Nhóm Toàn năng Thần giáo của Dương Hướng Bân cũng là mục tiêu
truy quét của chính quyền Trung Quốc nhiều năm qua. Sự kiện một
thường dân bị đánh chết tại Sơn Đông khi từ chối tham gia giáo phái
này, như đã đề cập, càng khiến công việc truy quét của cơ quan chức
năng được đẩy mạnh. Về giáo thuyết, Toàn năng Thần giáo thể hiện rõ
mục tiêu tối hậu là “diệt con rồng đỏ”, được cho là ám chỉ về Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Truy quét “tà giáo” này đối với chính quyền
Trung Quốc do đó là một cách dẹp đi nguy cơ tiềm ẩn về cạnh tranh tư
tưởng và chính trị.
21 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 650 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu tôn giáo - Ứng xử của một số nhà nước trên thế giới đối với hiện tượng tôn giáo mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được lập ra để
chống giáo phái, các phương tiện truyền thông đại chúng vốn chú ý nhiều
vào việc đưa tin giật gân, các chính trị gia, mà còn từ chính phủ các quốc
gia với công cụ luật pháp trong tay. Trải qua một thời gian khá dài, cho
tới nay, phản ứng của các quốc gia về hiện tượng tôn giáo mới thu hút
nhiều công trình nghiên cứu. Ba vấn đề cần làm rõ ở đây là thách thức mà
hiện tượng tôn giáo mới trong quá trình phát sinh và phát triển đặt ra
buộc các nước phải có cách thức ứng xử? Cách thức các nước giải quyết
thách thức từ hiện tượng tôn giáo mới? Tương lai mối quan hệ giữa nhà
nước với hiện tượng tôn giáo mới?
*
ThS., Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
40 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
Để góp phần làm rõ ba vấn đề nêu trên, bài viết tập trung khai thác các
công trình nghiên cứu về ứng xử các nước trên thế giới đối với hiện
tượng tôn giáo mới. Do hạn chế về dung lượng, bài viết chỉ chọn lựa và
phân tích ứng xử đối với hiện tượng tôn giáo mới của một số nước như
Nga, Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Úc, Nhật Bản, Singapore, Malaysia và Trung
Quốc. Việc làm rõ ba nội dung nêu trên có thể đóng góp cho việc tham
khảo và xây dựng nguyên tắc ứng xử đối với hiện tượng tôn giáo mới ở
Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX
đến nay.
2. Thách thức từ hiện tượng tôn giáo mới
Xuất hiện với nhiều đặc tính mới lạ, dị biệt, ngoại lai và đôi khi có
những hành động cực đoan, các hiện tượng tôn giáo mới mang lại nhiều
thách thức đối với xã hội và không gian tôn giáo nói chung, chính phủ
hầu hết các nước trên thế giới nói riêng. Mặc dù ở các nước phát triển, xã
hội hay các tổ chức tôn giáo đạt đến trình độ tự quản cao, nhưng thách
thức mà hiện tượng tôn giáo mới mang lại vẫn buộc phải có sự can thiệp
hay hiện diện của cơ quan công quyền một cách chủ động. Vậy đâu là
thách thức buộc chính phủ các nước phải lên tiếng và hành động đối với
hiện tượng tôn giáo mới? Nhiều nghiên cứu, sẽ được đề cập ở phần dưới
đây, đã chỉ ra rằng, đó là nhóm thách thức về mặt pháp lý và nhóm thách
thức về hài hòa tôn giáo, an ninh xã hội.
Thách thức về mặt pháp lý
Bên cạnh các vấn đề đặt ra liên quan đến đạo đức, lối sống, một số
hiện tượng tôn giáo mới còn mang lại các thách thức không dễ giải quyết
về mặt pháp lý, như vấn đề ảnh hưởng được cho là tiêu cực đến tín đồ,
vấn đề tư cách pháp nhân, vấn đề thuế và nghĩa vụ đối với nhà nước.
Về phía tín đồ, đã có một thời các hiện tượng tôn giáo mới bị vướng
vào nhiều cáo buộc liên quan đến hành vi tẩy não như thường thấy ở Mỹ
và Anh giai đoạn 1980 - 19901 hoặc “mê hoặc tâm lý” như ở Pháp2. Tổng
kết của các nhà nghiên cứu cho thấy, ở các nước Phương Tây, phần lớn
người theo các hiện tượng tôn giáo mới là thanh niên trẻ và người có học
thức3. Cáo buộc về “tẩy não” hay “mê hoặc tâm lý” hoặc “niềm tin có
tính bệnh lý” (pathological belief) thường xuất phát từ phụ huynh quan
ngại về chuyện con em mình bị lôi cuốn vào các loại hình tôn giáo chưa
rõ nguồn gốc, bỏ bê học hành, lệch lạc về tâm lý, đánh mất cơ hội về
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 41
41
công việc và sự nghiệp. Nhiều thanh niên trở thành các nhà gây quỹ
đường phố hoặc sống quần tụ trong những không gian chật hẹp cùng
nhiều người chưa kết hôn khác. Một số phụ huynh đã kiện các hiện tượng
tôn giáo mới ra tòa theo các cáo buộc này. Ở Mỹ, từ những năm 1970,
theo James T. Richardson, nhà nước rất khó can thiệp trực tiếp vào các
hiện tượng tôn giáo mới do hiến pháp nước này quy định về tự do tôn
giáo và vị trí của nhà nước. Sự can thiệp gián tiếp của nhà nước chỉ có
thể thấy qua hệ thống tòa án. Việc dùng hệ thống tòa án để chống lại các
hiện tượng tôn giáo mới ở Mỹ đầu tiên xuất hiện khi các bậc phụ huynh
có con em theo các hiện tượng này tìm cách đạt được quyền bảo hộ tạm
thời. Việc này tạo điều kiện cho các bậc phụ huynh có quyền hợp pháp để
kiểm soát con em của mình và sự hỗ trợ về thực thi luật pháp nhằm đưa
chúng trở lại cuộc sống bình thường4. Theo luật chung ở Mỹ, từ 18 tuổi,
thanh niên có thể sống hoàn toàn tự lập. Quyền bảo hộ tạm thời chỉ có thể
được trao cho phụ huynh theo quyết định của tòa án trong trường hợp con
em của họ được cho là cần phải có sự giám sát, bảo trợ dù đã qua 18 tuổi.
Các hiện tượng tôn giáo mới còn có những vấn đề pháp lý liên quan
đến trẻ em như ảnh hưởng về tôn giáo, giáo dục hay bị lạm dụng5. Người
ta quan ngại về việc cha mẹ li dị và để con em của mình cho một hiện
tượng tôn giáo mới nuôi nấng. Trong trường hợp như thế, đứa trẻ có thể
được lựa chọn về tôn giáo trước khi có đầy đủ nhận thức. Tiếp đến, việc
sống với một hiện tượng tôn giáo mới có thể hạn chế đứa bé tiếp cận hệ
thống giáo dục công lập. Ngoài ra, đôi khi một hiện tượng tôn giáo mới
cũng bị buộc tội về lạm dụng trẻ em, dù chứng cứ chưa rõ ràng.
Một vấn đề pháp lý nữa là việc một số hiện tượng tôn giáo mới chủ
trương chữa bệnh không dùng thuốc hay can thiệp y tế. Nhóm Christian
Scientists chống đối các tiêu chuẩn chăm sóc y tế vì tự cho là có kỹ thuật
“chữa bệnh tâm linh”. Trong khi đó, nhóm Nhân chứng Jehovah kiên
quyết phản đối việc cho và truyền máu. Việc này gây ra trở ngại lớn khi
một tín đồ bị bệnh và cần phải truyền máu, hoặc dùng thuốc nếu không
tính mạng sẽ bị đe dọa.
Cần nói thêm rằng, tham gia vào đòi hỏi về pháp lý chống lại hiện
tượng tôn giáo mới còn có các tổ chức xã hội, các chính trị gia hay các
tôn giáo truyền thống. Đây là lực lượng am hiểu luật pháp và có khả năng
gây ảnh hưởng đối với chính phủ và xã hội.
