Từ bi của Phật giáo thời Lý - Trần là đỉnh cao của Bi - Trí/ đạo đức và
Trí tuệ của Phật giáo Phát triển, cũng là của dân tộc và nhân loại.
Thời đại văn minh vật chất, GDP được xem như là giá trị, là mục tiêu
tối cao đã và đang đẩy đạo đức nhân loại trở về quá khứ. “Con người
kinh tế”, “Con người văn minh dã man” càng ngày càng trở thành người
mẫu hiện đại, còn Con người thì ngày càng được kính nhi viễn chi. Chủ
nghĩa GDP giàu mạnh đang lạc lối trước cửa ngõ “trái tim của thế giới
không có trái tim” và đang cách xa thế giới tâm linh của con người.
Quyền lực, pháp chế, chế tài hình như đang nhường chỗ tình yêu
thương con người cho các tôn giáo. Từ bi của Phật giáo cũng ở trong số
đó. Nếu Từ bi của Phật giáo là đạo đức của dân tộc và nhân loại thì môi
trường sống sẽ không phải chết, quan hệ giữa con người sẽ là quan hệ
con người chứ không phải là quan hệ chó sói. Quan hệ giữa người và
người là quan hệ Từ bi, là Bi và Trí. Từ bi tồn tại cùng với nhân loại và
nhân loại sẽ tồn tại cùng với Từ bi./
10 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 808 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tôn giáo - Từ bi của phật giáo và đạo đức nhân loại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
116 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 – 2014
HÀ THÚC MINH(*)
TỪ BI CỦA PHẬT GIÁO VÀ ĐẠO ĐỨC NHÂN LOẠI
Tóm tắt: Bài viết này đề cập đến phạm trù Từ bi của Phật giáo
trong sự so sánh với các phạm trù Nhân ái của Nho giáo, Bác ái
của Kitô giáo; so sánh Từ bi của Phật giáo Việt Nam với Từ bi của
Phật giáo Trung Quốc; trên cơ sở đó, phân tích vai trò Từ bi của
Phật giáo đối với đạo đức dân tộc Việt Nam và nhân loại trong lịch
sử cũng như trong thời đại văn minh vật chất hiện nay.
Từ khóa: Từ bi, Nhân ái, Bác ái, Phật giáo, Nho giáo, Kitô giáo.
Phật giáo vào Việt Nam lúc nào thì Từ bi xuất hiện vào lúc ấy. Nói
đúng hơn, Phật giáo hay Từ bi cũng chỉ là một. Phật giáo ra đời không
ngoài mục đích giải thoát chúng sinh, giải thoát nhân loại khỏi khổ đau.
Có khổ đau mới có Từ bi, có Từ bi mới có Phật giáo.
Quán vô lượng thọ kinh chép: Tâm của chư Phật là tâm đại từ bi (Chư
Phật tâm giả, đại từ bi thị, 诸 佛 心 者 大 慈 悲 是). Đại trí độ luận giải
thích thêm: Hết thảy những điều trong Phật pháp, Từ bi là quan trọng
nhất (Nhất thiết chư Phật pháp trung từ bi vi đại, 一 切 诸 佛 法 中 慈 悲
为 大); Từ bi là gốc rễ của đạo Phật (Từ bi thị Phật đạo chi căn bản, 慈
悲 是 佛 道 之 根 本).
Phật giáo hay Từ bi đến với Việt Nam khác với Trung Quốc. Trung
Quốc dựa vào Nho giáo, Đạo giáo và các học thuyết có lịch sử lâu đời
chẳng kém gì Phật giáo ở Ấn Độ để lĩnh hội vị khách từ Tây Trúc viếng
thăm này. Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, quyển 117 cho rằng, Phật
giáo chẳng có gì mới cả: “Giáo lý của nhà Phật, về Thanh tịnh thì có
nguồn gốc ở Lão Tử, về Từ bi thì có nguồn gốc ở Mặc Tử” (Nhiên Phật
thị chi giáo, kỳ thanh tịnh thủ chư Lão, kỳ từ bi thủ chư Mặc, 然 佛 氏 之
教 其 请 净 取 诸 老 其 慈 悲 取 诸 墨)1.
