Qua khảo sát trên chúng tôi thu được điều
kiện tối ưu để tổng hợp ZnAl2O4 là tỉ lệ mol
Zn2+/Al3+ = 1/2, tỉ lệ mol KL/PVA = 1/3,
nhiệt độ tạo gel tối ưu là 700C ở pH= 3, nhiệt
độ nung mẫu là 600oC trong thời gian 2 giờ.
Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của mẫu điều
chế ở điều kiện tối ưu (hình 7) cho thấy,
mẫu thu được là đơn pha ZnAl2O4. Oxit
ZnAl2O4 thu được có dạng hình cầu, kích
thước hạt nhỏ hơn 20 nm (hình 8-9). Diện
tích bề mặt riêng của oxit ZnAl2O4 đo được
theo phương pháp BET là 41,37 m2/g.
4. KẾT LUẬN
- Đã xác định được điều kiện tối ưu để tổng
hợp oxit nano ZnAl2O4 bằng phương pháp
đốt cháy gel là: tỉ lệ mol (Zn2+, Al3+)/PVA
= 1/3, nhiệt độ tạo gel 700C ở pH=3, nung ở
6000C trong 2 giờ.
- ZnAl2O4 thu được có dạng hình cầu, với
kính thước hạt < 20 nm và có diện tích bề
mặt riêng > 40 m2/g.
6 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 485 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tổng hợp oxit nano znal2o4 bằng phương pháp đốt cháy gel - Nguyễn Thị Tố Loan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
69
Tạp chí phân tích Hóa, Lý và Sinh học - Tập 20, số 3/2015
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP OXIT NANO ZnAl2O4
BẰNG PHƯƠNG PHÁP ĐỐT CHÁY GEL
Đến tòa soạn 16 – 7 – 2015
Nguyễn Thị Tố Loan, Nguyễn Quang Hải
Khoa hóa học, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên
SUMMARY
STUDING SYNTHESIS ZnAl2O4 NANOSIZED BY THE GEL
COMBUSTION METHOD
ZnAl2O4 powder has been synthesised at low temperature (6000C) by the combustion of gel
prepared from polyvinyl alcohol (PVA), aluminum nitrates, and zince nitrates.
Factors affecting the structure and particle size of nanometer oxides ZnAl2O4 include:
heating temperature, gelling temperature, molar ratio of metal ions, PVA concentration, pH,
heating time.
Study the crystal structure and morphology of the oxide by means of X-ray diffraction (XRD),
scanning electron microscopy (SEM), transmission electron microscopy through (TEM).
Further thermal treatment at 600-7000C in 2h yields the single phase ZnAl2O4. ZnAl2O4
powders with crystallite size 20 nm have been prepared. It specific surface area is 41,37
m2/g for ZnAl2O4
Keyword: Spinel, ZnAl2O4, nanomaterials, combustions, PVA
1. MỞ ĐẦU
ZnAl2O4 là một trong số oxit hỗn hợp được
sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học do ứng dụng phong phú của nó. Trong
lĩnh vực xúc tác, ZnAl2O4 đã được sử dụng
rộng rãi làm chất xúc tác cho nhiều phản
ứng hóa học [1] [2]. Các phương pháp
thường dụng để tổng hợp oxit này như
phương pháp đồng kết tủa [3], sol-gel [4],
thủy nhiệt [5]. Tùy thuộc vào từng
phương pháp điều chế mà oxit thu được có
những đặc trưng riêng. Trong bài báo này
chúng tôi trình bày kết quả nghiên cứu tổng
hợp oxit nano ZnAl2O4 bằng phương pháp
đốt cháy gel.
2. THỰC NGHIỆM
- Các hoá chất sử dụng trong nghiên cứu
đều là loại tinh khiết phân tích:
Zn(NO3)2.6H2O, Al(NO3)3.9H2O, polivinyl
ancol (PVA), NH3, CH3COOH.