42 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
Trong vấn đề pháp lý, ở nhiều nước, việc trao tư cách pháp nhân cho
một hiện tượng tôn giáo mới không hề đơn giản. Vấn đề tư cách pháp
nhân luôn rất quan trọng đối với một tổ chức tôn giáo. Bởi vì, đó là sự
thừa nhận và bảo vệ trên phương diện luật pháp đối với một tổ chức tôn
giáo nhằm tránh phân biệt đối xử và giải quyết vấn đề sở hữu tài sản cũng
như vấn đề thuế đối với tổ chức tôn giáo này. Theo nhiều nhà nghiên cứu
luật pháp tôn giáo, tiêu biểu như Cole Durham (Hoa Kỳ) hay Đỗ Quang
Hưng (Việt Nam), lộ trình thường thấy của việc chính phủ cấp tư cách
pháp nhân cho một tổ chức tôn giáo, nghĩa là cho phép tổ chức tôn giáo
được bảo hộ về mặt luật pháp công bằng như các tổ chức tôn giáo được
công nhận trước đó, phải trải qua ba bước. Trước tiên, một tổ chức tôn
giáo mới cần phải đăng ký hoạt động với chính quyền. Sau khi đáp ứng
thời gian hoạt động đủ dài sau khi đăng ký mà không vi phạm pháp luật,
nó sẽ được xem xét để công nhận. Chỉ khi chính thức được nhà nước
công nhận thì một tổ chức tôn giáo như thế mới có được tư cách pháp
nhân đầy đủ6.
Có hai vấn đề chính trong việc xem xét tư cách pháp nhân cho một
hiện tượng tôn giáo mới: có nên thừa nhận một hiện tượng tôn giáo mới,
nếu có thì thừa nhận nó như một dạng đoàn thể xã hội (như các loại đoàn
thể thế tục khác) hay như một đoàn thể tôn giáo. Thực tế có những giai
đoạn, một số nước từ chối xem xét tư cách pháp nhân cho các hiện tượng
tôn giáo mới cụ thể. Vấn đề gây tranh cãi là liệu có thể coi đó là các tổ
chức tôn giáo thực sự hay không. Chẳng hạn, ở Úc, theo James T.
Richardson, các hiện tượng tôn giáo như Nhân chứng Jehovah, Những
đứa con Thần thánh, Giáo hội Thống nhất và Khoa học luận khi mới xuất
hiện ở quốc gia này đều bị chính quyền kiểm soát chặt chẽ và hạn chế
hoạt động. Trong những năm 1990, nhóm Khoa học luận bị cấm gián tiếp
ở một số tiểu bang của Úc như New Southwales hay Victoria. Các tiểu
bang này tuyên bố, đây là các dạng thức thực hành tâm lý. Do đó, lãnh
đạo hay tín đồ của nhóm Khoa học luận đều phạm pháp vì không đăng ký
thực hành tâm lý với chính quyền. Do bị xếp vào dạng thức thực hành
tâm lý, hiện tượng tôn giáo mới này không thể đăng ký pháp nhân, rao
giảng giáo lý hay cung cấp dịch vụ cho tín đồ7. Ở nước Anh, nhóm Khoa
học luận cũng khó khăn khi đăng ký tư cách pháp lý như một tổ chức từ
thiện tôn giáo theo luật pháp của quốc gia này. Theo Anthony Bradney,
điều đó do hai nguyên nhân cơ bản: thứ nhất, hiện tượng tôn giáo này
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 43
43
thiếu ý niệm về tôn sùng một vị thần thánh cụ thể; thứ hai, nếu lời rao
giảng của hiện tượng tôn giáo này có tính “nổi loạn về mặt đạo đức”, nó
không thể được trao cho tư cách một tổ chức từ thiện8.
Ở Pháp, theo Francis Messner, trong luật pháp quốc gia này không có
khái niệm “thiểu số”. Chính phủ Pháp thường xuyên từ chối công nhận
các “nhóm thiểu số” cả về tộc người, ngôn ngữ hay tôn giáo9. Luật pháp
của Pháp chỉ công nhận tự do cá nhân, và chính phủ không cho rằng, tự
do cá nhân được đảm bảo khi người dân tham gia các hội nhóm10. Trong
thảo luận về luật pháp chung cho Châu Âu, Hội đồng Hiến pháp của Pháp
khẳng định, Pháp là một quốc gia cộng hòa thế tục trung tính, cấm “bất
cứ ai lợi dụng tôn giáo của mình vào mục đích tránh tuân thủ các quy
định chung chi phối mối quan hệ giữa các cơ quan công quyền và các cá
nhân” (Quyết định số 99-412 DC, ngày 15/6/1999)11. Đây là cơ sở pháp
lý mà chính phủ Pháp thường dựa vào để từ chối công nhận tư cách pháp
nhân cho các nhóm tôn giáo thiểu số, đặc biệt là các nhóm tôn giáo
không có nguồn gốc Pháp.
Ở Singapore, theo Tan Kheng Boon, Điều luật về tổ chức xã hội của
quốc gia này quy định: “Một tổ chức xã hội đại diện, thúc đẩy hoặc thảo
luận về những vấn đề tôn giáo là một ‘tổ chức chuyên biệt’ và phải được
đăng ký theo quy định pháp luật”. Tại quốc gia này, một tổ chức xã hội
như thế nếu không đăng ký sẽ được coi là một tổ chức ngoài vòng pháp
luật và bị giải tán. “Việc yêu cầu đăng ký mang lại một cơ chế mạnh để
nhà nước có thể quản lý các nhóm tôn giáo thuộc diện “có thể ảnh hưởng
hòa bình, lợi ích và trật tự công cộng ở Singapore”12.
Nói chung, trăn trở và tranh luận về việc công nhận các hiện tượng tôn
giáo mới vẫn còn tiếp diễn ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. Ở Châu
Âu, theo khái quát của Rik Torfs, nguyên tắc chung của vấn đề này là
tinh thần khoan dung. Tuy nhiên, vì mỗi quốc gia thành viên của Liên
minh Châu Âu có khác nhau về hệ thống pháp lý, nên họ vẫn đang phải
tìm giải pháp hữu hiệu cho vấn đề các hiện tượng tôn giáo mới có thể tự
do thu giữ tài sản, có cần đến tư cách pháp nhân để đạt được mục đích
đó, có được phép hoạt động theo cơ chế một tổ chức phi lợi nhuận?
Những đặc quyền dành cho các tổ chức tôn giáo truyền thống có nên
dành cho các hiện tượng tôn giáo mới, hay những đặc quyền xưa cũ có
dần biến mất và thay vào đó là một sự công nhận quyền tự do tôn giáo về
44 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
mặt pháp lý chung cho tất cả loại hình tôn giáo, không có bất kỳ đặc
quyền nào?13
Ở khu vực Đông Nam Á, Malaysia là một quốc gia có cách tiếp cận
cởi mở với vấn đề đăng ký tư cách pháp nhân cho tổ chức tôn giáo. Chính
phủ Malaysia cho rằng, tổ chức tôn giáo không nên bị quản lý. Luật pháp
của nước này không đòi hỏi các tổ chức tôn giáo phải đăng ký hay giải
thích bất cứ điều gì với nhà nước. Nhà nước không can thiệp vào tổ chức
tôn giáo mà để các cộng đồng tôn giáo tự quản theo giáo lý và giáo luật
của mình. Người dân có thể thành lập một tổ chức tôn giáo theo hình
thức một công ty hay một đoàn thể. Đây là con đường để họ có thể đầy
đủ tư cách pháp nhân cho tổ chức tôn giáo của mình. Việc chính quyền
đòi hỏi tôn giáo phải đăng ký thậm chí có thể gây kết quả tiêu cực. Ví dụ,
việc này gây ra những chi phí không cần thiết cho thủ tục hành chính
cũng như việc chính phủ phải trả lương cho bộ phận làm công tác quản lý
hoạt động của tổ chức tôn giáo. Bên cạnh đó, việc đòi hỏi đăng ký có tác
dụng ngược. Nếu một tổ chức tôn giáo không thực hiện đăng ký, họ
đương nhiên bị coi là phạm pháp. Điều này cản trở những đóng góp hữu
ích của họ với xã hội. Hơn nữa, việc đòi hỏi đăng ký khơi rộng thêm
khoảng cách giữa chính phủ và người dân, do đó thúc đẩy xung đột hơn
là củng cố đồng thuận14.
