Xã hội học vi quan là một phương pháp đặc biệt có triển vọng đối với
việc nghiên cứu hoạt động nghi lễ của Đông Nam Trung Quốc, bởi vì
những hoạt động nghi lễ này luôn được sử dụng hết mức thuật ngữ của
trường phái Durkheim để phân tích. Chúng được coi là chỗ của xã hội
sinh sôi nảy nở, là nơi loại bỏ những cái khác biệt, trong đó những mô tả
về sự khác biệt hoặc sự tự trị của địa phương nhìn chung còn bỏ ngỏ một
cách rõ rệt. Dưới điều kiện của mô hình này, những khác biệt của địa
phương thế nào cũng phải nhượng bộ với trung tâm vương triều và trật tự
Nho giáo đã giả định của nó. Ở lĩnh vực khác, tồn tại mô tả khác tóm
lược về hoạt động nghi lễ, nhấn mạnh sự xuất hiện mang tính tự phát của
những thực tiễn này và sửa đổi lại toàn diện của trật tự xã hội. Nhưng
những cái nhìn lệch lạc trong nghiên cứu xã hội Đông Bắc Á trên một
mức độ rất lớn là nhằm vào nhà nước bất biến hoặc là khắc họa lại tính
đồng nhất nhà nước ban đầu. Đây là do hệ quả lý luận hiện đại hóa trong
khi hình thành khoa học nghiên cứu về khu vực. Hệ quả này được xác lập
nhưng chưa được kiểm tra.
16 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 567 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tôn giáo - Truyền thống nghi lễ tôn giáo địa phương vùng đông nam trung quốc thách thức về mặt định nghĩa tôn giáo và lý luận nghi lễ (tiếp theo kỳ trước), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 – 2014 3
KENNETH DEAN*
TRUYỀN THỐNG NGHI LỄ TÔN GIÁO ĐỊA PHƯƠNG
VÙNG ĐÔNG NAM TRUNG QUỐC THÁCH THỨC VỀ MẶT
ĐỊNH NGHĨA TÔN GIÁO VÀ LÝ LUẬN NGHI LỄ
(Tiếp theo kỳ trước)
Tóm tắt: Bài viết bắt đầu từ việc miêu tả nghi lễ tôn giáo ở một
thôn thuộc vùng Hưng Hóa, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc vào dịp
rằm tháng Giêng. Bài viết bàn về nghi lễ từ các góc độ khác nhau;
không những nêu lên vấn đề mà nghi lễ này đặt ra đối với định
nghĩa tôn giáo, mà còn tìm hiểu hàm ý lý luận nghi lễ ẩn chứa
trong đó. Ban tổ chức của nghi lễ này có kỹ năng điều hành rất
linh hoạt. Họ vừa tạo ra bản sắc địa phương, vừa thu nhận các
nguồn vốn và biểu trưng nhà nước, tạo nên một “chính quyền thứ
hai” ở trong vùng, tham dự nhiệt tình vào hoạt động chính trị, kinh
tế và văn hóa địa phương.
Từ khóa: Định nghĩa tôn giáo, nghi lễ tôn giáo, Phúc Kiến, Trung
Quốc.
3. Bối cảnh lịch sử
Phần này giới thiệu sơ lược hoạt động nghi lễ tôn giáo truyền thống
đang diễn ra ở đồng bằng bồi tụ bởi hệ thống kênh rạch được khai khẩn
hàng nghìn năm qua từ vịnh Hưng Hóa, huyện Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến
(vùng Nam Hoa Đông). Diện tích đồng bằng là 464 km2, phía Đông kéo
dài đến thành phố Bồ Điền, phía Tây kéo dài đến vịnh Hưng Hóa, phía
Nam giáp suối Mộc Lan. Tôi và Giáo sư Trịnh Chấn Mãn của Trường
Đại học Hạ Môn gần đây đã tiến hành điều tra về nhân khẩu, các dòng họ
chủ yếu, đền miếu và lễ hội cùng tạo thành 156 loại liên minh nghi lễ tôn
giáo truyền thống ở 724 ngôi làng vùng đồng bằng này. Phát hiện của
chúng tôi chủ yếu là tính phức tạp và sức sống đáng kinh ngạc của nghi lễ
tôn giáo truyền thống vùng Đông Nam Trung Quốc. Tôi cho rằng, vị trí
của nghi lễ tôn giáo truyền thống trong đời sống thường nhật ở Trung
*
GS.TS., Khoa Nghiên cứu Đông Á, Trường Đại học McGill, Canada.
4 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 – 2014
4
Quốc đương đại là kết quả phát triển của nghi lễ dung hợp đa tầng có thể
phân tích từ góc độ lịch sử. Chúng ta có thể truy ngược sự phát triển lịch
sử của các tầng diện trùng lặp và tác động lẫn nhau như vậy. Mọi người
nghĩ rằng, cần bắt đầu từ việc miêu tả về hoàn cảnh tự nhiên được kiến
tạo và biến đổi bởi đất đai khai khẩn ven biển và bốn hệ thống sông ngòi
tưới tiêu liên thông nhau. Sau đó, nhất định bàn thảo về sự phát triển của
ruộng đất Phật giáo thế kỷ X và nghi lễ mà Phật giáo thực hành cho việc
tế tổ tiên của các dòng họ quan trọng. Sự trỗi dậy của chế độ tông tộc,
tông miếu và việc thờ cúng tổ tiên vào cuối thời Tống, cũng như sự phổ
biến của hình thức dòng họ vào đầu thời Minh đã tiếp nhận một phương
diện quan trọng khác của hoạt động nghi lễ. Đàn tế của các lễ tế quan
phương, tế Thổ Địa và lễ tế mùa thu hoạch với trung tâm là miếu thần
trong dân chúng vào đầu thời Minh đã chuyển hóa thành một phương
diện khác thuộc hoạt động nghi lễ của liên minh khu vực địa phương với
hình thức mới. Sự nổi lên của dạng liên minh này là kết quả sự phức tạp
gia tăng của mô thức hợp tác tập thể xã hội thủy lợi khi cùng lấy chung
một nguồn nước và là kết quả sự phản hồi sinh thái của các hệ thống thủy
lợi liên kết với nhau.