- ZnAl2O4 được điều chế bằng phương pháp
đốt cháy gel polivinyl ancol (PVA). Dung
70
dịch muối Zn(NO3)2, Al(NO3)3 được khuấy
trộn với dung dịch PVA theo tỉ lệ mol
tương ứng. Điều chỉnh pH của dung dịch
rồi khuấy liên tục trên máy khuấy từ ở nhiệt
độ thích hợp cho đến khi hình thành gel
trong suốt. Sấy khô gel và nung ở các nhiệt
độ khác nhau
-Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen được đo trên
máy D8 ADVANCE Brucker của Đức với
CuK = 1,5406A
0 ở nhiệt độ phòng, góc
quét 2 = 0- 700, bước nhảy 0,030, điện áp
30KV, cường độ ống phát 0,03A. Kích
thước hạt trung bình (nm) của oxit được
tính theo phương trình Scherrer:
cos
.89,0
r , trong đó: r là kích thước hạt
trung bình (nm), là bước sóng K của
anot Cu (0,154056 nm), là độ rộng của
pic ứng với nửa chiều cao của pic cực đại
(FWHM) tính theo radian, là góc nhiễu
xạ Bragg ứng với pic cực đại (độ).
- Giản đồ phân tích nhiệt của gel được ghi
trên máy METTLER TOLEDO (Thụy Sĩ)
với tốc độ nâng nhiệt là 50C/ phút trong môi
trường không khí từ 30-8000C.
- Ảnh vi cấu trúc và hình thái học của mẫu
được chụp bằng kính hiển vi điện tử quét
(SEM) JEOL – 5300 (Nhật Bản) và truyền
qua (TEM) JEOL-JEM-1010 (Nhật Bản).
Diện tích bề mặt riêng của mẫu được đo
bằng phương pháp BET trên máy Tri star
3000 của hãng Micromeritic (Mỹ).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ
nung
Để xác định khoảng nhiệt độ nung thích hợp
chúng tôi dựa vào kết quả ghi giản đồ phân
tích nhiệt của gel. Điều chế gel của
Zn(NO3)2, Al(NO3)3 (tỉ lệ mol Zn2+/Al3+=1/2)
và PVA với tỷ lệ mol KL/PVA=1/3, nhiệt
độ tạo gel 700C. Để cho gel ổn định sau đó
ghi giản đồ phân tích nhiệt (hình 1).
Hình 1: Giản đồ phân tích nhiệt của gel
Zn2+-Al3+-PVA
Hình 1 cho thấy sự giảm khối lượng của gel
chủ yếu xảy ra trong khoảng 100-4000C.
Trong khoảng nhiệt độ này xảy ra sự mất
nước kết tinh, phân hủy ion NO3
- và phân
hủy PVA. Ở nhiệt độ lớn hơn 4000C sự
biến đổi khối lượng là rất ít, ở trên 4000C
thì hầu như không có sự biến đổi nào về
khối lượng, như vậy sự hình thành ZnAl2O4
là tinh khiết.
Hình 2: Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của mẫu
ZnAl2O4 nung ở các nhiệt độ khác nhau
Từ kết quả phân tích nhiệt, chúng tôi cho rằng
để thu được ZnAl2O4 tinh khiết phải nung ở
nhiệt độ trên 4000C. Do đó chúng tôi tiến
hành nung mẫu ở các nhiệt độ từ 500÷ 7000C.
5000C
6000C
7000C
71
Kết quả ghi giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của
các mẫu được đưa ra ở hình 2.
Từ hình 2 cho thấy ở nhiệt độ 500oC pha
của ZnAl2O4 chưa được hình thành. Từ 600
-700oC thu được đơn pha của ZnAl2O4. Khi
nung ở 600oC mẫu thu được có kích thước
hạt nhỏ hơn (19,6 nm) so với khi nung ở
7000C (28,6 nm). Do đó, chúng tôi chọn
nhiệt độ nung mẫu tối ưu là 600oC.
3.2. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian nung
Điều chế gel ở nhiệt độ là 700C, tỉ lệ mol
Zn2+/Al3+ =1/2 và (Zn2+,Al3+)/PVA=1/3.