Các hiện tượng tôn giáo mới cũng đặt ra thách thức về vấn đề thuế và
nghĩa vụ đối với nhà nước. Ở nhiều nước, chẳng hạn như Mỹ, Úc và Anh,
nếu đăng ký như một tổ chức tôn giáo và có các chương trình thiện
nguyện, các hiện tượng tôn giáo mới được miễn thuế. Nhưng một số hiện
tượng tôn giáo mới, chẳng hạn như Khoa học luận, đã vướng vào những
vụ kiện liên quan đến việc thu phí từ các dịch vụ tôn giáo hoặc bán vật
phẩm tôn giáo. Nếu không thành công trong việc thuyết phục chính
quyền rằng mình đáp ứng đủ các tiêu chí của một tổ chức tôn giáo như
những quy định trong văn bản pháp lý, các hiện tượng tôn giáo mới
không được quyền miễn thuế.
Vấn đề nghĩa vụ với nhà nước của các hiện tượng tôn giáo mới nổi bật
là nghĩa vụ quân sự và nghi lễ chào quốc kỳ. Với bất cứ quốc gia nào,
làm nghĩa vụ quân sự và chào quốc kỳ là sự thể hiện lòng trung thành với
đất nước và ý thức đóng góp cho lợi ích chung. Nhưng tín đồ của nhóm
Nhân chứng Jehovah kiên quyết từ chối thực hiện hai điều này. Đây là
mấu chốt cho những vấn đề mà hiện tượng tôn giáo này gặp phải ở
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 45
45
Singapore và nhiều quốc gia khác. Ở Singapore, nhóm Nhân chứng
Jehovah bị chính quyền quốc gia này cấm và giới hạn tự do tôn giáo.
Việc cấm chủ yếu liên quan đến vấn đề liệu các công dân thuộc diện phải
gia nhập lực lượng vũ trang nhưng vì lý do tôn giáo có thể được miễn
nghĩa vụ quân sự. Tòa án Singapore đã phải đưa ra phán quyết về vụ việc
này. Theo đó, nghĩa vụ quân sự là vấn đề thế tục, nên không thể chấp
nhận việc từ chối nhập ngũ vì lý do tôn giáo. Bởi vì, điều này sẽ ảnh
hưởng đến toàn bộ hệ thống nghĩa vụ quân sự của Singapore15.
Thách thức về hài hòa tôn giáo và an ninh xã hội
Bảo vệ hài hòa tôn giáo và an ninh xã hội là lý do quan trọng trong
việc các quốc gia phải chủ động ứng xử với hiện tượng tôn giáo mới.
Việc các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện là không thể tránh khỏi, bởi
nếu chúng không phải là nội sinh do sáng tạo cá nhân hay tiếp thu ý
tưởng từ nước ngoài, thì là ngoại sinh do đi theo các dòng người nhập cư
hợp pháp. Ở đây cần chú ý rằng, đôi khi một tôn giáo là cũ ở một bối
cảnh văn hóa này lại là mới trong bối cảnh văn hóa khác. Thế giới ngày
nay được định tính bởi quá trình toàn cầu hóa trên nhiều phương diện.
Nếu một hiện tượng tôn giáo mới nảy sinh và phát triển nhanh rộng ở
một khu vực địa lý nào đó, thì sớm hay muộn, người ta cũng sẽ thấy nó
xuất hiện ở khu vực khác. Khi các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện, câu
hỏi đáng quan tâm nhất, đâu là thách thức đối với việc đảm bảo hài hòa
tôn giáo và an ninh xã hội của chính phủ?
Thứ nhất, xuất hiện với tính cách là một nhân tố chưa từng biết, các
hiện tượng tôn giáo mới ảnh hưởng đến tính cân bằng và ổn định của bối
cảnh tôn giáo sẵn có. Không phải quốc gia nào cũng như nước Mỹ trong
việc gần như tuyệt đối ủng hộ tự do tôn giáo. Con số hơn 2.000 hiện
tượng tôn giáo mới xuất hiện ở Mỹ là một sự thực không thấy lặp lại ở
bất cứ nơi nào khác. Tính nguyên trạng của bối cảnh tôn giáo bị ảnh
hưởng không nhỏ khi các hiện tượng tôn giáo mới nảy sinh hay được du
nhập từ nước ngoài. Điều này tất nhiên gây ra những xáo trộn trong đời
sống tôn giáo nói chung. Xem xét cách phản ứng của nhà nước, nhiều
nghiên cứu chỉ ra rằng, Nga và một số quốc gia vùng Baltic đều không
thích điều này. Hơn nữa, trong bối cảnh một quốc gia cụ thể, bất kể thay
đổi về chính trị, các tổ chức tôn giáo tồn tại lâu đời đạt được ưu thế, đặc
quyền và có được ảnh hưởng với tín đồ, xã hội và thậm chí là chính trị.
Nay ưu thế của họ bị thách thức và cạnh tranh trước sự phát triển và lan
46 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
rộng của các hiện tượng tôn giáo mới. Dù các tổ chức tôn giáo truyền
thống phản ứng theo cách nào, chính quyền không thể làm ngơ bởi nguy
cơ tiềm ẩn về xung đột tôn giáo sẽ hình thành. Nhưng ứng xử của chính
quyền không khéo léo và công bằng thậm chí sẽ khơi sâu thêm mâu thuẫn
và xung đột.
Thứ hai, sự kiện khủng bố nhằm vào Trung tâm Thương mại ở Mỹ
ngày 11/9/2001 có tác động ghê gớm đến thái độ của các nước đối với
hiện tượng tôn giáo mới. Sau những sự kiện khủng bố được cho là của
Islam giáo cực đoan hoặc các hiện tượng tôn giáo mới hình thành dựa
trên niềm tin Islam giáo, nhiều nước buộc phải chuẩn bị biện pháp chủ
động và cứng rắn để tránh những sự kiện tương tự sẽ xảy ra. Đây cũng là
thách thức đáng kể bởi rất khó xác định đâu là các hiện tượng tôn giáo
mới dễ có hành động cực đoan và đâu là những giáo phái mới nhưng thực
hành tôn giáo một cách lành mạnh, không đe dọa về an ninh xã hội. Sự
liên kết giữa yếu tố tôn giáo và chủ nghĩa khủng bố là một vấn đề lớn của
thế giới ngày nay. Nhân danh chống khủng bố, nhiều nước đã phải đối
mặt với sức ép của công luận về hành động theo hướng hi sinh phần nào
tự do tôn giáo để đổi lấy an ninh xã hội và an toàn con người.
Thứ ba, đã có tiền lệ xấu trong việc một số hiện tượng tôn giáo mới có
những hành động bạo lực hướng vào bên trong và hướng ra bên ngoài.
Bạo lực hướng vào bên trong là những vụ việc dẫn đến thương tổn về
nhân mạng của chính thủ lĩnh và thành viên của hiện tượng tôn giáo mới.