Việc cải cách chế độ thuế khóa cuối thời Minh đã giảm nhẹ thuế phục
vụ lao động và nông canh. Cùng với việc thâm nhập của nạn cướp biển,
sự bất ổn của triều chính dẫn đến việc chuyển giao trách nhiệm bảo vệ cơ
sở địa phương xuống cho tầng lớp ưu tú địa phương. Họ ngày càng tham
gia vào việc quản lý đền miếu và hoạt động nghi lễ cao cấp cũng như của
liên minh khu vực. Vào cuối thời Minh và đầu thời Thanh, mạng lưới liên
minh nghi lễ của hơn một trăm thôn đã hình thành khu vực tự trị của địa
phương không ổn định nhưng không ngừng mở rộng. Bởi vậy, khác với
các nhà sử học bản địa Trung Quốc khác, tôi cho rằng, nhà nước và đại
diện của họ, hoặc họ tộc và giới trí thức ưu tú đều không phải là nhân tố
ảnh hưởng duy nhất hoặc quan trọng nhất có thể khống chế và cải biến xã
hội địa phương ở Đồng bằng Bồ Điền. Điều tôi nhấn mạnh là đầu mối
của sự cải cách đã biến cơ cấu nhà nước và ý thức họ tộc thành nghi lễ
địa phương. Đồng thời, mọi người có thể nhận thấy rất nhiều ví dụ về
thực nghiệm tập thể của các địa phương về nghi lễ tân truyền thống.
Những truyền thống mới này có một số nền tảng từ thần thoại, truyền
thuyết và thực tiễn nghi lễ địa phương. Các tổ chức xã hội địa phương đã
kế thừa vốn thương nghiệp, đối ngoại và mậu dịch duyên hải, quan trọng
Kenneth Dean. Truyền thống nghi lễ tôn giáo 5
5
nhất là việc xuất hiện của sự hạn chế và nguy cơ về sinh thái của hệ
thống thủy lợi phức tạp đã thúc ép đối với quyền lực địa phương. Đến
cuối nhà Thanh, những thay đổi này sản sinh ngay từ nội bộ hình thức
dòng họ, hợp nhất với quyền lực tư bản, hình thành nên một loại dòng họ
khế ước, một loại công ty cổ phần liên hợp. Tuy nhiên, một số dòng họ
đang tiếp tục phát triển lực lượng, xu thế chung ở Đồng bằng Bồ Điền nói
chung là sự tản mạn, hoặc là sự hợp nhất vào tổ chức nghi lễ địa vực của
các dòng họ. Xu thế hợp nhất một phần của xu thế chung từ quan hệ dòng
họ quá độ sang quan hệ địa vực thể hiện thông qua liên hợp nghi lễ. Sự
phức tạp bởi nhiều nhân tố tác động tương hỗ hàm nghĩa là sự phát triển
có thể ổn định, cũng có thể là quá trình thực nghiệm trở lại của sự cách
tân nghi lễ văn hóa, có thể có kết quả ngoài dự liệu, nhưng trong tổng thể
của sự phát triển, chúng được truyền bá mạnh mẽ trong truyền thống văn
hóa cởi mở. Đặc điểm của thời kỳ giữa nhà Thanh là áp lực gia tăng dân
số, thương nghiệp hóa cao độ và sự phát triển của phong trào nghi lễ tự
phát ở địa phương bất chấp sự ngờ vực không ngừng gia tăng của chính
quyền quan phương. Ví dụ như Tam Nhất giáo (kết hợp tu dưỡng đạo
đức Nho giáo, luyện nội đan Đạo giáo, ngồi thiền của Phật giáo) và nhiều
đoàn thể Phật giáo thế tục. Hệ thống thủy lợi vào cuối nhà Thanh bắt đầu
bị phá vỡ. Một thôn nào đó đấu tranh sẽ đánh dấu mô thức liên hợp khiến
Đồng bằng Bồ Điền phân ly thành bàn cờ xung đột địa phương. Điều thú
vị là, vào giai đoạn này, những người trung gian (ông bà đồng) hình
thành và xuất hiện ở phía bắc đồng bằng, giúp thiết lập mạng liên hệ mới
giữa các làng mạc. Một xu thế khác vào cuối thế kỷ XIX là cuộc di dân
xuống Đông Nam Á. Rất nhiều di dân đã xây dựng chi nhánh đền làng
của họ. Thời kỳ thành lập nước Trung Hoa mới và sau năm 1949 trở đi,
nhà nước dân tộc hiện đại đã san phẳng hệ thống đền miếu ảnh hưởng sâu
sắc đến phong trào hoạt động nghi lễ của nông dân, với khoảng một nửa
số đền miếu Trung Quốc bị hủy bỏ. Một số vùng ở Trung Quốc gần như
không còn nghi lễ tồn tại, nhưng ở phía Nam thì may thay vẫn còn rất
nhiều nghi lễ tiếp tục được giữ lại. Từ thập niên 1980 trở đi, ở Đồng bằng
Bồ Điền gần như khôi phục lại mạng lưới đền miếu và hoạt động nghi lễ.
Đồng thời, mạng lưới đền miếu liên quốc gia do các ông bà đồng Trung
Quốc ở hải ngoại thiết lập cho thương nhân Hoa kiều làm ăn trên thương
trường quốc tế cũng phát triển rất thành công trong 30 năm qua.
6 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 – 2014
6
Mỗi tầng diện lịch sử của hình thức nghi lễ (thờ cúng thần linh, nghi lễ
Phật giáo và Đạo giáo, nhập hồn, thờ cúng tổ tiên, lễ rước thần liên làng,
tu luyện và thực tiễn nghi lễ của Tam Nhất giáo, múa thiêng/ lên đồng tập
thể) đều được sáng tạo ra bởi sự tương tác với các tầng diện có trước, tạo
ra một nguồn vốn và kỹ thuật nghi lễ và văn hóa phức tạp và không
ngừng gia tăng để động viên và quản lý xã hội làng mạc, cầu cúng và ứng
dụng lực lượng vũ trụ. Chúng không loại bỏ, thay thế hoặc hạ thấp tầng
diện nguyên thủy, có trước của hình thức nghi lễ. Ngược lại, những kỹ
thuật khác nhau của xã hội hiện thực và lực lượng vũ trụ đó là hình thức
hỗn hợp và tiềm lực mới để văn hóa xã hội địa phương được tiếp tục tăng
tiến. Vũ trụ làng mạc và hoạt động nghi lễ của nó trở thành địa bàn hiển
thị rõ nét quyền lực địa phương kiểu mới có thể động viên toàn thể cộng
đồng tham dự vào liên minh khu vực rộng lớn hơn. Những cơ chế độc
đáo như luân lưu chức vụ quản lý của Ban Quản lý đền miếu, công khai
chi tiêu mỗi lần hoạt động nghi lễ đều đề phòng sự lạm dụng những
quyền lực đó.