Sấy khô rồi đem nung ở nhiệt độ 6000C
trong thời gian từ 1÷4 giờ. Kết quả ghi giản
đồ nhiễu xạ Rơnghen của các mẫu được chỉ
ra ở hình 3.
Hình 3: Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của các
mẫu ZnAl2O4 khi nung ở thời gian khác
nhau
Từ hình 3 cho thấy, trong khoảng thời gian
nung từ 1÷3 giờ đều thu được đơn pha
ZnAl2O4. Khi tăng thời gian nung mẫu, các
hạt tinh thể kết tinh hoàn chỉnh hơn và kích
thước hạt có xu hướng tăng từ 24,1 đến 28,6
nm. Khi nung mẫu là 4 giờ thì ngoài pha
ZnAl2O4 còn lẫn pha ZnO. Chúng tôi chọn
thời gian nung là 2 giờ để tiến hành khảo sát
vì ở thời gian này các hạt tinh thể kết tinh tốt
hơn và có kích thước nhỏ (bảng 1).
Bảng 1: Kích thước hạt tinh thể ZnAl2O4 ở các
thời gian nung khác nhau.
tnung
(giờ)
2θ β(độ) Độ kết tinh
(%)
r(nm)
1 36,889 0,343 58,65 24,1
2 36,902 0,305 62,46 27,1
3 36,950 0,289 64,00 28,6
3.3. Khảo sát ảnh hưởng của tỉ lệ mol
KL/PVA
Điều chế các gel của (Zn2+, Al3+)/PVA ở
nhiệt độ tạo gel là 700C với các tỉ lệ mol
khác nhau là 3/1; 2/1; 1/1; 1/2; 1/3. Sấy khô
các gel rồi đem nung ở nhiệt độ 6000C
trong 2 giờ. Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của
các mẫu trên được chỉ ra ở hình 4.
Từ hình 4 cho thấy, mẫu tổng hợp với tỉ lệ
mol KL/PVA là 3/1; 2/1 ngoài pha của
ZnAl2O4 còn lẫn pha của ZnO. Mẫu tổng hợp
theo tỉ lệ mol PVA/KL là 1/1; 2/1; 3/1 thì thu
được đơn pha của ZnAl2O4. Khi tăng lượng
PVA trong mẫu thì kích thước hạt giảm từ 23
nm xuống còn 19 nm (bảng 2). Ở đây có thể
do lượng PVA càng lớn thì sự phân bố của
ion kim loại càng đồng đều, gel tổng hợp
được càng xốp và cháy tốt làm cho hạt tạo
thành có kích thước càng nhỏ. Do đó chúng
tôi chọn tỉ lệ KL/PVA tối ưu là 1/3 để tiến
hành khảo sát các điều kiện tiếp theo.
Hình 4: Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của
mẫu ZnAl2O4 có tỉ lệ mol KL/PVA
khác nhau
1h
2h
3h
4h ●
● ZnO
3/1
2/1
1/1
1/2
1/3
*
*ZnO
*
*
72
Bảng 2: Kích thước hạt tinh thể ZnAl2O4 ở
các tỉ lệ mol KL/PVA khác nhau.
KL/PVA 2θ β(độ) r(nm)
1/1 36,908 0,361 22,9
1/2 36,805 0,403 20,6
1/3 36,883 0,421 19,6
3.4. Khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ tạo
gel
Điều chế các mẫu với tỉ lệ mol KL/PVA=
1/3, ở các nhiệt độ tạo gel khác nhau từ
50÷900C. Sấy khô và nung gel ở 600oC
trong 2 giờ. Kết quả ghi giản đồ nhiễu xạ
Rơnghen của các mẫu trên được chỉ ra ở
hình 5.
Từ hình 5 cho thấy ở các nhiệt độ tạo gel
từ 50÷900C đều thu được đơn pha của
ZnAl2O4. Ở đây nhiệt độ tạo gel không ảnh
hưởng đến sự tạo thành pha của ZnAl2O4.