* PGS., Ủy ban Giải thưởng Trần Văn Giàu, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hà Thúc Minh. Từ bi của Phật giáo 117
117
Có lẽ nên so sánh những điểm dị đồng giữa các học thuyết hơn là
khẳng định cái này từ cái kia mà ra. Việt Nam không có điều kiện để so
sánh như vậy, tam giáo gần như du nhập cùng một lúc. Lấy giáo lý để
lĩnh hội giáo lý như Mâu Tử trong Lý hoặc luận không phải là sở trường
của Việt Nam. Phật giáo vào Việt Nam từ dưới lên chứ không phải từ
trên xuống như ở Trung Quốc2. Cho nên, tam giáo đồng nguyên ở Việt
Nam là đồng nguyên ở tiêu điểm văn hóa truyền thống nhân ái, thương
người như thể thương thân. Nói cách khác, Từ bi của Việt Nam đã bắt
gặp Từ bi của tam giáo3. Tam giáo đồng nguyên ở thời Lý - Trần là Từ bi
thực hành được lý thuyết hóa. Sự thống nhất giữa Từ bi bên trên và Từ bi
bên dưới đã tạo thành sức mạnh phi thường trong lịch sử chống ngoại
xâm cũng như xây dựng đất nước ta. Nói cách khác, đồng nguyên giữa
tam giáo xuất phát từ lợi ích và tinh thần dân tộc chứ không phải từ lợi
ích, từ quyền lực của giai cấp thống trị.
Nếu như Từ bi trong truyện dân gian Quan Âm Thị Kính bị lãng quên
hay bị đánh mất, có nghĩa là xã hội đang đứng trước ngã ba đường về giá
trị đạo đức, văn hóa. 788 câu thơ lục bát của truyện Quan Âm Thị Kính có
thể tóm lại trong một chữ, đó là chữ Từ (câu 624). Ôi, chữ Từ của “một
thời để nhớ” là chữ Từ gắn liền với truyền thống văn hóa dân tộc, còn
chữ Từ “một thời để quên” là chữ Từ bị che lấp bởi đồng tiền và quyền
lực!
Như vậy, chữ Từ hay Từ bi ở mỗi thời đại khác nhau được nhận thức
và thực hành theo nhiều cách khác nhau.
Từ bi là Từ và Bi, là hai đức tính (tinh thần) cơ bản trong bốn đức tính
mà Phật giáo gọi là Tứ vô lượng (Caturapramana), hoặc Tứ vô lượng tâm
(四 无 量 心)4. Theo Câu xá luận, quyển 29, Vô lượng (无 量) nói về đối
tượng vô lượng, bao quát mọi chúng sinh, không hạn chế một ai cả (vô
lượng chúng sinh, 无 量 众 生) và hiệu quả vô lượng, lợi ích đem lại cho
chủ thể cũng như khách thể đạo đức là vô cùng lớn lao (vô lượng phúc
quả, 无 量 福 果).
Bốn đức tính đó gọi là Từ (慈/ Maittri/ Metta), Bi (悲/ Karuna), Hỷ
(喜/ Mudita), Xả (舍/ Upeksa/ Upekkha)5. Kinh tập giải thích: Từ là lòng
mong muốn đem lại lợi ích và an lạc cho người khác. Bi là hy vọng nhằm
118 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014
118
loại trừ những khổ đau không có lợi cho người khác hoặc có hại cho
người khác (Từ thị lợi ích hòa an lạc tha nhân đích tâm nguyện. Bi thị trừ
khử bất lợi tha nhân hoặc hữu hại tha nhân chi khổ chi hy vọng, 慈 是 利
益 和 安 乐 他 人 的 心 愿, 悲 是 除 去 不 利 他 人 或 者 害 他 人 之
苦 之 希 望).
