩn thiết kêu gọi đến thiện chí của chính
quyền hai miền Nam - Bắc hãy cùng nhau kiến tạo hòa bình. Nhân danh
Thiên Chúa hãy dừng lại, hãy gặp nhau, hãy đi đến bàn hội nghị, hãy
thành thật thương thuyết. Chính ngay bây giờ hãy giải quyết các mối bất
hòa tranh chấp, dầu phải chịu chút ít thiệt thòi, vì thế nào rồi cũng phải
hòa giải, nhưng có lẽ với nhiều tai hại tàn khốc khủng khiếp mà hiện nay
không ai lường được. Chúng tôi cũng lập lại lời nói của Giáo hoàng
Phaolô VI vào ngày 2/5/1967: Phải chấm dứt các cuộc oanh tạc trên lãnh
44 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014
thổ Bắc Việt và đồng thời cũng phải chấm dứt những cuộc xâm nhập vũ
khí và vật liệu chiến tranh vào Miền Nam”17.
Một câu hỏi được các giám mục luôn tìm cách trả lời là làm sao góp
phần xây dựng hòa bình ở Việt Nam? Trước tình trạng chiến tranh gây
chia rẽ dân tộc, sự chết chóc, sự hỗn loạn của xã hội làm cho đức tin của
một bộ phận không nhỏ tín đồ Công giáo ở Miền Nam bị giảm sút
nghiêm trọng, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã thốt lên rằng: “Nếp sống
xa hoa, bất công bên cạnh tiếng súng nổ rền ngày đêm, bên cạnh những
đồng bào chiến nạn, thật là đắc tội với Thiên Chúa và Tổ quốc”18. Thực
ra, Hội đồng Giám mục Việt Nam đương thời đứng giữa nhiều vấn đề
xảy ra như việc Giáo hoàng Phaolô VI tẩy chay Nguyễn Văn Thiệu và
tích cực kêu gọi hòa bình cho Việt Nam. Đặc biệt, sự kiện quân giải
phóng đã giáng một đòn chí tử vào Sài Gòn tết Mậu Thân (1968) làm cho
Hội đồng Giám mục Việt Nam nhìn thấy sức mạnh tiềm ẩn của người
cộng sản. Việc tìm cách giải quyết vấn đề hòa bình được đặt ra với Hội
đồng Giám mục Việt Nam trong hoàn cảnh bấy giờ là điều dễ hiểu. Tuy
nhiên, do cuộc chiến chưa kết thúc, nên Hội đồng Giám mục Việt Nam
chưa thể bày tỏ quan điểm ủng hộ hay chống đối ai trong lúc này và cũng
đã chuẩn bị phương án cho việc thay đổi chính quyền, khi đó hòa bình sẽ
là sự hòa hợp dân tộc. Hội đồng Giám mục Việt Nam cho rằng: “Hòa
bình là trật tự trong công lý và khôn ngoan, là sự thích hợp của cộng
đồng dân tộc để cùng nhau mưu cầu công ích, là kết quả của tình thương
quảng đại bao dung, xóa bỏ hận thù, là nỗ lực không ngừng để cải thiện
đời sống xã hội và đem ích chung cho mọi tầng lớp người dân; hòa bình
ấy chúng ta xây dựng không bằng khủng bố, đàn áp, mà bằng nghị lực
tinh thần, vừa tin tưởng vào sức mạnh thiêng liêng phù trợ, vừa tin tưởng
mãnh liệt vào tiền đồ Tổ quốc và cùng hiệp lực, tận dụng khả năng của
mỗi người để xây dựng, tôn trọng phẩm vị con người và hòa hợp quốc
gia”19.
Sự hòa bình và hòa hợp luôn được Hội đồng Giám mục Việt Nam
nhắc nhiều lần trong Thư Luân lưu xây dựng hòa bình. Một giả thiết đặt
ra lúc đó là nếu chính quyền mới thành công, người Công giáo có hòa
hợp cùng “cộng sản vô thần”. Câu trả lời là có, vì Hội đồng Giám mục
Việt Nam đã sẵn sàng cho sự hòa hợp, một sự chuẩn bị cho chuyển
hướng được bắt đầu kể từ Thư Luân lưu năm 1969: “Dân tộc ta do nhiều
nguồn gốc, văn hóa, thành phần cấu tạo nên. Nhưng không vì đó gây
Nguyễn Ngọc Phúc. Quá trình hình thành đường hướng 45
45
thành nguyên nhân chia rẽ, trái lại phải là yếu tố bổ sung cho nguồn sinh
lực thêm phong phú hơn. Người Việt gốc Miên, gốc Chàm, gốc Hoa,
Kinh hay Thượng đều là công dân Việt Nam. Người Phật giáo, Cao Đài,
Hòa Hảo, Tin Lành, Công giáo là công dân Việt Nam. Mỗi công dân
đều phải được hưởng quyền lợi và thi hành nghĩa vụ như nhau theo Hiến
pháp và luật pháp ấn định. Mặc dầu khác nhau về tín ngưỡng, sắc tộc,
nhưng cùng là công dân trong một nước, có những mối tương quan
thiêng liêng ràng buộc với nhau, tất cả có phận sự cố gắng xây dựng Tổ
quốc, kiến thiết nước nhà trong tình đoàn kết và hòa hợp”20.