Khi tạo gel ở 700C mẫu thu được có kích
thước hạt nhỏ hơn (bảng 3). Ở nhiệt độ
500C thời gian tạo gel quá lâu không
thuận lợi cho quá trình thực nghiệm, còn
ở 900C thì nhiệt độ tạo gel quá cao sẽ dễ
làm cho gel cháy trong quá trình thực
nghiệm. Do đó chúng tôi chọn nhiệt độ
tạo gel tối ưu là 700C.
Hình 5: Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của
mẫu ZnAl2O4 khi tạo gel ở nhiệt độ
khác nhau
Bảng 3: Kích thước hạt tinh thể ZnAl2O4 ở
các nhiệt độ tạo gel khác nhau.
ttạo gel 2θ β(độ) r(nm)
50oC 36,875 0,339 24,4
70oC 36,950 0,421 19,6
90oC 36,902 0,327 25,3
3.5. Khảo sát ảnh hưởng của pH tạo gel
Điều chế các mẫu với tỷ lệ mol
KL/PVA=1/3, ở các pH tạo gel khác nhau
từ 2 ÷ 5. Sấy khô gel, sau đó nung ở 6000C
trong 2 giờ. Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của
các mẫu trên được chỉ ra ở hình 6.
Từ hình 6 cho thấy ở các pH tạo gel bằng 3
và 4 đều thu được đơn pha của ZnAl2O4.
Tuy nhiên, ở pH = 2 và pH = 5 thì ngoài
pha của ZnAl2O4 là chủ yếu còn có pha của
ZnO. Với mẫu tạo gel ở pH=3 cho kích
thước hạt nhỏ hơn (24,4nm) và độ kết tinh
cao hơn với mẫu tạo gel ở pH=4 (26,7nm)
nên chúng tôi chọn pH tạo gel tối ưu là 3.
3.6. Xác định các đặc trưng của mẫu
điều chế ở điều kiện tối ưu
Qua khảo sát trên chúng tôi thu được điều
kiện tối ưu để tổng hợp ZnAl2O4 là tỉ lệ mol
Zn2+/Al3+ = 1/2, tỉ lệ mol KL/PVA = 1/3,
nhiệt độ tạo gel tối ưu là 700C ở pH= 3, nhiệt
độ nung mẫu là 600oC trong thời gian 2 giờ.
Hình 6: Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của
mẫu ZnAl2O4 ở các pH tạo gel khác nhau
pH=2
pH=3
pH=4
pH=5
* *
*
*ZnO
700C
900C
500C
73
Faculty of Chemistry, HUS, VNU, D8 ADVANCE-Bruker - Sample HA6
03-065-3104 (C) - Aluminum Zinc Oxide - Al2ZnO4 - Y: 62.43 % - d x by: 1. - WL: 1.5406 - Cubic - a 8.08700 - b 8.08700 - c 8.08700 - alpha 90.000 - beta 90.000 - gamma 90.000 - Face-centered - Fd-3m (2
1)
File: Ha TN mau HA6.raw - Type: 2Th/Th locked - Start: 20.000 ° - End: 70.010 ° - Step: 0.030 ° - Step time: 1. s - Temp.: 25 °C (Room) - Time Star ted: 11 s - 2-Theta: 20.000 ° - Theta: 10.000 ° - Chi: 0.00 °
Left Angle: 35.540 ° - Right Angle: 38.090 ° - Left Int.: 5.00 Cps - Right Int.: 5.00 Cps - Obs. Max: 36.883 ° - d (Obs. Max): 2.435 - Max Int.: 1126 Cps - Net Height: 1121 Cps - FWHM: 0.421 ° - Chord Mid.
Li
n
(C
ps
)
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1000
1100
1200
1300
1400
1500
2-Theta - Scale
20 30 40 50 60 70
d=
2.
85
4
d=
2.
43
6
d=
2.
02
0
d=
1.
85
4
d=
1.
65
0
d=
1.
55
5
d=
1.