Trên cơ sở phát triển rộng rãi của liên minh nghi lễ toàn bộ Đồng bằng
Bồ Điền vào giữa thời Minh, với sự phát triển của nghi lễ theo cách tổ
chức độc đáo đó, tôi cho rằng, một kết cấu quyền lực mới bắt đầu hình
thành vào cuối thế kỷ XVI, kết hợp với các dòng họ đứng đầu là tầng lớp
ưu tú ở một mức độ nào đó đã vượt qua lực lượng dòng họ. Tôi gọi đó là
sự cấu thành quyền lực nghi lễ, để phân biệt với miêu tả của Foucaul về
sự cấu thành quyền lực của giới mục sư ở Châu Âu cuối thời Trung đại.
Sự cấu thành quyền lực nghi lễ ở Đồng bằng Bồ Điền giai đoạn Minh -
Thanh cung cấp một mô thức địa phương mà Duara gọi là kết cấu trung
tâm văn hóa của quyền lực của Trung Quốc cuối nhà Thanh.
Điều tra gần đây của tôi chứng minh tính quan trọng của nghi lễ đối
với đời sống người Trung Quốc đương đại ở Đồng bằng Bồ Điền. Tôi
đưa ra một số giả thiết đối với năng lực ứng phó của nghi lễ đối với lực
lượng hiện đại hóa (bất kể đến từ nhà nước hay nguồn vốn khác), đồng
thời nhấn mạnh tác dụng của việc Hoa kiều trở về quê hương xác lập lại
truyền thống địa phương, đầu tư xây dựng đền chùa và biểu diễn các nghi
lễ hoành tráng. Hoa kiều tuy tiếp tục có tác dụng trong nghi lễ ở một số
làng quê, nhưng đại đa số hoạt động nghi lễ đang diễn ra ở Đồng bằng Bồ
Điền đều do sự đầu tư của các tổ chức địa phương.
Kenneth Dean. Truyền thống nghi lễ tôn giáo 7
7
Thần linh được thờ phụng trong đền miếu gồm rất nhiều nhân vật lịch
sử được thần thánh hóa ở phạm vi rộng lớn, một số nổi danh toàn quốc,
nhưng cũng rất đông vị thần thánh chỉ được biết đến trong phạm vi làng
mạc nơi họ được thờ phụng. Đồng thời, rất nhiều trong số đối tượng thờ
phụng này là thần linh tự nhiên, thần linh được chọn ra từ truyền thuyết,
cùng nhiều nhân vật Phật giáo, thần tiên Đạo giáo và thánh hiền Nho
giáo. Mỗi vùng văn hóa của Trung Quốc (thường được phân biệt bởi
truyền thống ngôn ngữ địa phương, phong cách kiến trúc, ẩm thực, âm
nhạc và kịch nghệ), lại có một hệ thần linh địa phương độc đáo. Hệ thần
linh địa phương ở Hoa Bắc có khoảng 300 vị, trong đó rất nhiều vị có
nguồn gốc chính thống. Còn hệ thần linh địa phương ở Hoa Nam ngược
lại càng khai mở trong việc sáng tạo của địa phương. Ở vùng này, nông
dân thờ cúng đến hơn 1.000 vị thần, trong đó trên một nửa là do địa
phương sáng tạo ra.
Đối với các độc giả Phương Tây, ví dụ có thể tiếp cận nhất chính là
Hy Lạp thời Cổ đại. Hơn nữa, kịch nghệ gia tộc về hệ thần linh Olympia
trước khi được đồng chất hóa và tiêu chuẩn hóa, khi cùng một vị thần
trong các thành phố hoặc thần điện khác nhau lại có cách lý giải và thờ
cúng khác nhau. Một điểm tham chiếu khác nữa là sự thờ kính thánh tông
đồ của Công giáo thời Trung cổ. Một số thánh tông đồ được cho là lực
lượng đặc biệt có thể bảo hộ nơi mà họ được thờ cúng. Như những điều
mà chúng ta nhìn thấy được, lễ hội thần làng Trung Quốc là lúc cuồng
nhiệt vui vẻ và có tính điển lễ. Những hoạt động nghi lễ này vừa là cơ sở
nghi lễ hóa cuộc sống thường nhật, vừa là sự gia tăng niềm vui cho cuộc
sống thường nhật. Nghi lễ của làng quê không phải là một thời gian
thiêng siêu việt, tách biệt với trật tự thế tục thường ngày, mà hàm chứa cả
quá trình thúc đẩy sự lưu thông tiền của và lễ vật.
Chúng tôi phát hiện 724 làng ở Đồng bằng Bồ Điền có nhân khẩu bình
quân vượt quá 1.000 người (cụ thể là 1.020 người), một số làng còn vượt
quá 10.000 người. Nói một cách tương đối, một số làng lớn quan trọng có
mối quan hệ với một số làng nhỏ xung quanh (về lịch sử, kinh tế, chính
trị và văn hóa). Nhìn từ ưu thế của mỗi làng, vấn đề đặt ra ở đây phải
chăng là làng lớn có ảnh hưởng ở địa phương, có lịch sử lâu đời, có một
hoặc nhiều nhân vật trí thức nổi tiếng hoặc dòng họ lớn mạnh; hay là một
làng phụ thuộc, có nhiều dòng họ lẫn lộn, lịch sử tương đối ngắn, rất ít
8 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 – 2014
8
hoặc không có nhân vật lớn. Tổng số nhân khẩu của 724 làng được điều
tra là 746.495 người.
Điều tra của chúng tôi phát hiện có 100 dòng họ khác nhau trong 724
làng này. Thông thường, mỗi làng có từ ba đến bốn dòng họ, có làng trên
14 dòng họ, khoảng 1/3 số làng có một dòng họ. Đa số làng có trên ba
đền miếu, có làng trên tám đền miếu, nhưng nhiều làng chỉ có một đền
miếu. Trong 724 làng, có tổng số 2.586 đền miếu với 1.200 vị thần khác
nhau và 10.433 pho tượng. Ở hệ thống sông Nanyang có 3.966 pho
tượng, hệ thống sông Beiyang có 5.229 pho tượng, hệ thống sông
Jiuliuyang có 1.238 pho tượng. Bình quân mỗi làng có ít nhất bốn vị
thần, nhưng có làng trên 35 vị thần. Họ được thờ cúng trong hầu hết các
nghi lễ công cộng diễn ra quanh năm, nghĩa là ngoài lễ hội mỗi năm tổ
chức một lần. Chúng tôi nghe nói, nông dân vùng cửa sông chỉ cần ra
một đoạn là đến làng bên, trong một năm họ có đến 250 ngày tham dự
nghi lễ và xem kịch.