Hiệp định Paris được ký kết vào ngày 27/01/1973, quân Mỹ rút khỏi
Việt Nam, công cuộc thống nhất đất nước xem như sắp hoàn thành. Đứng
trước vấn đề này, người Công giáo Việt Nam hoang mang lo sợ. Sự lo sợ
này có căn cứ, vì thế việc đối đầu “với nạn chủ nghĩa cộng sản vô thần”
buộc Hội đồng Giám mục Việt Nam phải xem lại và tìm cách ứng phó.
Ngày 3/2/1973, Hội đồng Giám mục Miền Nam gửi thư cho toàn thể
người Công giáo Việt Nam chuẩn bị cho một đường hướng mục vụ phù
hợp: “Nhằm cống hiến những nguyên tắc mục vụ cho sự lựa chọn thái độ
thích đáng trước những biến chuyển của lịch sử đang dồn dập tới, lá thư
như đoán trước một thử thách nặng nề. Đối phó với tình thế mới các giám
mục không còn gay gắt với chế độ cộng sản. Các ngài coi cuộc chiến
tranh kéo dài trong những năm qua là cuộc huynh đệ tương tàn, hậu quả
của cuộc tranh giành quyết liệt của hai khối. Qua đó Hội đồng Giám mục
Miền Nam nhìn nhận “chủ nghĩa vô thần” duy vật vô thần không phải chỉ
có nơi những quốc gia ra mặt chống đối Giáo hội, vu khống Giáo hội,
chia rẽ Giáo hội, nó còn ngấm ngầm phá hoại kinh khủng trong các nước
người ta thường gọi là thuộc khối tự do”21.
Năm 1974, chiến cuộc gần như đã ngã ngũ, việc lật đổ chính quyền
Sài Gòn chỉ là thời gian, Hội đồng Giám mục Việt Nam tích cực cho
công cuộc chuyển hướng về mặt tinh thần cũng như về mặt nhân sự. Về
tinh thần, từ sau Công đồng Vatican II, thái độ của hàng giám mục Việt
Nam bớt gay gắt với cộng sản. Qua các Thư chung, Thông cáo, Thư Luân
lưu, họ đã bày tỏ quan điểm người Công giáo là một bộ phận của dân tộc
Việt Nam, sẵng sàng hòa hợp với bất kỳ phe đảng nào để được hòa bình.
Về nhân sự, từ năm 1974 đến tháng 9/1975 là một quá trình chuẩn bị về
mặt nhân sự của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng như ở các giáo
phận để phục vụ cho một cuộc đối thoại sắp tới. Năm 1974, Hội đồng
46 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014
Giám mục Việt Nam đã nhóm họp thường niên để thí nghiệm cơ cấu mục
vụ, rút ra khuyết điểm, cuối cùng quyết định: Một là, vẫn giữ nguyên 4
miền mục vụ như trước. Hai là, mở rộng thêm Ủy ban Thường vụ Hội
đồng Giám mục Việt Nam. Ba là, đặt thêm một số Ủy ban Giám mục
mới. Bốn là, mỗi đặc nhiệm Hội đồng Giám mục Việt Nam do một vị
giám mục đặc trách gồm: Hội Thừa sai Việt Nam, Đại học Đà Lạt, Trung
tâm Công giáo Việt Nam, Nha Tuyên úy Quân đội22.