Những vụ tự sát tập thể hay hành vi lạm dụng tình dục của giáo chủ đối
với tín đồ là những ví dụ hay được nêu ra về mặt trái của hiện tượng tôn
giáo mới: Ngôi đền Nhân dân với sự kiện hơn 900 người, trong đó có hơn
300 trẻ em, ở Jonestown, Mỹ đã tự sát bằng chất độc xyanua vào năm
1987. Phong trào Phục hồi 10 điều răn của Chúa (Movement for the
Restoration of the Ten Commandments of God) ở Uganda được quy trách
nhiệm dẫn đến vụ cháy năm 2000 làm chết 530 người có mặt tại một địa
điểm sinh hoạt tôn giáo. Người ta còn đặt nghi vấn về việc tự sát của lãnh
đạo và thành viên của hiện tượng tôn giáo mới này bởi có sự hiện diện
của chất nổ và chất độc axit sunfuric. Một số hiện tượng tôn giáo mới
khác có thể kể tên theo phân loại này như là Cổng Thiên Đường
(Heaven’s Gate) hay The Family.
Bạo lực hướng ra bên ngoài là các hiện tượng tôn giáo mới có hành
động cực đoan nhắm vào người ngoài tổ chức của họ. Tiêu biểu cho loại
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 47
47
hình này là nhóm Branch Davidans ở Texas, Mỹ, với hành động bắn chết
nhân viên chính phủ năm 1993 khi họ tới yêu cầu tiếp cận và điều tra việc
tàng trữ vũ khí. Ở Nhật Bản, trường hợp nhóm Aum Shinrikyo xả hơi độc
sarin làm chết thường dân ở ga tàu điện ngầm Tokyo năm 1995 là một
trường hợp tiêu biểu. Mới đây, ở Trung Quốc, một phụ nữ bị ba thành
viên của một hiện tượng tôn giáo mới được cho là cực đoan nhất nước
này có tên là Toàn năng Thần giáo, còn gọi là Tia chớp Phương Đông,
đánh chết ngay tại một cửa hàng McDonald ở tỉnh Sơn Đông. Hiện tượng
tôn giáo mới này do Dương Hướng Bân, một cựu nữ giáo viên vật lý, tự
nhận mình là Chúa Jesus tái sinh lập ra. Hiện tại, Dương Hướng Bân
đang sống ở Mỹ nhưng vẫn phát triển tín đồ ở Trung Hoa đại lục16. Sự
kiện nói trên là sự quá đà trong cách thức bắt ép người dân cải đạo theo
hiện tượng tôn giáo mới này.
Dư luận được thổi bùng bởi giới báo chí vốn có xu hướng đưa tin giật
gân về hiện tượng tôn giáo mới17 tạo sức ép rất lớn lên chính phủ trong
các sự kiện bạo lực hướng vào trong hay hướng ra ngoài của các vụ việc
nói trên. Thách thức đáng kể ở đây là nếu không quản lý các hiện tượng
tôn giáo mới bằng biện pháp bắt đăng ký và minh bạch hóa hoạt động
cũng như thông tin về thành viên thì chính phủ sẽ luôn đến muộn khi các
sự kiện tồi tệ bùng phát sau một thời gian dài âm ỉ. Nhưng nếu bắt đăng
ký và kiểm soát chặt chẽ, một số chính phủ sẽ vướng phải chính cam kết
về tôn trọng tự do tôn giáo và tự do cá nhân về mặt tinh thần vốn được
ghi trong hiến pháp lập quốc.
3. Ứng xử của một số quốc gia đối với hiện tượng tôn giáo mới
Các nước trên thế giới ứng xử rất khác nhau đối với sự phát sinh, phát
triển và thách thức của hiện tượng tôn giáo mới. Tựu trung lại, có thể
chia các cách ứng xử đó thành hai hướng chính: ứng xử ôn hòa và ứng xử
cứng rắn. Trong hai hướng ứng xử này, có cái chỉ đòi hỏi chính quyền lên
tiếng và bày tỏ lập trường, có cái buộc chính quyền phải thận trọng xem
xét và xây dựng luật pháp quản lý hiện tượng tôn giáo mới.
Ứng xử ôn hòa
Nhiều quốc gia ứng xử tương đối ôn hòa đối với các hiện tượng tôn
giáo mới. Nước Anh là một ví dụ. Ở quốc gia này, “về phương diện pháp
lý, cả hai chính phủ thuộc Đảng Bảo thủ hay Đảng Lao động đều nêu rõ
rằng, mặc dầu không thích có nhiều tôn giáo mới, nhưng họ không có ý
48 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
định đưa ra bất cứ luật đặc biệt nào nhằm vào các tôn giáo đó. Miễn là
các phong trào đó tuân thủ luật của khối thịnh vượng chung và luật hình
sự, chúng được tự do trong việc tin và làm điều mình muốn”18. Tuy
nhiên, phải nói thêm rằng, ở nước Anh, không hẳn là không có sự phân
biệt đối xử nào nhắm vào các hiện tượng tôn giáo mới. Năm 1968, các
điều khoản hạn chế được áp dụng đối với người nước ngoài tới Anh với
mục đích nghiên cứu hay làm việc cho nhóm Khoa học luận. Năm 1995,
chính phủ Anh từ chối cấp visa cho Sun Myung Moon, giáo chủ của Giáo
hội Thống nhất, vào nước Anh với lý do là sự hiện diện của nhân vật này
có thể không có lợi cho công chúng trên phương diện trật tự công cộng.
Một vài trường hợp thành viên của các hiện tượng tôn giáo mới như
Unification Church hay ISKON bị phân biệt đối xử tại tòa án19. Trước
yêu cầu của dư luận, cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, tổ chức INFORM
được thành lập. Tổ chức này được chính phủ, các tổ chức tôn giáo truyền
thống và lực lượng cảnh sát nước Anh tài trợ về kinh phí hoạt động với
mục đích duy nhất là theo dõi và cung cấp mọi thông tin khách quan về
các hiện tượng tôn giáo mới.
Nước Đức không có luật đặc biệt nào dành cho hiện tượng tôn giáo
mới. Chính phủ quốc gia này chủ yếu xuất bản sách cung cấp thông tin
về các hiện tượng tôn giáo mới. Năm 1996, một ủy ban được thành lập
nhằm mục đích cung cấp thông tin cho Nghị viện Đức. Ủy ban này kết
luận, các hiện tượng tôn giáo mới hiện tại chưa thể hiện nguy hại gì tới
nhà nước hay xã hội. Năm 1997, hội thảo của các bộ trưởng chính phủ
Đức quyết định đưa nhóm Khoa học luận vào chế độ giám sát. Tuy
nhiên, hành động của chính phủ Đức chưa bao giờ vượt quá việc thu
thập thông tin20.
Ở Châu Á, Singapore và Malaysia cơ bản chọn hướng ứng xử ôn hòa
đối với tôn giáo nói chung, các hiện tượng tôn giáo mới nói riêng. Ở
Singapore, một quan điểm được thống nhất là chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ và thống nhất đất nước là mục tiêu tối cao của hiến pháp, bao gồm cả
niềm tin tôn giáo và thực hành tôn giáo. Đây là quan điểm của Tòa án
Singapore khi phán quyết về nhóm Nhân chứng Jehovah. Quyền tự do
tôn giáo phải được cân bằng với lợi ích của cộng đồng và nhà nước giữ
vai trò trung tâm trong việc hạn chế những biểu hiện thiếu kiềm chế về
quyền tự do tôn giáo21 là hai nguyên tắc trong ứng xử của Singapore với
vấn đề hài hòa tôn giáo và an ninh xã hội.
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 49
49
Malaysia thậm chí còn cởi mở hơn với sự hiện diện của các hiện
tượng tôn giáo mới. Chính quyền nước này không bắt buộc các tổ chức
tôn giáo đăng ký hoạt động: “Thực tế, hầu hết các tôn giáo đều dạy tín đồ
phải trở thành công dân gương mẫu và ủng hộ chính phủ và nhà nước.