Những con số đó hoàn toàn không ủng hộ bức tranh thực tiễn truyền
thống đang thoát khỏi hiện đại hóa trước mắt có tính xâm thực và tính
bao dung. Ngược lại, điều tra này cuối cùng chứng minh sự phục hồi và
phát triển của hoạt động nghi lễ tôn giáo truyền thống trong dân chúng ở
một vùng của Trung Quốc kể từ khi Cách mạng Văn hóa kết thúc. Hơn
nữa, điều tra này hiển thị sự phồn vinh của hoạt động nghi lễ đương đại
như một bộ phận của lịch sử lâu đời của quyền lực địa phương và sự
quản lý nguồn lực địa phương, ít nhất có thể truy ngược về giữa thời
Minh. Phần trước tôi đã đề cập đến việc hội đồng miếu thôn và liên minh
nghi lễ ở Bồ Điền và gọi đó là “chính quyền thứ hai” của Trung Quốc,
cho thấy rằng, họ đã thực hành rất nhiều chức năng tự trị địa phương1.
Điều tra ở vùng Đồng bằng Bồ Điền đã vạch ra sơ đồ của 153 liên
minh nghi lễ. Việc thiết lập giới tuyến thể hiện rất khó khăn về mặt biểu
hiện, tri thức và quyền lực. Thực tế không tồn tại những tiêu điểm vật lý
giới tuyến của liên minh nghi lễ. Những giới tuyến này được thiết lập bởi
sự vận hành trùng lặp của bản thân người tham dự hoạt động nghi lễ -
những giới tuyến được thiết lập theo lộ trình đám rước thần linh không
ngừng được tái lập. Theo đó, chúng tôi trước hết vẽ ra giới hạn vật lý của
làng mạc, sau đó di động theo phạm vi tham dự liên minh nghi lễ của
người dân. Những liên minh nghi lễ này được thiết lập từ tầng bậc thấp
nhất, không dựa theo hình thức phân cấp và không gian hành chính theo
Kenneth Dean. Truyền thống nghi lễ tôn giáo 9
9
kiểu nhà nước. Như các nghiên cứu khác đã chỉ ra2, một bộ phận hệ
thống đền miếu và hoạt động nghi lễ địa phương ở vùng Bồ Điền có
mạng liên kết rộng lớn với các chi nhánh đền miếu ở vùng Đông Nam Á.
Mô tả về liên minh nghi lễ vừa có tính đa quốc gia vừa có tính địa
phương tuyệt đối như vậy khiến chúng ta có thể so sánh những cảm nhận
về không gian và thời gian khác nhau được thiết lập thông qua các hoạt
động nghi lễ ở Đồng bằng Bồ Điền.
4. Hàm nghĩa lý luận: trường vực dung hợp của hoạt động nghi lễ
Từ trình bày ngắn gọn về nghi lễ vùng Đồng bằng Bồ Điền và những
nghiên cứu sơ lược khác đề cập tới nhiều loại truyền thống nghi lễ khác
nhau theo dòng thời gian được giới thiệu và vận dụng thích hợp trong
văn hóa Bồ Điền như đã nêu ở trên, chúng ta có thể thấy, hoạt động
nghi lễ đương đại là hành động tập thể với sự phức tạp của thành phần
tham dự với rất nhiều vai trò khác nhau. Đặc điểm của hoạt động nghi
lễ này là các sự kiện và kết cấu nghi lễ có tính hỗn hợp đa dạng phát
triển ra từ nhiều trung tâm hoạt động. Những nghi lễ này thể hiện xu thế
đối lập giữa trật tự và hỗn loạn. Xem ra, chúng có thể tránh được sự
khống chế của bất cứ khuôn phép nào (tư bản chủ nghĩa, quốc gia chủ
nghĩa, hay địa phương chủ nghĩa), thay vào đó là sự hình thành nhiều
cơ cấu tham chiếu.
Vùng dung hợp của thực tiễn nghi lễ Trung Quốc (syncretic ritual
field) là sự sáng tạo trong thực tiễn nghi lễ trải qua rất nhiều thế kỷ, rồi
hình thành nên một trường vực lực lượng đa tầng (tầng tượng trưng, tầng
vũ trụ, tầng chính trị, tầng kinh tế xã hội). Mỗi tầng diện của kinh nghiệm
nghi lễ đều sinh ra từ một truyền thống nghi lễ đặc thù. Từ nghi lễ nhập
hồn đến nghi lễ Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo đều là nghi lễ tập thể
của liên minh khu vực. Mỗi truyền thống là hình thức nghi lễ trung tâm
và hữu hiệu nhất của một thời kỳ nhất định. Tất cả tầng bậc này đều do
kinh nghiệm bản thân trong phạm vi nhu cầu nào đó, đòi hỏi sức lao động
và nguồn tài nguyên tập thể, đồng thời điều động những lực lượng vũ trụ
sản sinh từ các hình thức nghi lễ. Nhiều tầng bậc của hình thức nghi lễ
cùng tồn tại ở vùng dung hợp. Mọi người đều đồng thời tham dự các tầng
bậc của nghi lễ thông qua tham gia hoạt động của ngôi chùa, ngôi đền,
Phật đường tại gia, hoặc hội đường Tam Nhất giáo, hoặc các đám rước
trong vùng. Nhưng đối với việc tìm hiểu lĩnh vực nghi lễ, điều quan trọng
hơn là, sự tồn tại đồng thời các tầng diện khác nhau của những hình thức
10 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 – 2014
10
nghi lễ này khiến cho tác dụng tương hỗ được tiếp tục thông qua trong
các tầng diện bên trong trường vực. Thông qua sự mô phỏng nhỏ nhặt,
khả năng hình thành nên hình thức nghi lễ hỗn hợp mới được sáng tạo ra
bởi quá trình đối lập và thích ứng có thể xảy ra. Mỗi hình thức nghi lễ
đều vay mượn nguyên tố của các hình thức khác. Một người có thể trở
thành không chỉ là một chuyên gia nghi lễ truyền thống. Ngoài ra, trên cơ
sở nhiều khuôn kết cấu nghi lễ được phát hiện trong nội bộ nghi lễ đương
đại ở vùng Bồ Điền, những nguyên tố thuộc tầng diện tương đối sớm mà
chúng ta phát hiện ra đều có tác dụng tích cực trong các hoạt động đặc
biệt hiện nay. Theo đó, tất cả tầng diện được hòa trộn vào trường vực
dung hợp của mỗi hoạt nghi lễ, lại được triển khai thông qua một loạt
hoạt động đồng thời được tiến hành ở nhiều trung tâm khác.