Mặc dù việc thay đổi cơ cấu mục vụ là sự thích nghi với tinh thần
Công đồng Vatican II, nhưng điều này cũng cho thấy sự chuẩn bị trong
quá trình chuyển hướng của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Từ trước,
trong và sau ngày 30/4/1975 có tất cả 12 vị giám mục Việt Nam được thụ
phong. Một loạt giám mục phụ tá được bổ nhiệm vừa để việc mục vụ
được thuận lợi hơn, vừa để củng cố cơ cấu tổ chức tiện đối phó với tình
hình mới. Đáng chú ý là việc thuyên chuyển Giám mục Huỳnh Văn Nghi
làm Giám mục phụ tá Giáo phận Sài Gòn, Giám mục Nguyễn Văn Hòa
làm Giám mục Giáo phận Phan Thiết. Giám mục Huỳnh Văn Nghi đã
làm phụ tá Giáo phận Sài Gòn lại được bổ nhiệm ra Giáo phận Phan
Thiết, còn Giám mục Nguyễn Văn Hòa chưa tới Giáo phận Phan Thiết thì
được bổ nhiệm về Giáo phận Nha Trang thay thế Giám mục Nguyễn Văn
Thuận ngày 25/4/1975. Cùng ngày này, Giám mục Nguyễn Văn Thuận ở
Giáo phận Nha Trang được bổ làm Giám mục phụ tá Giáo phận Sài Gòn.
Như vậy, các bước chuẩn bị cho một cuộc chuyển hướng xem như đã
hoàn tất chỉ còn chờ cơ hội mà thôi. Ngay sau khi Huế - Đà Nẵng được
giải phóng, trong một bức thư gửi các linh mục, tu sĩ và tín hữu, Giám
mục Nguyễn Kim Điền đã bày tỏ quan điểm: “Chiến tranh đã chấm dứt
trên Giáo phận Huế. Đó là điều mà chúng ta mong ước và cầu nguyện từ
30 năm nay. Giờ đây đã đến lúc chúng ta hoan hỷ sẵn sàng và hăng say
cộng tác với mọi người thiện chí, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ Cách
mạng để xây dựng lại quê hương sau bao đổ vỡ tang tóc, hầu đem lại tự
do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào ruột thịt”.
Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình, ngay sau khi đất nước được giải
phóng cũng đã gửi thư cho linh mục, tu sĩ và giáo dân kêu gọi Kitô hữu
sẵn sàng cho sự hợp tác. Ngày 12/6/1975, Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn
ban hành Thư Luân lưu kêu gọi toàn thể Dân Chúa hãy công nhận sự tồn
tại và phục tùng sự lãnh đạo của chính quyền cách mạng. Tòa Tổng Giám
mục Sài Gòn một mặt biểu hiện sự đồng tình, nhưng mặc khác cũng
Nguyễn Ngọc Phúc. Quá trình hình thành đường hướng 47
47
muốn nhắc nhở chính quyền cách mạng thực hiện tốt những gì đã hứa:
“Riêng đối với chính quyền cách mạng đang thực sự điều hành việc quản
trị Miền Nam, chúng ta cùng sẻ chia tâm tình của dân tộc, hoan nghênh
chủ trương hòa giải, hòa hợp dân tộc và tự do tôn giáo được đề ra trong
Sắc lệnh về tôn giáo của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề
ngày 14/5/1955, trong chính sách tôn giáo của Chính phủ Cách mạng
Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”.
Những bức thư của Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn và các vị giám mục
cho thấy, giới Công giáo Miền Nam đang lo lắng một cuộc bách hại sắp
xảy ra. Điều này có thể bắt nguồn từ những lời đồn đại rằng cộng sản
bách hại tôn giáo vì chủ nghĩa vô thần. Tuy nhiên, việc chủ động hòa
giải, hòa hợp dân tộc, sẵn sàng cùng chính quyền cách mạng xây dựng
đất nước không phải do sợ bị bách hại, mà như đã trình bày, hàng giám
mục Việt Nam đã có những bước chuẩn bị khá lâu dài và chu đáo. Trong
Thông cáo chung ngày 20/12/1975 hay Thư chung 1976 của Hội nghị
Giám mục Miền Nam đều nói rõ, Công giáo là thành phần của cộng đồng
dân tộc, hòa mình vào cuộc sống của đồng bào, cùng chung nỗi vui
mừng, niềm hy vọng và nỗi âu lo của toàn dân; giữa đức tin Kitô giáo và
chủ nghĩa Mác - Lênin tuy có xung khắc, nhưng không vì thế mà không
thể không có đối thoại và cộng tác chân thành giữa những ai cùng phục
vụ con người trong xứ mạng cá nhân và xã hội.