Nếu các tôn giáo được phép phát triển mà không buộc phải đăng ký, kết
quả là chúng sẽ có một sự hợp tác lành mạnh với nhà nước và toàn thể
công dân. Đòi hỏi đăng ký bắt buộc, nhà nước tuyên bố các nhóm tôn
giáo không đăng ký là chống chính phủ, và các nhóm không đăng ký như
thế là một nỗi lo sợ của chính phủ”22. Như thế, việc gián tiếp tạo ra và
duy trì căng thẳng giữa chính phủ và công dân là một trong những
nguyên nhân của bất an xã hội. Theo logic này, ngược lại, nếu chính phủ
tránh được việc tạo ra căng thẳng với bất kỳ nhóm xã hội dựa trên niềm
tin tôn giáo nào, bao gồm cả các hiện tượng tôn giáo mới, cũng có nghĩa
là chính phủ bớt thêm đi một nỗi lo về đảm bảo an ninh xã hội.
Nói chung, có thể thấy rõ, các quốc gia ứng xử ôn hòa với hiện tượng
tôn giáo mới thường là các nước có hệ thống pháp luật mạnh cùng năng
lực hệ thống tòa án tốt. Việc ứng xử ôn hòa với hiện tượng tôn giáo mới
ít thấy ở các quốc gia có nền tảng pháp lý yếu, hoặc có tiền lệ về xung
đột tôn giáo.
Ứng xử cứng rắn
Một số quốc gia áp dụng biện pháp cứng rắn trong ứng xử và quản lý
hiện tượng tôn giáo mới. Điều này một mặt do hiến pháp và những luận
giải hiến pháp về tự do tôn giáo cho phép, mặt khác là do sức ép công
luận ở các quốc gia ấy. Tiêu biểu nhất trong cách ứng xử cứng rắn đối
với hiện tượng tôn giáo mới có lẽ là trường hợp Trung Quốc ứng xử với
nhóm Pháp luân công. Bên cạnh đó, chúng ta có thể thấy rõ cách ứng xử
này qua quan điểm cương quyết của Pháp và Nga với các hiện tượng tôn
giáo mới có nguồn gốc nước ngoài.
Pháp Luân công là một trường hợp tiêu biểu nhất thể hiện mối quan
hệ căng thẳng giữa nhà nước và các hiện tượng tôn giáo mới không
được công nhận ở Trung Quốc. Scott Lowe chỉ ra rằng, Trung Quốc có
bề dày lịch sử tàn sát các loại tà giáo và hội kín, tiêu biểu là Bạch Liên
và Hội Tam hoàng: “Đối với Trung Quốc từ thời Mao Trạch Đông, các
tôn giáo là nguồn cội các tư tưởng cạnh tranh (với tư tưởng chính
thống), cung cấp những cơ sở có tính thay thế quyền lực và sự gắn kết.
Vì thế, chúng cần phải bị loại trừ. Nhiều thành viên của Pháp Luân
50 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
công, Zhong Gong, nhóm Tin Lành Shouters và nhiều nhóm tôn giáo
mới khác phải bị đi cải tạo, vào tù, tra tấn và chết”23. Hiện tại, hệ thống
luật pháp của Trung Quốc đóng vai trò thiết yếu trong các nỗ lực của
chính phủ nhằm hạn chế biểu đạt tôn giáo: “Nói chung, các tổ chức đã
đăng ký với chính quyền được hoạt động tự do, miễn là tuân thủ các
quy định chặt chẽ của chính phủ và chỉ tham gia vào các hoạt động
được phê chuẩn. Chính phủ đối xử rất mạnh tay với các nhóm không
đăng ký, bắt giữ lãnh đạo và đột nhập vào các tụ điểm hội họp. Từ
tháng 9/1999, việc cấm Pháp Luân công của chính phủ mở rộng sang
mọi nhóm khí công có tổ chức, không tính đến các yếu tố niềm tin hay
lãnh đạo. Chính phủ cương quyết rằng, họ không tấn công vào các tôn
giáo hợp pháp mà chỉ bảo vệ công chúng khỏi các tà giáo”24.
Nhóm Toàn năng Thần giáo của Dương Hướng Bân cũng là mục tiêu
truy quét của chính quyền Trung Quốc nhiều năm qua. Sự kiện một
thường dân bị đánh chết tại Sơn Đông khi từ chối tham gia giáo phái
này, như đã đề cập, càng khiến công việc truy quét của cơ quan chức
năng được đẩy mạnh. Về giáo thuyết, Toàn năng Thần giáo thể hiện rõ
mục tiêu tối hậu là “diệt con rồng đỏ”, được cho là ám chỉ về Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Truy quét “tà giáo” này đối với chính quyền
Trung Quốc do đó là một cách dẹp đi nguy cơ tiềm ẩn về cạnh tranh tư
tưởng và chính trị.
Ở Nga, sau khi Liên bang Xô Viết tan rã, chính quyền Nga được cho
là có truyền thống không ủng hộ đa dạng tôn giáo. Theo Marat Shterin,
phản ứng với các hiện tượng tôn giáo mới ở Nga đi từ chào đón, nghi
ngờ, e sợ tới thù địch. Phản ứng đáng kể đầu tiên của Nga là với nhóm
Great White Brotherhood. Nga xem xét các hiện tượng tôn giáo mới là
vấn đề sinh tồn quốc gia liên quan đến tính bất an của giai đoạn chuyển
đổi sang mô hình chính trị và kinh tế kiểu tư bản chủ nghĩa. Chính phủ
quốc gia này cho rằng, việc truyền đạo từ nước ngoài có thể làm mất cân
bằng dân tộc hoặc ảnh hưởng việc duy trì bản sắc văn hóa Nga. Việc
nhấn mạnh vào sự cần thiết trong xây dựng nước Nga dựa trên căn tính
lịch sử dẫn đến chia sẻ giữa Giáo hội Chính Thống giáo Nga và các cơ
quan nhà nước, đặc biệt trong quan ngại đến vấn đề an ninh quốc gia sau
các sự kiện với người Chenchen cũng như nỗi lo về việc cho phép các
nhóm Islam giáo quá khích nhập cư 25.
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 51
51
Từ năm 2000, Nga thảo luận Luật chủ nghĩa cực đoan và thông qua
luật này năm 2002. Tuy nhiên, theo Marat Shterin, chính sách của Nga về
vấn đề này không phải là luôn nhất quán. Tòa án Hiến pháp Nga đã dẫn
các nghị quyết trong việc lý giải quyền của nhà nước trong việc “cấm
hợp pháp hóa các giáo phái vi phạm quyền cá nhân và thực hiện các hoạt
động phi pháp hay có tính tội phạm, cũng như cấm các hoạt động truyền
giáo (bao gồm vấn đề cải đạo), nếu nó đi cùng áp lực tâm lý hay đe dọa
dùng bạo lực”26.
Anatoli Sokolov đã tổng hợp lại năm định hướng xây dựng chính sách
ứng phó với các hiện tượng tôn giáo mới của Nga, đó là:
1. Thành lập một trung tâm thông tin thế tục để nghiên cứu các hiện
tượng tôn giáo mới ở nước Nga hiện nay. Thành lập ngân hàng dữ liệu
thường xuyên cập nhật tất cả hiện tượng tôn giáo mới ở nước Nga, với
biểu hiện, cấu trúc và sự phát triển.
2. Đào tạo chuyên gia ở cấp độ nhà nước về tôn giáo có khả năng
nghiên cứu toàn diện và khách quan, đưa ra nhận xét và đánh giá cụ thể
về các hiện tượng tôn giáo mới.
3. Soạn thảo và ấn hành những cuốn sách phục vụ tra cứu, thường
xuyên tổ chức hội thảo chuyên môn về hiện tượng tôn giáo mới, trên cơ
sở đó vạch ra khuyến nghị cụ thể cho chính phủ.
4. Thường xuyên quan sát và giám sát, trong khuôn khổ pháp luật,
hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới để đảm bảo chúng phù hợp
với pháp luật hiện hành của Nga. Chuẩn bị đề phòng sự xuất hiện hoạt
động có tính tiêu cực và vi phạm pháp luật của các hiện tượng tôn giáo
mới phải trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
chính phủ.