Trường vực dung hợp có thể dựa vào hai xu thế đối lập để phân tích,
tạm dùng một khái niệm bản địa có thể được gọi thành hai chiều hướng là
“thánh thiêng” (saintly) và “sức mạnh thánh linh” (spiritual power). Hoạt
động của lực lượng thiêng do nội lực bao gồm thiết lập một cách cẩn thận
đàn tế căn cứ vào vũ trụ mà tham chiếu định hướng; dự định vị thần sẽ
thỉnh về; các vũ đạo thông qua sự biến đổi khôn lường; bùa chú và mệnh
lệnh để thỉnh cầu thần linh; các hoạt động nghi lễ theo kiểu triều đình như
cúng tế và chuẩn bị; tụng niệm và chuyển đạt các tấu sớ và các giấy tờ
quan phương khác thông qua việc hóa vàng. Chức năng của lực lượng vũ
trụ tự nhiên thể hiện qua nghi lễ hầu đồng của người trung gian (ông bà
đồng), trạng thái xuất thần lan truyền một cách tự phát trong nhóm người
tham dự, thậm chí ngay cả khi một số ông bà đồng chuyên nghiệp đang
thăng đồng. Lĩnh vực nghi lễ được mở rộng ra trong lực hấp dẫn của hai
cực. Thời khắc khác nhau trong những thời gian nghi lễ không liên tục
với nhau, các ông bà đồng chuyên nghiệp (chuyên gia nghi lễ) có thể
chuyển đổi từ cực này sang cực khác. Những tín đồ trong cộng đồng dưới
bối cảnh hoạt động và hình thức nghi lễ có trật tự cũng bị dao động theo
trong sinh khí bừng bừng và hưng phấn.
Đặc điểm mang tính đa dạng và tính hỗn hợp của khung cấu trúc nghi
lễ và tính đa trung tâm của hoạt động nghi lễ khiến người ta rất khó (thậm
chí là không thể) đứng từ một góc độ đơn lẻ để giải thích về nghi lễ (với
tư cách là sự thể hiện của một hệ thống niềm tin tôn giáo hoặc hệ thống
giá trị đặc biệt, hoặc là sự biểu đạt chân thành của niềm tin tôn giáo cá
nhân). Việc gia tăng khung cấu trúc cơ sở (tương đối có quan hệ gián tiếp
Kenneth Dean. Truyền thống nghi lễ tôn giáo 11
11
với lực lượng vũ trụ và quan hệ trực tiếp không cần trung gian với thần
linh địa phương) hoàn toàn không thể giúp ích gì nhiều. Chúng ta cần
một lộ trình xem hoạt động nghi lễ đa dạng giống như lộ trình trải qua từ
nhiều điểm nhận biết, chứ không chỉ nắm giữ một phương pháp đơn lẻ
(lựa chọn hoặc là ý thức, hoặc là lý tính) coi đó như một xuất phát điểm
duy nhất để nghiên cứu nghi lễ.
Nguồn gốc lý luận của sự phân tích nói trên có thể thấy ở tác phẩm
của Gabriel Tarde, một nhà tư tưởng xã hội sơ kỳ. Tarde nhấn mạnh quy
tắc của sự mô phỏng, đối lập và thích ứng ở các tầng lớp xã hội. Hơn
nữa, định nghĩa xã hội của ông rất bao quát (đề cập tới bất cứ tổ chức tồn
tại nào, thậm chí là phân tử). Điều quan trọng hơn đối với nghiên cứu của
chúng ta là, Tarde ứng dụng xã hội học vi quan (microsociology) vào lý
luận về quy tắc xã hội của ông. Ông nhấn mạnh các tầng bậc khác nhau
trong sự cảm thức, phản ứng và hành động của mỗi cá nhân. Một xã hội
phân tử, khi nghiên cứu mỗi cá nhân với tư cách là bộ phận của một đoàn
thể xã hội rộng lớn, theo Tarde, cá nhân là do nhiều tầng lớp tri giác/ ý
thức tạo thành. Hơn nữa, các quan điểm khác nhau có thể xuất hiện ở
những tầng bậc khác nhau trong cùng một cá nhân. Tarde đã vận dụng
thuật ngữ của Leibniz và mô tả cá nhân là do đơn tử cấu thành: từ ý thức
tự giác ý thức cảm nhận bản thể đến tình cảm đa tầng, đến cảm nhận tiền
ý thức, đến tầng diện vô ý thức của ý thức. Mỗi điểm cảm thức hoặc đơn
tử khác nhau đều có sở thích và trình độ cảm thức không giống nhau.
Hơn nữa, mỗi tầng lớp, từ vô ý thức đến ý thức, đều là kết quả của tập
hợp khác nhau của đơn tử, một số nổi trội hơn số khác. Trên thực tế,
Tarde chỉ ra rằng, cá nhân được cấu thành bởi sự trùng lặp, hoặc chí ít là
do nhiều tầng cảm thức/ phản ứng tạo thành. Tarde đem loại phân tích
này liên hệ tới tính chủ quan tập thể (nhóm người, quân đội, chùa chiền,
công ty, v.v). Phương pháp xã hội học vi quan của Tarde đưa đến một
đường hướng mới nhìn nhận sự xuất hiện đồng thời của cá nhân và đoàn
thể xã hội. Việc coi sự tìm hiểu đối với ý thức hành động của đơn tử là sự
phân loại cực nhỏ về xã hội khiến chúng ta nhìn nhận xã hội từ góc độ
hành động, chú ý việc lực lượng xã hội xuất hiện trong tầng diện vi quan
như thế nào, sự thay đổi và sáng tạo nảy sinh ra sao.
Khác với Durkheim, Tarde không giả định về sự tồn tại của xã hội
(với tư cách là phán đoán tối hậu của mỗi cá nhân, thông qua sự hấp thu
từ xã hội để đạt được thân phận thống nhất), mà ông ra sức phân tích về
12 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 – 2014
12
cơ chế cụ thể của việc hình thành đoàn thể hoặc mạng lưới xã hội riêng
biệt. Phương diện này trong phương pháp của Tarde tương tự với mô
thức ANT (actor - network - theory: hành động - mạng lưới - lý luận) gần
đây3 mà Bruno Latour và những người khác đề xướng. ANT đứng từ một
mạng lưới để nhìn nhận yếu tố tổng thể có tác dụng lẫn nhau trong hệ
thống, bao gồm cả nguyên tố ngoài con người, ví dụ như vật thể, quá
trình vật lý, tài nguyên thiên nhiên, đặc điểm sinh thái, v.v Phương
pháp này rất có ích cho tôi trong việc tìm hiểu ảnh hưởng sự hạn chế về
mặt sinh thái của hệ thống thủy lợi vùng duyên hải đối với sự cấu thành
xã hội - nghi lễ (khu vực hoặc liên minh) ở Đồng bằng Bồ Điền. Đồng
thời, tôi cũng rất suy tư đối với câu của Tarde: “Mỗi sự vật đều là một xã
hội, mỗi hiện tượng đều là một thực tại xã hội”. Vì thế, tâm lý học rất
quan trọng đối với xã hội học. Hơn nữa, hành vi xã hội được sinh ra từ
trong tư tưởng của đơn tử, của nhiều tầng diện. Tư tưởng chính là hành vi
xã hội. Giữa đơn tử nhân loại đơn lẻ hoặc tổ chức tập thể đều không có
sự phân biệt hay đối lập. Cá nhân cùng xuất hiện với xã hội, xem ra giống
như kết quả trạng thái tinh thần của cá nhân, nhưng lại là sự tổng hợp/
phân chia của sự biến đổi xã hội nhỏ bé.