3. Thư chung 1980 và đường hướng mục vụ “Sống Phúc Âm giữa
lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc đồng bào”
Sự thống nhất về chính trị - xã hội trong cả nước tạo điều kiện thuân
lợi cho sự thống nhất đường hướng mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt
Nam. Từ ngày 24/4 đến ngày 1/5/1980, Đại hội Giám mục toàn quốc
được tổ chức. Ngày 1/5/1980, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã ra Thư
chung với đường hướng mục vụ “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để
phục vụ hạnh phúc đồng bào”; khẳng định quyết tâm gắn bó với vận
mệnh quê hương, noi theo truyền thống dân tộc hòa mình vào cuộc sống
hiện tại của đất nước; đồng hành cùng dân tộc, cùng chia sẻ sinh mạng
với dân tộc.
Ngoài việc vạch ra đường hướng mục vụ chung, Thư chung 1980 còn
kêu gọi người Công giáo Việt Nam thực hiện tốt đường hướng đó. Đối
với giáo dân: “Các nỗ lực để xây dựng gia đình Công giáo theo tinh thần
Phúc âm phải đồng thời làm phát triển nơi anh chị em và con cái những
48 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014
đức tính của người công dân tốt, nhất là ý thức về chân lý và công bình,
và tinh thần sẵn sàng phục vụ lợi ích của Tổ quốc. Nhờ hiện diện và sinh
hoạt tích cực giữa đời như vậy, anh chị em sẽ làm sáng danh Chúa và góp
phần hữu hiệu vào việc xây dựng đất nước”. Đối với tu sĩ: “Chính các
anh chị em sẽ tự thấy được rằng đường hướng mà chúng tôi vạch ra cho
cả Hội thánh ở Việt Nam: Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc với tinh thần
sẵn sàng phục vụ, phù hợp với cách riêng ơn gọi của anh chị em. Do đó,
anh chị em hãy nêu gương cho giáo dân bằng việc tích cực đi vào con
đường ấy”. Đối với linh mục: “Chúng ta hãy làm cho mọi tín hữu biết
sống Phúc âm trên tinh thần yêu mến và trung thành với Hội thánh, trước
hết bằng chính đời sống của chúng ta Xin anh chị em hãy cùng chúng
tôi đưa Hội thánh ở Việt Nam đi vào con đường đã lựa chọn là: Sống
Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc đồng bào”23.
4. Kết luận
Với Thư chung 1980, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã chính thức
đồng hành cùng dân tộc, hòa mình vào dân tộc, thay đổi đường hướng
mục vụ trước sự thay đổi của đất nước. Hội đồng Giám mục Việt Nam
kêu gọi cộng đồng Dân Chúa sống Phúc âm và đem Phúc âm vào trong
cuộc sống, nghĩa là đem Phúc âm vào hoàn cảnh thực tế của đất nước,
góp phần xây dựng một xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn và nhân bản hơn.
Đường hướng mục vụ “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ
hạnh phúc đồng bào” là một quá trình lâu dài, chính thức khẳng định và
phổ biến rộng rãi từ Thư chung 1980; được bổ sung, bồi đắp qua các Thư
mục vụ, Thư chung những năm tiếp theo. Đường hướng này thể hiện sự
tiến bộ trong nhận thức và hành động của Hội đồng Giám mục Việt Nam,
thể hiện vai trò vừa làm một tín đồ trung thành với Hội Thánh, vừa làm
người công dân tốt của Tổ quốc./.
CHÚ THÍCH:
1 ĐGM. Bùi Tuần, Thao thức 1: Mở lòng ta ra với người nghèo, Nxb. Thành phố
Hồ Chí Minh: 13.
2 Dẫn theo Nguyễn Quang Hưng (2006), “Vài nét về lập trường của Tòa Thánh
Vatican đối với cuộc chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975)”, Nghiên cứu Tôn
giáo, số 1: 40.
3 Nguyễn Quang Hưng (2006), “Vài nét về lập trường của Tòa Thánh Vatican đối
với cuộc chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975)”, bđd: 40.
4 Giáo hoàng Pio XII (1951), Sứ giả Phúc âm, Nxb. Bùi Chu.
Nguyễn Ngọc Phúc. Quá trình hình thành đường hướng 49
49
5 Nguyễn Quang Hưng (2006), “Vài nét về lập trường của Tòa Thánh Vatican đối
với cuộc chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975)”, bđd: 40.
6 Nguyễn Quang Hưng (2006), “Vài nét về lập trường của Tòa Thánh Vatican đối
với cuộc chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975)”, bđd: 40.
7 Nguyễn Quang Hưng (2006), “Vài nét về lập trường của Tòa Thánh Vatican đối
với cuộc chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975)”, bđd: 40.