4
29
Hình 7: Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của
mẫu ZnAl2O4 điều chế ở điều kiện tối ưu
Hình 8: Ảnh hiển vi điện tử quét (SEM)
của mẫu ZnAl2O4 điều chế ở điều kiện
tối ưu
Hình 9: Ảnh hiển vi điện tử truyền qua
(TEM) của mẫu ZnAl2O4 điều chế ở điều
kiện tối ưu
Giản đồ nhiễu xạ Rơnghen của mẫu điều
chế ở điều kiện tối ưu (hình 7) cho thấy,
mẫu thu được là đơn pha ZnAl2O4. Oxit
ZnAl2O4 thu được có dạng hình cầu, kích
thước hạt nhỏ hơn 20 nm (hình 8-9). Diện
tích bề mặt riêng của oxit ZnAl2O4 đo được
theo phương pháp BET là 41,37 m2/g.
4. KẾT LUẬN
- Đã xác định được điều kiện tối ưu để tổng
hợp oxit nano ZnAl2O4 bằng phương pháp
đốt cháy gel là: tỉ lệ mol (Zn2+, Al3+)/PVA
= 1/3, nhiệt độ tạo gel 700C ở pH=3, nung ở
6000C trong 2 giờ.
- ZnAl2O4 thu được có dạng hình cầu, với
kính thước hạt < 20 nm và có diện tích bề
mặt riêng > 40 m2/g.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. S.D. Kapse, F.C. Raghuwanshi, V.D.
Kapse, D.R. Patil (2012), “Characteristics
of high sentivity ethanol gas sensors based
on nanostructured spinel Zn1-xCoxAl2O4”,
Current Applied Physics, 12, pp 307-312.
[2]. Xiaojun Wang, Mingchang Zhang. Hui
Ding. Huili Li, Zhuosun (2011), “Low-
votale cathodoluminescence properties of
green- emitting ZnAl2O4:
Mn3+nanophosphors for field emission
dislay”, Journal of Alloys and Compounds,
509, pp 6317-6320.
[3]. T.K. Parya, R.K. Bhattacharyya, S.
Banerjee, U.B. Adhikadi (2010), “Co-
precipitated ZnAl2O4 spinel precursor
potential sintering aid for pure alumina
syntem”, ScienceDirect, 36, pp 1211-1215.
[4] Dong Zhang, Changzheng Wang,
Yunlong LUI, Qiang Shi, Wenjun Wang, Ya
Zhai (2012), “Green and red
74
photoluminescence from ZnAl2O4: Mn
phosphors prepared by sol-gel method”,
Journal of Luminescence, 132, pp 1529-1531.
[5]. Edson Luiz Foletto, Suellen Batiston, Jana
Marimon Simoes, Mariana Moro Bassaco,
Leticia Severo Fagundes Pereira, Erico Marlon
de Moraes Flores, Edson Irineu Muller (2012),
“Synthesis of ZnAl2O4 nanoparticles by
diffirent routes and the effecs of its pore size
on the photocatalytic process”, Microporous
and Mesoporous Materials, 163, pp 29-33.
___________________________________________________________________________
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG HẤP PHỤ Fe(III), Ni(II)................ (tiếp theo tr. 79)
2- Kathiresan Sathasivam and Mas
Rosemal HaKim Mas Haris, (2010),
Banana trunk fibers as an efficient
biosorbent for the removal of Cd(II),
Cu(II), Fe(II), and Zn(II) from aqueous
solutions, Journal of the Chilean Chemical
Society, Vol. 55 (2), pp. 278-282.
3- Mas Rosemal H. Mas Haris and
Kathiresan Sathasivam, (2009), The
removal of Methyl Red from aqueous
solutions using banana poseudostem fibers,
Amerian Journal of Applied Sciences, Vol.
6 (9), pp. 690-1700.
4- Suleman Qaiser, Anwar R. Saleemi,
Muhammad Mahmood Ahmad, (2007),
Heavy metal uptake by agro based waste
materials, Electronic Journal of
Biotechnology, Vol. 10 (3), pp. 409-416.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22314_74546_1_pb_1902_2096775.pdf