Quy tắc về sự mô phỏng, sự đối lập và sự thích ứng của Tarde, về mặt
bản thể, ảnh hưởng trước hết đối với đẳng cấp xã hội và thực tế xã hội.
Nếu chúng ta từ góc độ xã hội học lý giải quy tắc về sự mô phỏng ở tầm
mức cao giống như với chế độ, thì sẽ hoàn toàn để lọt sự vận động của
phân tử. Vì vậy, xã hội học vi quan cùng với sử học vi quan của Foucault
nảy sinh sự cộng hưởng. Học thuyết của Foucault đã đặt thân thể và kỹ
thuật chủ quan ở mặt bản thể lên trước mô thức sản xuất để mô tả lại tính
hiện đại. Sự mô phỏng, đối lập và thích ứng đã phát huy tác dụng trong
bất cứ tầng lớp và phạm vi nào, bằng phương thức nổi bật hoặc hình thức
nhỏ nhặt. Sự mô phỏng có thể lặp đi lặp lại tác dụng. Nhưng trải qua sự
can dự (đối lập) hoặc phát minh (thích ứng) nhỏ nhặt, mô phỏng (lặp lại)
có thể nảy sinh ra những sai lệch. Tarde không tìm kiếm mặt đối lập hoàn
toàn giống như trong phép biện chứng, mà nghiên cứu ảnh hưởng sự đối
lập của hình thức nhỏ nhất, ví dụ như hành động không kiên quyết. Tarde
không những suy tư về sự mô phỏng đối với những nhân vật và tư tưởng
vĩ đại, mà còn coi sự sáng tạo văn hóa là sự thích ứng tỷ mỷ về tư tưởng
và kỹ thuật để thảo luận. Các mức độ phân tích khác nhau cho thấy đặc
tính nổi trội đáng ngạc nhiên của hoạt động nghi lễ. Ở một tầng diện nào
Kenneth Dean. Truyền thống nghi lễ tôn giáo 13
13
đó, Tarde coi sự mô phỏng là “một sự lặp lại của sáng tạo mới”. Trong
bối cảnh nghi lễ, điều này có nghĩa là nhóm người tham dự được nhìn
nhận chỉ đang tiến hành mô phỏng lại một phát minh cách tân vĩ đại nào
đó. Nhưng triết học của Tarde còn có một tầng sâu xa hơn, ở đây “(mô
phỏng) là đưa ra sự lặp lại sai lệch”. Cũng ở tầng bậc này, Tarde loại bỏ
“giả thiết khách quan và tư tưởng của nhân vật vĩ đại (viết hoa)”, mà ủng
hộ “tư tưởng nhỏ của nhân vật nhỏ”. Sau đó chính là vấn đề của “can
thiệp và sáng tạo nhỏ trong xu thế mô phỏng”.
Xã hội học vi quan là một phương pháp đặc biệt có triển vọng đối với
việc nghiên cứu hoạt động nghi lễ của Đông Nam Trung Quốc, bởi vì
những hoạt động nghi lễ này luôn được sử dụng hết mức thuật ngữ của
trường phái Durkheim để phân tích. Chúng được coi là chỗ của xã hội
sinh sôi nảy nở, là nơi loại bỏ những cái khác biệt, trong đó những mô tả
về sự khác biệt hoặc sự tự trị của địa phương nhìn chung còn bỏ ngỏ một
cách rõ rệt. Dưới điều kiện của mô hình này, những khác biệt của địa
phương thế nào cũng phải nhượng bộ với trung tâm vương triều và trật tự
Nho giáo đã giả định của nó. Ở lĩnh vực khác, tồn tại mô tả khác tóm
lược về hoạt động nghi lễ, nhấn mạnh sự xuất hiện mang tính tự phát của
những thực tiễn này và sửa đổi lại toàn diện của trật tự xã hội. Nhưng
những cái nhìn lệch lạc trong nghiên cứu xã hội Đông Bắc Á trên một
mức độ rất lớn là nhằm vào nhà nước bất biến hoặc là khắc họa lại tính
đồng nhất nhà nước ban đầu. Đây là do hệ quả lý luận hiện đại hóa trong
khi hình thành khoa học nghiên cứu về khu vực. Hệ quả này được xác lập
nhưng chưa được kiểm tra.
Do xã hội học vi quan xem xét xã hội từ góc độ sự kiện, nó đi trước cả
logic không xác định của lý luận hiện đại hóa, trong đó tính nhị nguyên
của cá nhân và xã hội được chuyển đổi sang tính hiện đại và tính truyền
thống. Do vậy, để đẩy mạnh tình huống này, con người hiện đại thử Tây
hóa và hiện đại hóa nhằm phản kháng lại sự gò bó của lễ hội truyền
thống. Ý đồ này sẽ không khả thi, bất kể con đường hiện đại hóa tiến lên
bao xa.
Các khái niệm mô phỏng, đối lập và thích ứng của Tarde có thể được
áp dụng rộng rãi đối với hình thức nghi lễ ở Đồng bằng Bồ Điền trong
lịch sử. Ví dụ, trong tầng diện của thiết chế cơ bản nhất, tập họp dòng họ
sơ kỳ có ý đồ mô phỏng hoạt động nghi lễ của giới quý tộc. Các đoàn thể
dòng họ khác thông qua mở rộng đối tượng sùng bái vượt qua tổ tiên năm
14 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 – 2014
14
đời được quy định, đã thể hiện sự đối lập giữa họ với sự hạn chế (hoặc
bài ngoại) của nội bộ hệ thống thờ cúng tổ tiên truyền thống (hoặc bị bài
trừ ở ngoài). Cuối cùng, những nghi lễ tế tổ đã mở rộng mới đó thông qua
việc không ngừng chỉnh sửa ngày càng được nhiều dòng họ mới xuất
hiện ở Đồng bằng Bồ Điền áp dụng rộng rãi.