5. Quan tâm đặc biệt đến công tác đề phòng những hoạt động phi pháp
liên quan đến lạm dụng tài chính27.
Như vậy, Nga là một quốc gia chủ động trong việc tìm đường hướng
và chiến lược ứng phó và quản lý các hiện tượng tôn giáo mới. Luật tự do
lương tâm và đoàn thể tôn giáo năm 1997 của Nga khẳng định sự ưu tiên
“các niềm tin có tính lịch sử của người Nga”, nhất là Giáo hội Chính
thống Nga. Nhóm tôn giáo thứ hai, được coi là các tổ chức đã đăng ký,
phải hiện diện ở Nga ít nhất 15 năm. Các tôn giáo khác, gồm các hiện
52 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
tượng tôn giáo xuất hiện gần đây bị hạn chế quyền lợi và chỉ hoạt động
với tư cách nhóm28.
Pháp cũng là một trường hợp tiêu biểu trong hướng khác của cách ứng
xử cứng rắn với hiện tượng tôn giáo mới. Daniele Hervieu Leger đã gọi
cách ứng xử của nước Pháp đối với hiện tượng tôn giáo mới là “nỗi ám
ảnh về sự đe dọa của giáo phái”. Pháp từng có một cuộc chiến chống hiện
tượng tôn giáo mới, khởi động từ những năm 1980 và rầm rộ từ tháng
8/2000. Hai hiện tượng tôn giáo mới được đề nghị xem xét cấm do “đặc
biệt nguy hiểm” là Khoa học luận và Đền Mặt Trời (Order of the Solar
Temple). Người ta đã đưa ra một danh sách 173 hiện tượng tôn giáo mới
cần quan tâm đặc biệt. Quốc hội Pháp từng bỏ phiếu cho việc huy động
phương tiện pháp luật để chống hiện tượng tôn giáo mới. Trong dự luật,
khái niệm trung tâm là “psychological manipulation” (kích động tâm lý).
Khái niệm này được coi như tội phạm và cần đưa vào Luật hình sự.
Daniele Hervieu Leger nhận xét: “Ở Pháp có một sự đồng thuận rộng lớn
(được duy trì bởi phương tiện truyền thông) rằng cuộc chiến chống hiện
tượng tôn giáo mới cần phải là một phương diện cần thiết của việc bảo vệ
tự do cá nhân và rằng cuộc chiến này cần phải chiếm thế thượng phong,
trong phân tích sau cùng, trước việc bảo vệ quyền mỗi người đối với tự
do tôn giáo”29.
Theo Daniele Hervieu Leger, người Pháp quan ngại về hiện tượng tôn
giáo mới chủ yếu là sự xuất hiện và phát triển của các niềm tin khó xác
định rõ rệt mà bất cứ lúc nào cũng có thể dẫn đến hành xử phi chính
thống, gây hại đến cố kết xã hội, đe dọa trật tự công cộng và các quan hệ
xã hội truyền thống. Cảm tính tôn giáo, khi vượt ra ngoài các tôn giáo
truyền thống, về mặt bản chất, có thể biến thể thành một dạng thức “niềm
tin có tính bệnh lý” (pathological belief) vốn hoàn toàn đối ngược với tự
do tư tưởng và tự quản cá nhân. Theo cách tiếp cận này, mọi hiện tượng
tôn giáo mới đều có tiềm năng đáng kể trong việc dẫn đến sự lầm lạc, do
đó xã hội phải tự bảo vệ mình trước. Để đánh tan bệnh lý hiện tượng tôn
giáo mới này (được gọi là sectarism) theo báo cáo của Liên Bộ chống
Giáo phái (MILS) năm 2000, nước Pháp đặt các hiện tượng tôn giáo mới
dưới sự giám sát chặt chẽ30.
Sau một thời gian thảo luận, Luật tháng 5/2001 được thông qua ở
Pháp. Mục đích của việc xây dựng luật này là dùng công cụ pháp luật
để “ngăn chặn các hoạt động tội phạm của các hiện tượng tôn giáo mới
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 53
53
có khả năng đe dọa nghiêm trọng đến quan hệ nhất quán giữa nhà nước
và công dân”31. Do việc thông qua luật này, nên năm 2001, Pháp được
xếp vào nhóm quốc gia hạn chế tự do tôn giáo thông qua các biện pháp
pháp lý (cùng với Trung Quốc, Indonesia, Sudan, Nigeria và
Turkmenistan)32.
Daniele Herview Leger và Susan Palmer cho rằng, luật có tính đàn áp
tôn giáo nêu trên liên quan nhiều đến chủ nghĩa quốc gia của Pháp và lịch
sử quyền lãnh đạo của Giáo hội Công giáo La Mã đối với thực hành tôn
giáo. Thức tỉnh bởi cuộc chiến Mỹ với Iraq, lòng thù địch với mọi thứ
liên quan đến Mỹ được dự báo là sẽ tăng lên ở Pháp. Các đoàn truyền
giáo cũng như các hiện tượng tôn giáo mới có nguồn gốc nước ngoài sẽ
bị nhìn nhận như những điệp viên của đế quốc Mỹ và sẽ kích thích sự phê
chuẩn của công chúng với những biện pháp kiềm chế sức ảnh hưởng33.
Trong quá trình xây dựng luật nói trên, Pháp phải trở lại xem xét
hiến pháp và các bộ luật quan trọng có những điều khoản về tự do tôn
giáo, tự do lập đoàn thể, hay đăng ký tổ chức tôn giáo. Francis Messner
chỉ ra rằng, nước Pháp phải trở lại xem xét và luận giải Luật 1905,
thường gọi là Luật Phân ly (nói về sự chia tách Nhà nước và Giáo hội).
Luật 1905 trao tự do công cộng cho các nhóm phái tôn giáo, bằng cách
tạo cho chúng một cấu trúc đoàn thể thích ứng với mục đích hoạt động.
Tuy nhiên, với tình hình hiện tại, nhất là sự quan ngại trước các hiện
tượng tôn giáo mới, luật này được coi là một công thức lạc hậu. Đó là lý
do chính mà luật mới về tôn giáo của Pháp phải được nghiên cứu và ban
hành34.
Ở Nhật Bản, chính phủ nước này đã bị gây sức ép về việc sự kiện giáo
phái Aum là cái giá phải trả cho việc không giám sát kỹ các hiện tượng
tôn giáo mới. Khi sự kiện đánh hơi gas độc ở khu vực tàu điện ngầm diễn
ra, chính phủ Nhật Bản mới thảo luận xem luật nào có thể áp dụng để
cấm hiện tượng tôn giáo mới này. Theo Ian Reader, có ít nhất hai bộ luật
được xem xét áp dụng cho trường hợp giáo phái Aum, đó là Luật hợp tác
tôn giáo (Religious Corporations Laws) và Luật chống lật đổ (Anti-
subversive Laws). Đến năm 1999, Nhật Bản thông qua một luật mới rất
hà khắc dành riêng cho giáo phái Aum dù vẫn cho hiện tượng tôn giáo
này hoạt động. Luật yêu cầu hiện tượng tôn giáo mới này phải thông tin
thường xuyên về mọi hoạt động của mình cũng như hồ sơ của mỗi thành
viên35. Trên phương diện rộng hơn, Nhật Bản đã sửa đổi và thông qua
54 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
Luật pháp nhân tôn giáo 1995. Tiêu điểm của luật sửa đổi là “tăng sự
giám sát của nhà nước đối với các tổ chức tôn giáo và yêu cầu các tổ
chức tôn giáo công khai tình hình tài chính”36, tất cả nhằm kiểm soát chặt
chẽ hơn hoạt động của các tổ chức tôn giáo.