Phật học đại từ điển Đinh Phúc Bảo định nghĩa, Tứ vô lượng là bốn
đức tính của Phật Bồ Tát gồm Từ, Bi, Hỷ, Xả. Tâm niệm đem lại niềm
vui cho người khác gọi là Từ; tâm niệm làm cho người khác bớt khổ đau
gọi là Bi; vui mừng vì chúng sinh được an lạc, tránh khổ đau gọi là Hỷ;
tâm niệm đối với chúng sinh không tính toán thân sơ, đối xử với mọi
người bình đẳng như nhau gọi là Xả (Phật Bồ Tát từ, bi, hỷ, xả chi tứ đức
dã. Dữ lạc chi tâm vi từ, bạt khổ chi tâm vi bi, hỷ chúng sinh ly khổ
hoạch lạc chi tâm viết hỷ, ư nhất thiết chúng sinh xả hận thân chi niệm
nhi bình đẳng nhất như viết xả, 佛 菩 萨 慈 悲 喜 舍 之 四 德 也,与 乐
之 心 为 慈,拔 苦 之 心 为 悲,喜 众 生 离 苦 获 乐 之 心 曰喜,于
一 切 众 生 舍 恨 亲 之 念 而 平 等 一 如 曰 舍).
Thông thường, Từ vẫn được hiểu là đem lại niềm vui (dữ lạc, 与 乐),
Bi có nghĩa là giảm bớt khổ đau (bạt khổ, 拔 苦). Nhưng không phải ai
cũng hiểu như vậy. Chẳng hạn Vãn sinh luận chú cho rằng, giảm bớt khổ
đau cho người khác gọi là Từ, đem lại niềm vui cho người khác gọi là Bi
(Bạt khổ viết từ, dữ lạc viết bi, 拔 苦 曰 慈,与 乐 曰 悲).
Niết Bàn kinh, quyển 14, cũng cùng kiến giải: Giảm bớt những gì
không có ích lợi cho chúng sinh gọi là Đại Từ, đem lại niềm vui vô hạn
cho chúng sinh gọi là Đại Bi (Vi chư chúng sinh trừ vô lợi ích thị danh
đại từ, dục dữ chúng sinh vô lượng lợi lạc thị viết đại bi, 为 诸 众 生 除
无 利 益 是 名 大 慈,欲 与 众 生 无 量 利 乐 是 名 大 悲).
Như vậy, Từ được hiểu là Bi và Bi lại được hiểu là Từ. Cái nọ thành
cái kia và cái kia thành cái nọ. Nhưng thực ra, Từ và Bi là hai mặt của
một vấn đề, cho nên gọi là Đại Từ, Đại Bi hay Đại Từ Bi cũng thế mà
thôi. Thậm chí, chỉ cần một chữ Từ cũng đủ rồi. Bởi vì, theo Nhân Vương
Hà Thúc Minh. Từ bi của Phật giáo 119
119
kinh, Từ là mẹ của mọi đức tính (Từ vi nhất thiết đức chi mẫu, 慈 为 一
切 德 之 母). Metta Sutta có thể gọi là Từ kinh hay Từ bi kinh cũng
chẳng có gì khác nhau. Cũng như Ngũ thường của Nho giáo bao gồm
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, nhưng gọn lại chỉ cần một chữ Nhân là đủ.
Từ của Phật giáo thường được ghép với Ái (爱) thành Từ ái (慈 爱).
Nhân (仁) là cốt lõi của Nho giáo, là Nhân ái (仁 爱), là yêu người. Ái
còn là một trong ba mỹ đức của thần học Kitô giáo, cũng là một trong ba
cương lĩnh của Chúa Giêsu6. Như vậy, phải chăng yêu thương mọi người,
yêu thương nhân loại là tiêu điểm của Phật giáo, Nho giáo và Kitô giáo?
Nhưng, tình thương hình như vẫn đang bị bóng đen của hận thù và dục
vọng vô bờ che lấp. Mahatma Gandhi, vị thánh của người Ấn Độ, đã từng
sống và kêu gọi mọi người hãy sống theo tinh thần “chấp trì chân lý”
(Satyafraha), nghĩa là từ bi, tình thương và phi bạo lực (Ahimsa).
Mahatma Gandhi đã cảnh báo về tám sai lầm lớn đối với nhân loại.
Nhưng chẳng bao lâu sau đó, ông bị hành thích. Nghe đâu, trước khi từ
giã cõi đời, ông còn đưa tay lên trán tỏ ý khoan dung cho kẻ đã hành
thích mình. Có thể trích ra đây một vài sai lầm mà ông đã phê phán: của
cải mà không tự mình làm ra, hưởng lạc mà vô lương tri, tri thức mà
không có phẩm hạnh, buôn bán mà không có đạo đức, khoa học mà
không có nhân tính, quyền lợi mà không có trách nhiệm, v.v...