Nghi lễ Đạo giáo cũng thể hiện sự mô phỏng buổi thiết triều ở triều
đình. Những chuyên gia nghi lễ Nho giáo (Yanshi ở Bồ Điền) khi trợ
giúp các thành viên trong gia tộc và nhóm người thờ cúng ở đền miếu đã
mô phỏng một cách rõ ràng các điển lễ triều đình và nghi lễ truyền thống.
Ở phần trên đã trình bày việc tu sĩ Phật giáo và Tam Nhất giáo có thể làm
được ngang bằng, hoặc mô phỏng nghi lễ của Đạo giáo. Lực lượng đối
lập và thích ứng có thể thể hiện trong những mô tả tường tận đối với các
loại thần linh (lực lượng vũ trụ) mà nghi lễ truyền thống khác nhau (đối
lập) thỉnh cầu trợ giúp, đồng thời thể hiện trong đặc điểm nghi lễ vay
mượn nhau của chúng.
Tất cả những dẫn chứng này có khuynh hướng lý giải nghi lễ thành cỗ
máy của vương triều, sự mô phỏng hình thức nghi lễ triều đình chính
thống phổ cập khắp các vùng, được phép có sự đối lập và cải tạo ít nhiều
của địa phương. Theo đó để thấy rằng, nghi lễ với tư cách sự mô phỏng là
sự lặp lại của một sự vật, cùng với sự lặp lại đó đã gắn cá nhân vào trong
tính thống nhất văn hóa của nhà nước. Quan điểm này kết hợp rất tốt với
những nghiên cứu chính thống về văn hóa bá quyền và thực tiễn nghi lễ
Trung Quốc. Bởi vì, nó đã tạo khoảng trống cho các giải thích và cải biến
(biến đổi) về địa phương.
Tarde đề xuất một quy tắc khác có tầng diện sâu sắc hơn về sự mô
phỏng (lặp lại), đối lập (do dự) và thích ứng (sáng tạo), tốt nhất là tìm ở
tầng diện thân thể của kinh nghiệm cá nhân. (Điều này có thể được gọi là
xã hội học vi quan). Có người có thể muốn hỏi rằng, ông bà đồng mô
phỏng cái gì trong động tác xuất thần được thể thức hóa cao độ? Khi
hành động của cá nhân biến đổi đến mức gần như không tự giác nữa, thì
ai sẽ tiến hành mô phỏng? Bất luận thế nào, Tarde chỉ ra rằng, sự mô
phỏng ở mức sâu hơn có thể được lý giải là sự lặp lại những sai biệt của
bản thân (và tiếp tục tự phân chia) đối với sai khác tự thân, vì thế mở ra
một thế giới kinh nghiệm mới của các tầng bậc phân tử, cá nhân và tập
thể. Điều này đem sự mô phỏng về những sai biệt mở rộng ra “những
Kenneth Dean. Truyền thống nghi lễ tôn giáo 15
15
mâu thuẫn dễ thấy của nghi lễ, vốn là việc lên kế hoạch đi lặp lại những
cái không thể lặp lại”.
Sử dụng phương pháp này để nhìn nhận sự phát triển của hình thức
nghi lễ ở Đồng bằng Bồ Điền, chúng ta có thể phát hiện ra một động cơ
phát động sự biến đổi xã hội ngay từ trong nghi lễ, mà không chỉ là một
cỗ máy ép buộc việc tiếp thu tính đồng nhất (sự thống nhất của văn hóa,
sự công nhận của nhà nước, v.v). Ngoài ra, nhìn từ góc độ này, nghi lễ
không bị hạ cấp như một chất kết dính xã hội thông thường nhằm điều
hòa các chế độ khác nhau của nhà nước và địa phương; hoặc bị coi là cái
van xả bớt áp lực sự bất đồng trong xã hội; hoặc có thể bị tính không xác
định của nguồn gốc kết cấu thay thế. Tất cả những phương pháp này (bao
gồm phương pháp bá quyền văn hóa) đều biến nghi lễ thành một ống dẫn
với những thứ khác; hoặc là thủ đoạn đạt đến mục đích thống nhất văn
hóa, sự công nhận cá nhân, xã hội hài hòa, mà không phải là sự vật tự
thân tồn tại. Nếu nghiên cứu tất cả kinh nghiệm tương quan trong một
hoạt động nghi lễ, chúng ta sẽ vững tin rằng, kinh nghiệm của nghi lễ là
sự thực hiện tập thể đối với thế giới (tiềm tàng cái mới), mà không là sự
gia tăng lần nữa đối với những tư tưởng hoặc quan hệ xã hội được quyết
định sẵn./.
Trần Anh Đào dịch
CHÚ THÍCH:
1. Kenneth Dean (2001), “China’s Second Government: Regional Ritual Systems
in Southeast China”, in Collected Papers from the International Conference on
Social, Ethnic and Cultural Transformation, Center for Chinese Studies, Taipei:
77 - 109.
2. Kenneth Dean (2009), “Spirit Mediums as Global Citizens: Tracing Trans-
national Ritual Networks from the Village Temples of Shiting/ 石 庭, Putian/ 莆
田 to Southeast Asia”, forthcoming in Tan Wailun, ed., Studies on Chinese
Religion and Local History, CUHK Press, Hong Kong.
3. Bruno Latour (2005), Reassembling the Social: An Introduction to Actor-
Network-Theory, Oxford University Press, Oxford.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Talal Asad (1993), Genealogies of Religion: Discipline and Reasons of Power in
Christianity and Islam, Johns Hopkins Press, Baltimore.
2. Talal Asad (2003), Formations of the Secular: Christianity, Islam, Modernity,
Stanford University Press, Stanford.
16 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 – 2014
16
3. Catherine Bell (1989), “Religion and Chinese Culture: Toward an Assessment of
Popular Religion”, History of Religions, No. 29.
4. Alan John Uck Lum Chun (2000), Unstructuring Chinese Society: The Fictions
of Colonial Practice and the Changing Realities of “Land” in the New
Territories of Hong Kong, Harwood Academic, Amsterdam.
5. Kenneth Dean (1993), Taoist Ritual and Popular Cults of Southeast China,
Princeton University Press, Princeton.
6. Kenneth Dean (1998), Lord of the Three in One: The Spread of a Cult in
Southeast China, Princeton University Press, Princeton.
7. Kenneth Dean (1998), “The Transformation of State Sacrifice at the Altar in the
late Ming and Qing in the Xinghua Region”, Cahiers d'Extrême-Asie, No. 10: 19
- 75.
8. Kenneth Dean (2001), “China’s Second Government: Regional Ritual Systems
in Southeast China”, in Collected Papers from the International Conference on
Social, Ethnic and Cultural Transformation, Center for Chinese Studies, Taipei:
77 - 109.