Nói ngắn gọn, các quốc gia đều nhạy cảm với các vấn đề gây chia rẽ
tôn giáo mà về mặt lịch sử đã dẫn đến chiến tranh, đàn áp, bạo lực và
phân rẽ xã hội. Theo sự tổng kết của Coles Durham, có hai chiến lược đối
phó với vấn đề này: Một là, nhà nước cố triệt tiêu sự khác biệt bằng cách
đàn áp những niềm tin tôn giáo có tính chất gây chia rẽ. Hai là, nhà nước
quyết tâm thực hiện nguyên lý khoan dung, cho phép tồn tại một phổ
rộng khác biệt tôn giáo đến mức các niềm tin tôn giáo dù có khác biệt thế
nào vẫn có thể hòa đồng với nhau trong một xã hội ổn định. Kinh nghiệm
của các nước phát triển ổn định cho thấy, tôn trọng các niềm tin dị biệt,
gồm cả tôn giáo, sẽ mang lại hiệu quả cho chiến lược xây dựng ổn định
xã hội nhiều hơn là thẳng tay đàn áp chúng37.
4. Thay lời kết luận: tương lai mối quan hệ giữa nhà nước với hiện
tượng tôn giáo mới
Vấn đề hiện tượng tôn giáo mới đã không còn mới đối với thế giới
thời hậu hiện đại nữa. Trải qua một thời gian đáng kể, các xã hội đã quen
dần với sự xuất hiện của hiện tượng tôn giáo mới và sự căng thẳng đã
giảm đi. Thách thức của hiện tượng tôn giáo mới được tiếp nhận bình
tĩnh hơn, với tinh thần khoan dung có thể quan sát thấy được.
Chính phủ các nước đã có sự chuẩn bị tốt hơn trong ứng xử với những
sự vụ do các hiện tượng tôn giáo mới gây ra. Điều này không có nghĩa là,
các hiện tượng tôn giáo mới không bị quản lý chặt chẽ hoặc đàn áp. Tuy
nhiên, dù có môi trường tôn giáo ổn định thế nào đi nữa, không nhà nước
nào coi nhẹ vấn đề hiện tượng tôn giáo mới. Một số hiện tượng tôn giáo
mới lựa chọn cách phê phán chế độ để giành lấy sự chú ý của người dân.
Thách thức về uy quyền chính trị là một việc bất cứ chính phủ nào cũng
phải xem xét một cách nghiêm túc. Trên phạm vi toàn cầu, theo J.
Gordon Melton, hầu hết các quốc gia đều có đủ cơ chế luật pháp để điều
tra và xử lý sai trái do các hiện tượng tôn giáo mới thực sự gây ra. Bắt
buộc đăng ký hay hủy bỏ đăng ký hoạt động dù sao vẫn là một công cụ
mạnh và tiếp tục được chính phủ nhiều nước áp dụng nhằm quản lý và
kiểm soát các hiện tượng tôn giáo mới38.
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 55
55
Nếu sự đàn áp đối với hiện tượng tôn giáo mới tiếp tục được chính
quyền áp dụng, thì nó thường rơi vào trường hợp mà Phillip Charles
Lucas khái quát như sau: “Nhân số sau cùng đóng góp vào việc gia tăng
đàn áp tôn giáo mới và tôn giáo thiểu số trên thế giới là sự trỗi dậy của
chủ nghĩa quốc gia trong nhiều đất nước vốn đang phải vật lộn để xây
dựng bản sắc dân tộc rõ nét đi theo những thay đổi thể chế cấp tiến. Các
lực lượng dân tộc chủ nghĩa đôi lúc đứng về phía các tổ chức tôn giáo
truyền thống để tìm kiếm lại sự đồng thuận văn hóa bằng cách xóa đi
những tôn giáo được cho là phi truyền thống”39.
Ở một chiều hướng khác, hầu hết các hiện tượng tôn giáo mới đã
chín chắn hơn trong cách tìm chỗ đứng cho mình trong không gian tôn
giáo, văn hóa ở các xã hội cụ thể. Họ cũng điều chỉnh các thách thức
của mình và tìm kiếm sự tồn tại trong hòa hợp. Trong tình hình như thế,
có thể phán đoán ra hai xu thế của mối quan hệ giữa nhà nước và hiện
tượng tôn giáo mới, đó là xu hướng quản lý bằng luật pháp thông
thường và xu hướng tiếp tục tìm cách thể chế hóa hoạt động của hiện
tượng tôn giáo mới.
Hiện tượng tôn giáo mới vẫn xuất hiện bởi nhiều lý do có thể thấy
được. Trước hết, đó là sự tiếp tục của tính sống động tôn giáo vẫn chảy
ngầm trong văn hóa của nhiều dân tộc, đặc biệt là các quốc gia ở Châu Á.
Thứ hai, đó là sự phục hồi tôn giáo trên phương diện toàn cầu. Thứ ba,
các hiện tượng tôn giáo mới ra đời để đáp ứng sự xuất hiện nhu cầu tôn
giáo mà các tôn giáo truyền thống không có sẵn. Thứ tư, sáng tạo tôn
giáo vì mục đích phi tôn giáo, như lợi ích kinh tế, đoạt lấy quyền uy, thỏa
mãn tham vọng ảnh hưởng xã hội, mưu cầu động cơ chính trị, cổ xúy chủ
nghĩa quốc gia, là một chiến lược mà con người trong thế giới hậu hiện
đại vẫn thường dùng để tồn tại và vươn lên. Trong tình hình đó, chính
phủ các nước vẫn luôn phải tìm cách ứng phó để vừa đảm bảo cam kết về
tự do tôn giáo, vừa đảm bảo được uy quyền chính trị, an ninh xã hội và
lợi ích công cộng. Tuy nhiên, khi cần thiết, tự do tôn giáo sẽ thường phải
nhường sự ưu tiên cho an ninh quốc gia. Như thế, không có mô hình quan
hệ ổn định nào về tương lai của quan hệ giữa nhà nước và hiện tượng tôn
giáo mới./.
56 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
CHÚ THÍCH:
1 James T. Richardson (2005), “Law and Religion: Law and New Religious
Movements”, trong Lindsay Jones ed., Encyclopedia of Religion, Vol. 8, 2nd ed,
Macmillan Reference, Detroit: 5375 - 5379.
2 Daniele Hervieu Leger (2004), “France's Obsession with the ‘Sectarian Threat’”,
trong Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious
Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social Challenges in
Global Perspective, Routledge, New York.
3 Eileen Barker (2004), “General Overview of the ‘Cult Scene’ in Great Britain”,
trong Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious
Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social Challenges in
Global Perspective, Sđd.
4 James T. Richardson (2005), “Law and Religion: Law and New Religious
Movements”, trong Lindsay Jones ed., Encyclopedia of Religion, Vol. 8, 2nd ed.,
tlđd.
5 Anthony Bradney (2001), “New Religious Movements: The Legal Dimension”,
trong Bryan Wilson and Jamie Cresswell eds., New Religious Movements:
Challenge and Response, Routledge, New York; James T. Richardson (2005),
“Law and Religion: Law and New Religious Movements”, trong Lindsay Jones
ed., Encyclopedia of Religion, Vol. 8, 2nd ed., tlđd.
6 Cole Durham (2006), “Tiến trình và bối cảnh hiện tại của luật tôn giáo ở Đông
Nam Á: một cách nhìn so sánh”, trong Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ yếu
Hội thảo quốc tế “Tôn giáo và pháp quyền trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước
đầu thảo luận”, Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2006), “Công nhận tổ chức tôn giáo:
Một cách tiếp cận so sánh nhân trường hợp Việt Nam”, trong Viện Khoa học xã
hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tôn giáo và pháp quyền trong bối cảnh
Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”, Hà Nội.
7 James T. Richardson (2004), “New Religions in Australia: Public Menace or
Societal Salvation?”, trong Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New
Religious Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social
Challenges in Global Perspective, Sđd: 207.
8 Anthony Bradney (2001), “New Religious Movements: The Legal Dimension”,
trong Bryan Wilson and Jamie Cresswell eds., New Religious Movements:
Challenge and Response, Sđd: 90.