Như vậy, hạnh phúc của con người được giải quyết bằng đạo đức,
bằng từ bi hay bằng bạo lực? Hầu như ít ai lại đồng tình bạo lực đem lại
hạnh phúc. Nếu như vậy, con người đâu có hơn gì con vật? Nhưng con
người cũng là con vật kia mà! Tính người đâu đã dễ dàng thắng được tính
động vật. Đức tính Từ bi cao cả của lý tính e rằng còn lâu mới có thể
thuyết phục nổi nắm đấm của những con người công nghiệp hóa và hiện
đại hóa. Chẳng trách học trò của Khổng Tử lại dám lên tiếng chê học
thuyết nhân ái của thầy là không thực tế (vu khoát). Còn Khổng Tử thì tự
an ủi rằng biết thừa là học thuyết của mình không thực thi được nhưng
vẫn cứ làm. Có lẽ, ông hy vọng rằng, một ngày nào đó trên trái đất,
thuyết nhân ái của ông sẽ chiếm được ưu thế chăng? Giá như sống lại ở
thế kỷ XXI, ông sẽ thấy mọi việc chẳng có gì khác xưa, thậm chí có khi
còn tệ hại hơn là đằng khác.
120 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014
120
Thuyết nhân ái nổi tiếng của Khổng Tử gồm hai nguyên tắc gọi là
Trung (忠) và Thứ (恕). Trong Luận ngữ, Khổng Tử giải thích Trung như
sau: Nếu ta muốn đứng được trong xã hội thì nên làm cho người khác
cũng đứng được như vậy, ta muốn được thành đạt thì nên làm cho người
khác cũng thành đạt như vậy (Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt
nhân,己 欲 立 而 立 人, 己 欲 达 而 达 人). Thứ nghĩa là cái gì mình
không muốn thì đừng làm cho người khác (Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân,
己 所 不 欲 勿 施 于 人). Nhưng giữa Trung và Thứ, Khổng Tử vẫn xem
trọng Thứ hơn là Trung. Tử Cống hỏi thầy, liệu có câu nói nào mà suốt
đời cần phải theo hay không? Khổng Tử đáp, đó là Thứ, nghĩa là cái gì
mình không muốn thì đừng làm cho người khác (Kỳ thứ hồ, kỷ sở bất dục
vật thi ư nhân, 其 恕 乎!己 所 不 欲 勿 施 于 人).
Không khó khăn lắm để tìm thấy những câu tương tự như thế trong
Kinh Thánh. Trong Tân Ước có câu: “Những gì anh em muốn người ta
làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Matthew 7:
12). Trong Cựu Ước cũng có câu tương tự như Thứ của Nho giáo: “Điều
gì con không thích thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tobias 4:15). Thomas
Hobbes trong tác phẩm Leviathan, khi đề cập về Nhà nước cũng đề cập
đến nguyên tắc vàng (Golden Rule) nói trên.
Thực ra, nguyên tắc vàng còn xuất hiện ở kinh điển nhiều tôn giáo
trên thế giới. Chẳng hạn như câu “Bất kỳ ai làm cho người khác những gì
mà mình không muốn thì kẻ đó không xứng đáng là tín đồ” của Islam
giáo (Bốn mươi Thánh huấn: 13); câu “Nhân loại nên lấy đạo lý của mình
để đối xử với kẻ khác” của Jaina giáo (Sutrakritanga: 11), v.v...
Nguyên tắc vàng phổ biến như vậy, nên Tuyên ngôn đạo đức toàn cầu
(Declaration Toward a Global Ethic)7 xem đó như là điểm đồng quy của
đạo đức nhân loại: “Hàng nghìn năm qua, rất nhiều tôn giáo và truyền
thống đạo đức của nhân loại đều duy trì một nguyên tắc, đó là: “Cái gì
mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Điều đó cần phải trở
thành nguyên tắc tuyệt đối vô điều kiện, thiên cổ không thay đổi trong
mọi lĩnh vực của đời sống, bao gồm gia đình, xã hội, các chủng tộc, các
quốc gia và các tôn giáo”.