9. Kenneth Dean (2009), “Spirit Mediums as Global Citizens: Tracing Trans-
national Ritual Networks from the Village Temples of Shiting/ 石 庭, Putian/ 莆
田 to Southeast Asia”, forthcoming in Tan Wailun, ed., Studies on Chinese
Religion and Local History, CUHK Press, Hong Kong.
10. Dean and Zheng Zhenman (1995), Epigraphical Materials on the History of
Religion in Fujian, Vol. 1: The Xinghua Region, Fujian Peoples Publishing
House, Fuzhou.
11. Dean and Zheng Zhenman (2003), Epigraphical Materials on the History of
Religion in Fujian: The Quanzhou Region, 3 vols, Fujian Peoples Publishing
House, Fuzhou.
12. Dean and Thomas Lamarre (2003), “Ritual Matters”, in T. Lamarre and Kang
Nai-hae eds., Traces 3: Impacts of Modernities, Hong Kong University Press,
Hong Kong: 257 - 284.
13. Dean and Thomas Lamarre (2007), “Microsociology and the Ritual-Event”, in
Anna Hickey-Moody and Peta Malins eds., Deleuzian Encounters: Studies in
Contemporary Social Issues, Palgrave Macmillan, London: 181 - 197.
14. Gilles Deleuze (1994), Difference and Repetition, London.
15. Hent De Vries (2008), “Introduction: Why Still Religion”, in Religion: Beyond a
Concept (The Future of the Religious Past, Vol. 1), Fordham University Press,
New York: 1 - 98.
16. Prasenjit Duara (1988), Culture, Power and the State: Rural North China 1900 -
1942, Stanford University Press, Stanford.
17. Prasenjit Duara (1995), Rescuing History from the Nation: Questioning
Narratives of Modern China, Stanford University Press, Stanford.
18. Daniel Dubuisson (trans. by W. Sayers, 2003), The Western Construction of
Religion, Johns Hopkins Press, Baltimore.
Kenneth Dean. Truyền thống nghi lễ tôn giáo 17
17
19. Johannes Fabian (2002), Time and the other: How Anthropology Makes its
Object, Columbia University Press, New York.
20. David Faure (1986), The Structure of Chinese Rural Society: Lineage and
Village in the Eastern New Territories, Hong Kong, Oxford University Press,
Hong Kong.
21. David Faure (2007), Emperor and Ancestor: State and Lineage in South China,
Stanford University Press, Stanford.
22. David Faure and Helen Siu eds. (1995), Down to Earth: The Territorial Bond in
South China, Stanford University Press, Stanford.
23. Stephen Feuchtwang (2001), Popular Religion in China: The Imperial
Metaphor, Surrey Curzon, Richmond.
24. Stephen Feuchtwang ed. (2004), Making Place: State Projects, Globalization
and Local Responses in China, UCL Press, London.
25. Stephen Feuchtwang, Fang-long Shih and Paul François Tremlett (2006), “The
Formation and Function of the Category Religion in Anthropological Studies of
Taiwan”, Method and Theory in the Study of Religion, No. 18: 37 - 66.
26. Timothy Fitzgerald (2000), The Ideology of Religious Studies, Oxford University
Press, Oxford.
27. Maurice Freedman (1974), “On the Sociological Study of the Chinese
Religion”, in A. Wolf ed., Religion and Ritual in Chinese Society, Stanford
University Press, Stanford.
28. Bruno Latour (2005), Reassembling the Social: An Introduction to Actor -
Network - Theory, Oxford University Press, Oxford.
29. Henri Lefebvre (trans. by D. Smith Nicholson, 1991), The Production of Space,
Blackwell, Oxford.
30. Ma Xisha/ 马 西 沙 and Han Bingfang/ 韩 秉 方 (1992), Zhongguo minjian
zongjiaoshi/ 中 国 民 间 宗 教 史 (Lịch sử tôn giáo dân gian Trung Quốc),
Renmin Chubanshe, Shanghai.
31. Ma Xisha/ 马 西 沙 ed. (2008), 中 国 民 间 宗 教 论 文 集 (Tập bài viết
về tôn giáo dân gian Trung Quốc), Beijing.
32. Tomoko Masuzama (2005), The Invention of World Religions: Or How
European Universalism was Preserved in the Language of Pluralism, University
of Chicago Press, Chicago.
33. Russell T. McCutceon (1997), Manufacturing Religion: The Discourse of Sui
Generis Religion and the Politics of Nostalgia, Oxford University Press, Oxford.
34. Daniel Overmyer (1976), Folk Buddhist Religion: Dissenting Sects in Late
Traditional China, Harvard University Press, Cambridge.
35. Daniel Overmyer (1999), Precious Volumes: An Introduction to Chinese
Sectarian Scriptures from the Sixteenth and Seventeenth Centuries, Harvard
University Press, Cambridge.
36. Hubert Seiwert (2003), Popular Religious Movements and Heterodox Sects in
Chinese History, Brill, Leiden.
18 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 6 – 2014
18
37. Gabriel Tarde (1999), Monadologie et Société (Oeuvres de Gabriel Tarde, Vol.
1, Institute Synthélabo, Paris.
38. Barend J. Ter Haar (1992), The White Lotus Teachings in Chinese Religious
History, Brill, Leiden.
39. Wang Mingming (1995), “Place, Administration and Territorial Cults in Late
Imperial China: A Case Study from South Fujian”, Late Imperial China, No. 16:
33-79.
40. Robert P. Weller (1999), Alternate Civilities: Democracy and Culture in China
and Taiwan, Boulder, Westview Press, Colorado.
41. C. K. Yang (1961), Religion in Chinese Society: A Study of Contemporary Social
Functions of Religion and Some of Their Historical Factors, University of
California Press, Berkeley.
42. Mai-hui Mayfair Yang (2000), “Putting Global Capitalism in Its Place”, Current
Anthropology, No. 41: 477 -509.
43. Fenggang Yang (2004), “Between Secularist Ideology and Desecularizing
Reality: The Birth and Growth of Religious Studies in Communist China”,
Sociology of Religion: A Quarterly Review, No. 2: 101 - 119.
44. Fenggang Yang and Joseph B. Tamney eds. (2005), “State, Market, and
Religions in Chinese Societies”, Religion and the Social Order, Vol. 11, Brill,
Leiden.
45. Anthony C. Yu (2005), State and Religion in China: Historical and Textual
Perspectives, Open Court, Chicago.
46. Zhenman Zheng (trans. by Michael Szonyi with the assistance of David
Wakefield and Kenneth Dean, 2000), Family Lineage Organization and Social
Change in Ming and Qing Fujian, University of Hawaii Press, Honolulu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25250_84593_1_pb_774.pdf