8 Ngô Quốc Đông - Nguyễn Kim Huỳnh, “Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của
Linh mục Phạm Bá Trực”, trong PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương chủ biên (2011),
Linh mục Phạm Bá Trực và đường hướng Công giáo đồng hành cùng dân tộc
trong thời kỳ chống thực dân Pháp (1946 - 1954), Nxb. Từ điển Bách khoa: 42.
9 Lê Đức Hạnh, “Linh mục Phạm Bá Trực và tinh thần kính Chúa yêu nước đấu
tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ”, trong PGS. TS. Nguyễn Hồng
Dương chủ biên (2011), Linh mục Phạm Bá Trực và đường hướng Công giáo
đồng hành cùng dân tộc trong thời kỳ chống thực dân Pháp (1946 - 1954), sđd:
126.
10 Đỗ Quang Hưng, “Công giáo và Cách mạng (1945 - 1954) bài học lịch sử và ý
nghĩa của nó”, trong Nguyễn Hồng Dương chủ biên (2011), Linh mục Phạm Bá
Trực và đường hướng Công giáo đồng hành cùng dân tộc trong thời kỳ chống
thực dân Pháp (1946 - 1954), sđd: 176 - 177.
11 Trần Hữu Hợp, “Một vài nét về phong trào yêu nước của giới Công giáo Nam
Bộ 1945 - 1975”, trong Nguyễn Hồng Dương chủ biên (2011), Linh mục Phạm
Bá Trực và đường hướng Công giáo đồng hành cùng dân tộc trong thời kỳ chống
thực dân Pháp (1946 - 1954), sđd: 344 - 345.
12 Trần Hữu Hợp, “Một vài nét về phong trào yêu nước của giới Công giáo Nam
Bộ 1945 - 1975”, trong Nguyễn Hồng Dương chủ biên (2011), Linh mục Phạm
Bá Trực và đường hướng Công giáo đồng hành cùng dân tộc trong thời kỳ chống
thực dân Pháp (1946 - 1954), sđd: 350.
13 Xem: (2012), Lịch sử Nam Bộ kháng chiến 1945 - 1975, Nxb. Chính trị Quốc
gia.
14 Xem: (2012), Lịch sử Nam Bộ kháng chiến 1945 - 1975, Nxb. Chính trị Quốc gia.
15 Thư Luân lưu các giám mục Việt Nam 1964.
16 Sứ điệp Giáo hoàng Phao lô VI gửi hàng giám mục, linh mục, giáo dân Việt
Nam năm 1966.
17 Thông cáo ngày 5/1/1968 của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
18 Thư Luân lưu xây dựng hòa bình 1969 của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
19 Thư Luân lưu xây dựng hòa bình 1969 của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
20 Thư Luân lưu xây dựng hòa bình 1969 của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
21 Đỗ Mạnh Trí, Con đường đối thoại của các giám mục Việt Nam 1975 - 2005.
22 Thông cáo 1974 của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
23 Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
50 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hồng Dương chủ biên (2011), Linh mục Phạm Bá Trực và đường hướng
Công giáo đồng hành cùng dân tộc trong thời kỳ chống thực dân Pháp (1946 -
1954), Nxb. Từ điển Bách khoa.
2. Nguyễn Hồng Dương (2012), Quan điểm, đường lối của Đảng về tôn giáo và
những vấn đề về tôn giáo ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia.
3. Nguyễn Quang Hưng (2006), “Vài nét về lập trường của Tòa Thánh Vatican đối
với cuộc chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975)”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 1.
4. Lịch sử Nam Bộ kháng chiến 1945 - 1975, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2012.
5. Đỗ Mạnh Trí, Con đường đối thoại của các giám mục Việt Nam 1975 - 2005.
6. ĐGM. Bùi Tuần, Thao thức 1: Mở lòng ta ra với người nghèo, Nxb. Thành phố
Hồ Chí Minh.
Abstract
THE PROCESS OF FORMING THE ORIENTATION OF THE
VIETNAM BISHOPS’ COUNCIL “TO LIVE THE GOSPEL IN
THE HEART OF THE NATION TO SERVE THE WELFARE
OF PEOPLE”
“To live the Gospel in the heart of the nation to serve the welfare of
people is the orientation of the Vietnam Bishops’ Council. This
orientation has been proposed in the Pastoral Letter in 1980. It shows the
cooperation of the Vietnam Bishops’ Council with the Vietnamese State.
In fact, this orientation was implemented by Vietnamese Catholics before
1980. This article contributed to study this matter.
Key words: The Pastoral Letter, the Vietnam Bishops’ Council,
Vietnamese Catholics, the Second Vatican Council.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23848_79816_1_pb_412.pdf