Đó là điểm tương đồng giữa đạo đức và văn hóa Phương Đông và
Phương Tây. Tuy nhiên, ngay ở điểm tương đồng này cũng đã có dị biệt,
Hà Thúc Minh. Từ bi của Phật giáo 121
121
không chỉ giữa Phương Đông và Phương Tây, mà còn giữa Phương Đông
và Phương Đông. Kinh Thánh, hay văn hóa Phương Tây, thường tách biệt
giữa con người và tự nhiên, giữa chủ thể và khách thể, cho nên có phần
thiên về Trung hơn là Thứ. Cho nên, nguyên tắc Thứ của Khổng Tử bị
xem là có phần tiêu cực, còn Trung mới là tích cực. Nhiều học giả lại cho
rằng, Thứ mới là cơ bản, còn Trung mà Phương Tây đề cao có thể là
nguyên nhân của chủ nghĩa nhân loại trung tâm, Châu Âu trung tâm, cá
nhân trung tâm, chân lý bản vị, Cái gì mình thích, cái gì mình cho là
đúng thì nên/ bắt mọi người cũng thích và cho là đúng như mình.
Nói vậy thôi chứ không phải mọi người đều khen nguyên tắc Thứ của
Khổng Tử. Chưa chắc cái gì mình thích thì người ta cũng thích, cái gì
mình không thích thì người ta cũng không thích? Cho nên, suy bụng ta
không phải lúc nào cũng ra bụng người. Nhưng dầu sao, “hễ ta không
muốn thì người chẳng ưa”, nghĩa là đừng đụng đến người khác có lẽ còn
hơn là “hễ ta đã muốn thì người phải ưa”. Đó là chỗ kẹt của nguyên tắc
Thứ và Trung của Kitô giáo.
Xuất phát điểm, Từ bi của Phật giáo không phải từ chủ thể để đến với
khách thể, không phải suy bụng ta ra bụng người. Đã là Vô ngã thì làm
sao suy bụng ta được? Từ bi của Phật giáo không khiên cưỡng đem muốn
hay không muốn của mình áp đặt cho người khác8. Cơ sở của Từ bi
không phải là chủ nghĩa kinh nghiệm, cảm tính. Cho dù Vô ngã ở Phật
giáo Nguyên thủy chủ yếu là phê phán Vị ngã trên bình diện đạo đức,
nhưng từ thuyết duyên khởi Nagajruna/ Long Thọ đã tiến thêm một bước
thống nhất giữa Vô ngã và Tính không, giữa đạo đức và triết học. Cơ sở
của Từ bi không phải là kinh nghiệm, mà là triết lý “vô duyên đại từ,
đồng thể đại bi” (无 缘 大 慈 同 体 大 悲), nghĩa là Đại từ là do nhận
thức được Duyên là Không (Vô duyên), Đại bi là do lĩnh ngộ chúng sinh
và bản thân cùng một gốc (đồng thể). Cho nên, đạo đức và trí tuệ, hay Bi
và Trí trở thành yêu cầu không thể thiếu của Phật giáo Phát triển. A La
Hán (阿 罗 汉/ Arhat) là hình tượng của Phật giáo Nguyên thủy, chủ yếu
là tự độ, tự giải thoát, thịnh hành nhất ở thế kỷ II - III trước Công nguyên.
Bồ Tát/ 菩 萨 hay Bồ Đề Tát Đóa / 菩 提 萨 缍, Bồ Đề Tát Đa/ 菩 提 萨
多/ Bodhisattva/ Bodhisatta, mới thực sự là hình tượng của Phật giáo
Phát triển9. Bodhi nghĩa là trí tuệ, Satva nghĩa là chúng sinh hữu tình.
122 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014
122
Cho nên, Bồ tát được dịch là giác ngộ chúng sinh hữu tình (Giác hữu tình,
觉 有 情). Bồ tát bao gồm trí tuệ và từ bi, thể hiện của Từ bi lại là Bố thí.