9 Francis Messner (2006), “Nhà nước và tôn giáo ở Pháp”, trong Viện Khoa học
xã hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tôn giáo và pháp quyền trong bối
cảnh Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”, Hà Nội.
10 Francis Messner (2006), “Nhà nước và tôn giáo ở Pháp”, bđd; Jean Paul
Willaime (2006), “Các tôn giáo thiểu số và Tin Lành trong quan hệ với luật tôn
giáo ở Pháp”, trong Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
“Tôn giáo và pháp quyền trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”,
Hà Nội.
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 57
57
11 Francis Messner (2006), “Nhà nước và tôn giáo ở Pháp”, bđd.
12 Tan Kheng Boon (2006), “Khuyến khích tiết chế tôn giáo giai đoạn hậu 11/9:
Kinh nghiệm từ Singapore”, trong Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội
thảo quốc tế “Tôn giáo và pháp quyền trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước đầu
thảo luận”, Hà Nội.
13 Rik Torfs (2006), “Kinh nghiệm của các nền dân chủ Phương Tây trong việc giải
quyết vai trò pháp lý của các tổ chức tôn giáo và cộng đồng tôn giáo”, trong Viện
Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tôn giáo và pháp quyền
trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”, Hà Nội.
14 Lee Min Choon (2006), “Vị thế pháp lý của tổ chức tôn giáo: Kinh nghiệm của
Malaysia”, trong Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tôn
giáo và pháp quyền trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”, Hà Nội.
15 Tan Kheng Boon (2006), “Khuyến khích tiết chế tôn giáo giai đoạn hậu 11/9:
Kinh nghiệm từ Singapore”, bđd.
16 Bên trong giáo phái cực đoan nhất Trung Quốc,
gioi/tu-lieu/ben-trong-giao-phai-cuc-doan-nhat-trung-quoc-3034397.html
17 Chung Hoang (2012), “New Religious Movements in Vietnamese Media
Discourse since 1986: A Critical Approach”, Australian Religion Studies Review,
Vol. 25: 293 - 315.
18 Eileen Barker (2004), “General Overview of the ‘Cult Scene’ in Great Britain”,
Sđd: 29.
19 Eileen Barker (2004), “General Overview of the ‘Cult Scene’ in Great Britain”,
Sđd: 30.
20 Brigitte Schoen (2004), “The Publicity of the Public Square”, trong Phillip
Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious Movements in the 21st
Century: Legal, Political, and Social Challenges in Global Perspective,
Routledge, New York.
21 Tan Kheng Boon (2006), “Khuyến khích tiết chế tôn giáo giai đoạn hậu 11/9:
Kinh nghiệm từ Singapore”, bđd.
22 Lee Min Choon (2006), “Vị thế pháp lý của tổ chức tôn giáo: Kinh nghiệm của
Malaysia”, bđd.
23 Scott Lowe (2004), “NRMs and the Limits of Chinese Freedom”, trong Phillip
Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious Movements in the 21st
Century: Legal, Political, and Social Challenges in Global Perspective, Sđd: 179
- 185.
24 Scott Lowe (2004), “NRMs and the Limits of Chinese Freedom”, Sđd: 187.
25 Marat Shterin (2004), “New Religions in the New Russia”, trong Phillip Charles
Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious Movements in the 21st Century:
Legal, Political, and Social Challenges in Global Perspective, sđd: 99-104.
26 Marat Shterin (2004), “New Religions in the New Russia”, Sđd: 108.
27 Anatoli Sokolov (2006), “New Religious Phenomena and the State Policies”,
trong Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tôn giáo và
pháp quyền trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”, Hà Nội.
58 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9 - 2014
28 Ian Reader (2004), “Japanese Paradigm Shift and Moral Panic in the Post-Aum
Era”, trong Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious
Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social Challenges in
Global Perspective, Routledge, New York.
29 Daniele Hervieu Leger (2004), “France's Obsession with the ‘Sectarian Threat’”,
Sđd: 50.
30 Daniele Hervieu Leger (2004), “France's Obsession with the ‘Sectarian Threat’”,
Sđd: 51.
31 Daniele Hervieu Leger (2004), “France's Obsession with the ‘Sectarian Threat’”,
Sđd: 56.
32 Susan J. Palmer (2002), “Fieldnote: France's Anti Sect Wars”, Nova Religio: The
Journal of Alternative and Emergent Religions, Vol. 6: 174 - 182; Susan J.
Palmer (2004), “The Secte Response to Religious Discrimination: Subversive,
Martyrs or Freedom Fighters in the French Sect Wars?”, trong Phillip Charles
Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious Movements in the 21st Century:
Legal, Political, and Social Challenges in Global Perspective, Sđd: 61.
33 Phillip Charles Lucas (2004), “Conclusion: The Future of New and Minority
Religions in the Twenty First Century: Religious Freedom under Global Siege”,
trong Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds., New Religious
Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social Challenges in
Global Perspective, Sđd: 354.
34 Francis Messner (2006), “Nhà nước và tôn giáo ở Pháp”, bđd.
35 Ian Reader (2004), “Japanese Paradigm Shift and Moral Panic in the Post Aum
Era”, Sđd: 194 - 195.
36 Nguyễn Ngọc Phương Trang (2012), Tôn giáo mới ở Nhật Bản từ sau Thế chiến
Thứ II đến những năm 1990, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội: 77.
37 Cole Durham (2006), “Tiến trình và bối cảnh hiện tại của luật tôn giáo ở Đông
Nam Á: một cách nhìn so sánh”, bđd.
38 J. Gordon Melton (2004), “The Fate of NRMs and Their Detractor in Twenty
First Century America”, trong Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds.,
New Religious Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social
Challenges in Global Perspective, Routledge, New York.
39 Phillip Charles Lucas (2004), “Conclusion: The Future of New and Minority
Religions in the Twenty First Century: Religious Freedom under Global Siege”,
Sđd: 352.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bên trong giáo phái cực đoan nhất Trung Quốc,
gioi/tu-lieu/ben-trong-giao-phai-cuc-doan-nhat-trung-quoc-3034397.html.
2. Chung Hoang (2012), “New Religious Movements in Vietnamese Media
Discourse since 1986: A Critical Approach”, Australian Religion Studies Review,
Vol. 25.
Hoàng Văn Chung. Ứng xử của một số nhà nước 59
59
3. Phillip Charles Lucas and Thomas Robbins eds. (2004), New Religious
Movements in the 21st Century: Legal, Political, and Social Challenges in
Global Perspective, Routledge, New York.
4. Susan J. Palmer (2002), “Fieldnote: France's Anti Sect Wars”, Nova Religio: The
Journal of Alternative and Emergent Religions, Vol. 6.
5. James T. Richardson (2005), “Law and Religion: Law and New Religious
Movements”, trong Lindsay Jones ed., Encyclopedia of Religion, Vol. 8. 2nd ed.,
Macmillan Reference, Detroit.
6. Nguyễn Ngọc Phương Trang (2012), Tôn giáo mới ở Nhật Bản từ sau Thế chiến
Thứ II đến những năm 1990, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Tôn giáo và
pháp quyền trong bối cảnh Đông Nam Á: Bước đầu thảo luận”, Hà Nội.
8. Bryan Wilson and Jamie Cresswell eds. (2001), New Religious Movements:
Challenge and Response, Routledge, New York.
Abstract
COMPORTMENT OF SOME STATES IN THE WORLD
WITH THE NEW RELIGIOUS MOVEMENTS
This article clarified contents related to the comportment of some
nations to the New Religious Movements which appeared all over the
world from the years 60s of the 20th century, such as States’ behavior
towards the challenge of the arising and developing of New Religious
Movements? States’ mode faces the challenges of the New Religious
Movements? The relation amongst States and the New Religious
Movement in the future? Clarifying these contents will help to establish
the principle of comportment with the New Religious Movements that
arose increasingly from the middle 1980s to present.
Keywords: Behavior, challenge, law, new religion.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26590_89309_1_pb_3027.pdf