Bố thí được xếp ở hàng đầu của Lục độ. Bố thí có nhiều hình thức, nhiều
phương pháp, nhiều cấp độ. Du già sư địa luận (Yogacarabhumi - Sastra)
chia Bố thí làm ba loại: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí. Bố thí không phải
chỉ là hành vi lợi người, thiệt mình, mà là hành vi tự lợi, lợi tha, thậm chí
không phân biệt giữa chủ thể và khách thể, giữa người bố thí và người
được bố thí. Kinh Kim cương đã từng lưu ý điều đó: Bồ tát cứu độ không
biết bao nhiêu là chúng sinh nhưng thực ra chẳng có chúng sinh nào được
cứu độ cả (Bồ tát diệt độ vô lượng chúng sinh thực vô chúng sinh đắc
diệt độ giả, 菩 萨 灭 度 无 量 众 生 实 无 众 生 得 灭 度 者).
Hoàn toàn không có sự phân biệt giữa người cứu độ và người được
cứu độ, cho nên Từ bi hay Bố thí không có thân sơ, trên dưới.
Khen cho ai đã chuyển từ độc thiện kỳ thân sang thiện cùng đại thiên
hạ. Vĩ đại thay cho tuyên bố: Ta không vào Địa Ngục thì còn ai vào Địa
Ngục? Chừng nào Địa Ngục còn chúng sinh thì ta thề không thành Phật
(Ngã bất nhập địa ngục thùy nhập địa ngục? Địa ngục bất không thệ bất
thành Phật, 我 不 入 地 狱 谁 入 地 狱?地 狱 不 空 誓 不 成 佛)10.
Như vậy, Phật không phải chỉ ở Niết Bàn mà còn ở Địa Ngục, ở nơi mà
chúng sinh cần đến Người hơn bất cứ nơi nào trên cõi đời này!!!
Nhân ái của Nho giáo dựa trên cơ sở huyết thống để phân biệt thân sơ,
dựa vào địa vị xã hội để phân biệt trên dưới. Phạm vi Nhân ái của Nho
giáo chủ yếu là con người chứ không bao quát mọi chúng sinh, mọi sinh
vật như Từ bi của Phật giáo. Cho nên, quan hệ giữa con người và tự
nhiên của Phật giáo có phần hài hòa hơn là “thiên nhân hợp nhất” của
Nho giáo. Từ bi của Phật giáo cũng không đặt con người vào vị trí trung
tâm vũ trụ hay con người được Thiên Chúa sinh ra để cai quản muôn loài
như Kitô giáo. Như vậy, hành tinh xanh đang cần đến Từ bi và Từ bi
cũng đang hướng về hành tinh xanh!
Không có hành tinh xanh thì cũng không có sinh vật, không có sự
sống và không có con người. Từ bi vô lượng hay Tứ vô lượng tâm của
Phật giáo chẳng phải với mục đích cao cả đó sao? Tuy nhiên, cái gọi là
Tình thương của Phật giáo đối với chúng sinh không hoàn toàn giống như
Bác ái của Kitô giáo hay Nhân ái của Nho giáo. Thậm chí, có người còn
Hà Thúc Minh. Từ bi của Phật giáo 123
123
cho rằng, Phật Thích Ca chưa bao giờ kêu gọi Bác ái như Kitô giáo cả.
Rắc rối có lẽ là tại chữ Ái mà ra. Chỉ có một chữ Ái nhưng lại được dịch
từ nhiều chữ Sanskrit, Pali khác nhau trong kinh điển Phật giáo Nguyên
thủy và Phật giáo Phát triển thì làm sao mà không rắc rối được?
Chữ Sanskrit hay Pali được dịch ra chữ Hán là Ái (爱), nhưng Ái lại
có nghĩa rộng hơn Love trong tiếng Anh hay Liebe trong tiếng Đức. Ái
trong kinh điển Phật giáo nói chung chia làm hai loại: loại chỉ đức tính tốt
và loại chỉ tính xấu, gọi là ô nhiễm, chấp trước. Ví dụ như Sneha có nghĩa
là cha mẹ thương (Ái) con (xem Phật sở hành tán), Preman/ Pema có
nghĩa là tình bằng hữu (xem Pháp cú kinh), Đó là những từ chỉ đức
tính tốt. Còn những từ có tính ô nhiễm cũng được dịch là Ái, ví dụ như
Chanda có nghĩa là ham thích (xem Tạp A hàm kinh), Trsna/ Tanha có
nghĩa là ham muốn (xem Câu xá luận và Tạp A hàm kinh), đều là
những từ thuộc loại chấp trước cần phải loại trừ.
Như vậy, có thể thấy, chữ Ái được dịch từ kinh điển Phật giáo chủ yếu
không biểu thị đức tính tốt mà thường ngược lại. Ngay ở Tứ diệu đế hay
Thập nhị nhân duyên, Ái và Dục là những từ đồng đẳng, được xem là
nguyên nhân cơ bản của khổ đau. Ái dục là yêu thích, là ham muốn
chiếm đoạt những đối tượng do nhân duyên hợp thành, không có tự tính,
thực ra là ảo, là không tồn tại. Cho nên, Từ bi của Phật giáo không hoàn
toàn giống như Bác ái của Kitô giáo hay Nhân ái của Nho giáo cũng là lẽ
đương nhiên11. Có lẽ vì vậy, Nagajruna/ Long Thọ đã chia Từ bi thành ba
mức độ: Chúng sinh duyên (众 生 缘), Pháp duyên (法 缘) và Vô duyên
(无 缘). Chúng sinh duyên là từ bi, bố thí cho chúng sinh những nhu cầu
thông thường thiết yếu đối với cuộc sống. Pháp duyên là từ bi đối với đối
tượng đã lĩnh hội được mọi sự vật là do nhân duyên hợp thành. Vô duyên
là từ bi đối với đối tượng đã lĩnh hội được nhân duyên cũng là Không/
Vô. Để lĩnh ngộ được điều đó, Từ bi hay Bố thí không thể thiếu trí tuệ. Bi
- Trí trở thành đặc điểm của Phật giáo Phát triển. Satparamita/ Lục Ba La
Mật (六 波 罗 蜜) đặt Bố thí ở hàng đầu và cả năm điều đầu tiên đều
thuộc về Bi, nhưng điều sau cùng không thể thiếu là Tuệ. Cho nên, Bi
thiếu Tuệ sẽ mất phương hướng, Tuệ thiếu Bi sẽ mất sức sống.
Phật giáo Việt Nam thời Lý - Trần đã kết hợp cao độ giữa Bi và Trí,
nhưng càng về sau hình như thiên về Bi hơn là Trí. Điều này phải chăng
124 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014
124
là do một trong những đặc điểm gọi là thiết thực của dân tộc Việt Nam đã
tác động? Thiết thực là không xa rời thực tế, không kinh viện, không lý
luận suông, nhưng lại có xu hướng xem thường lý luận. Quyền lực
thường được đặt ở vị trí cao hơn cả Bi lẫn Trí. Nói cách khác, Bi và Trí
thường không thống nhất với quyền lực. Sở dĩ như vậy vì, quyền lực là
thiết thực của thiết thực. Có quyền lực thì làm gì mà chẳng được, có
quyền lực thì muốn gì mà chẳng có. Quyền lực mới là mục đích, Bi - Trí
chỉ là phương tiện. Cho nên, Từ bi và Bồ tát trở thành đối tượng của cầu
đảo ở các lễ hội. Thay vì Bồ tát Quan Thế Âm và Từ - Bi - Hỷ - Xả chỉ là
một, thì nay hình tượng của Ngài lại được đồng nhất với tiền tài, lợi lộc,
thành đạt, thăng tiến,
Từ bi của Phật giáo thời Lý - Trần là đỉnh cao của Bi - Trí/ đạo đức và
Trí tuệ của Phật giáo Phát triển, cũng là của dân tộc và nhân loại.
Thời đại văn minh vật chất, GDP được xem như là giá trị, là mục tiêu
tối cao đã và đang đẩy đạo đức nhân loại trở về quá khứ. “Con người
kinh tế”, “Con người văn minh dã man” càng ngày càng trở thành người
mẫu hiện đại, còn Con người thì ngày càng được kính nhi viễn chi. Chủ
nghĩa GDP giàu mạnh đang lạc lối trước cửa ngõ “trái tim của thế giới
không có trái tim” và đang cách xa thế giới tâm linh của con người.
Quyền lực, pháp chế, chế tài hình như đang nhường chỗ tình yêu
thương con người cho các tôn giáo. Từ bi của Phật giáo cũng ở trong số
đó. Nếu Từ bi của Phật giáo là đạo đức của dân tộc và nhân loại thì môi
trường sống sẽ không phải chết, quan hệ giữa con người sẽ là quan hệ
con người chứ không phải là quan hệ chó sói. Quan hệ giữa người và
người là quan hệ Từ bi, là Bi và Trí. Từ bi tồn tại cùng với nhân loại và
nhân loại sẽ tồn tại cùng với Từ bi./.
CHÚ THÍCH:
1 Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu, quyển 117, Tử bộ tạp gia loại, Mặc Tử, quyển
15.
2 Những giả thuyết Phật giáo từ Ấn Độ vào Trung Quốc thường bắt đầu từ các vị
vua như Hán Vũ Đế, Hán Minh Đế, Tần Thủy Hoàng Chùa Bạch Mã đầu tiên
ở Trung Quốc xây dựng ở Lạc Dương là do lệnh của Hán Minh Đế (xem Lý hoặc
luận của Mâu Bác). Cao tăng truyện, Phật Đồ Trừng truyện ghi chép Hán Minh
Đế để cao tăng Ấn Độ dựng chùa ở Lạc Dương nhưng cấm người Hán xuất gia.
3 Phật giáo: Từ, Bi, Hỷ, Xả; Nho giáo: Nhân nghĩa, Nhân ái (Luận ngữ, Phàn Trì);
Đạo giáo: Từ, Kiệm, Bát vi thiên hạ tiên (Đạo đức kinh, chương 67).
4 Tiếng Anh dịch là Four Immeasurable Minds, Four unlimited Minds; tiếng Pháp
dịch là Quatre incommensurables.
Hà Thúc Minh. Từ bi của Phật giáo 125
125
5 Bhikshu Dharmamitra dịch sang tiếng Anh: Từ là Kindness, Bi là Compassion,
Hỷ là Delight, Xả là Renunciation. Những bản dịch khác: Từ là Loving -
Kindness, Bi là Compassion, Hỷ là Sympathetic Joy, Xả là Equanimity. Tiếng
Pháp dịch: Từ là Bienveillance, Bi là Compassion, Hỷ là Sympathie, Xả là
Équanimité, Détachement.
6 Ba mỹ đức gồm: Ái (Love), Vọng (Hope) và Tín (Faith).
7 Tuyên ngôn của Hội nghị Tôn giáo Thế giới lần thứ hai họp tại Chicago (Mỹ), từ
ngày 28/8 đến ngày 4/9/1993.
8 Tương ưng bộ kinh chép: Những gì ta không thích đương nhiên đừng làm điều
đó cho người khác. Làm sao mà ta có thể đem những điều không thích áp đặt cho
người khác được (Phàm bất năng thủ duyệt ư ngô nhân giả diệc tất bất năng thủ
duyệt ư tha nhân, ngô nhân hựu khả năng tương chi cưỡng gia ư tha nhân ni?).
9 Danh xưng Bồ tát ở thời Phật giáo Nguyên thủy chủ yếu để chỉ tiền thân của Đức
Phật Thích Ca.
10 Câu này được cho là trong Địa Tạng Bồ tát bản nguyện kinh. Nhưng theo chúng
tôi, bộ kinh này của Phật giáo không có nguyên văn câu nói trên.
11 Xem Phật giáo đại từ điển, Thương vụ án thư quán quốc tế hữu hạn công ty xuất
bản, 1992.
Abstract
COMPASSION KINDNESS OF BUDDISM AND HUMAN
MORALITY
This article mentioned a category of Compassion - Kindness of
Buddhism (Bhikshu Dharmamitra) in comparison with Mercy of
Confucianism and Charity of Christianity; This article also compared the
Compassion - Kindness of Vietnam Buddhism with that of China
Buddhism. Basing on the comparison, the author analysed the role of
Compassion - Kindness to the morality of Vietnamese and humanity in
history as well as in contemporary period.
Key words: Compassion, Kindness, Mercy, Charity, Buddhism,
Confucianism, Christianity.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23854_79840_1_pb_2461.pdf