Về tiền sử sinh non, sẩy thai, thai
chết lưu, sinh con dị tật, sinh con to: Theo kết quả
phân tích của chúng tôi không tìm thấy khác biệt có
ý nghĩa thống kê giữa nhóm có và không có tiền sử
sinh non. Nghiên cứu của Huỳnh Ngọc Duyên [1],
Trương Thị Quỳnh Hoa [4] và Nguyễn Thị Phương
Yến [8] cũng cho kết quả tương đồng. Tương tự,
tiền sử sẩy thai trong nghiên cứu của chúng tôi và
tác giả Nguyễn Thị Phương Yến [8] cũng không có
liên quan đến tỷ lề ĐTĐTK. Riêng Huỳnh Ngọc Duyên
[1] phân tích cho thấy nhóm có tiền sử sẩy thai tăng
nguy cơ ĐTĐTK 2,29 lần (KTC95%: 1,22 – 4,27) so
với nhóm còn lại. Qua khảo sát, nghiên cứu chúng
tôi và các tác giả Huỳnh Ngọc Duyên [1], Trương Thị
Quỳnh Hoa [4] cho thấy tiền sử có mang thai chết
lưu ở lần mang thai trước làm tăng nguy cơ ĐTĐTK
với các nguy cơ lần lượt là OR=2,57 (KTC95%: 1,08-
6,13), OR=3,18 (KTC95%: 1,13- 8,96) và OR=15,1
(KTC95%: 1,5-151,0), còn tác giả Nguyễn Thị Phương
Yến[8] khảo sát thấy biến số này không làm tăng
nguy cơ có ý nghĩa thống kê. Khi tìm hiểu về tiền sử
sinh con dị tật, chúng tôi thấy nhóm có tiền sử này
tăng nguy cơ ĐTĐTK lên 21,74 lần (KTC95%: 1,94-
243,66) so với nhóm không có. Tuy nhiên, các tác giả
Huỳnh Ngọc Duyên [1], Trương Thị Quỳnh Hoa [4]
và Nguyễn Thị Phương Yến [8] lại cho thấy yếu tố
tiền sử này không có mối liên quan với tỷ lệ ĐTDTK.
Theo y văn và tổng hợp các nghiên cứu lớn về ĐTĐTK
thì tiền sử sinh con ≥ 4000 g là một trong những yếu
tố nguy cơ độc lập của bệnh lý này [9], [10], [16].
Tuy vậy, do người Việt Nam nói riêng và đa số sắc
tộc của người Châu Á nói chung có vóc dáng nhỏ
hơn của người Âu – Mỹ, tỷ lệ sinh con trên 4000
gram không nhiều nên các đồng thuận về con to ở
Việt Nam chủ yếu chỉ ở ngưỡng cân nặng bé từ
3500g trở lên. Tham khảo nghiên cứu của các tác giả
khác trong nước vẫn dùng ngưỡng 4000g trở lên để
đánh giá nguy cơ liên quan đến ĐTĐTK nên để tiện
cho việc so sánh, chúng tôi vẫn lấy mốc thai to là từ
4000g trở lên theo như y văn của thế giới [15]. Kết
quả của chúng tôi và tác giả Huỳnh Ngọc Duyên [1]
phân tích cho thấy tiền sử sinh con to làm tăng nguy
cơ ĐTĐTK lên 2,30 lần (KTC95%: 1,11 – 4,78) và 4,84
lần (KTC95%: 1,55 - 15,05) tương ứng. Trong khi đó,
các tác giả Nguyễn Thị Lệ Hằng [3], Trương Thị
Quỳnh Hoa [4] và Nguyễn Thị Phương Yến[8] chưa
khảo sát thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
tiền sử này và ĐTĐTK.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
187
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Địa chỉ liên hệ: Trần Thị Khánh Nga, email: trankhanhnga@gmail.com
Ngày nhận bài: 17/10/2019; Ngày đồng ý đăng: 22/11/2019.; Ngày xuất bản: 28/12/2019
Nghiên cứu tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ và một số yếu tố liên quan tại
Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ
Trần Khánh Nga1,2, Ngũ Quốc Vĩ2, Lâm Đức Tâm2, Cao Ngọc Thành3, Phạm Văn Lình2
(1) Nghiên cứu sinh Trường Đại học Y Dược Huế, Đại học Huế
(2) Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
(3) Bộ môn Phụ sản, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) thay đổi từ 2 đến 25% ở các thai phụ trên toàn thế giới.
Bệnh có chiều hướng ngày càng gia tăng nhất là ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam
với tỷ lệ dao động từ 8,1 – 18,3% [16]. Bệnh ít có triệu chứng nên cần tầm soát để phát hiện bệnh. Mục tiêu:
Xác định tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ và một số yếu tố liên quan ở thai phụ 24-28 tuần khám đến tại Bệnh viện
Phụ Sản thành phố Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 1291
thai phụ có tuổi thai từ 24 đến 28 tuần đến khám bệnh viện Phụ Sản thành phố Cần Thơ từ tháng 04/2018
đến 07/2019. Kết quả: Tỷ lệ ĐTĐTK kỳ là 8,8% (113 trường hợp). Các yếu tố liên quan bao gồm: thai phụ ở
thành thị (p<0,001, 0R=3,62), lao động trí óc (p<0,006, OR=2,76), BMI thai phụ ≥ 25 (p<0,001, OR=4,92), tiền
sử tăng huyết áp thai kỳ (p=0,004, OR=4,32), tiền sử mang thai chết lưu (p=0,001, OR=5,61) và tiền sử sinh
con dị tật (p=0,03, OR=26,33). Kết luận: Cần tầm soát ĐTĐTK thường quy ở tất cả thai phụ khám thai, nhất là
thai phụ ở thành thị, lao động trí óc, BMI ≥ 25, có tiền sử sinh con dị tật hoặc thai chết lưu
Từ khóa: Đái tháo đường thai kỳ
Abstract
Prevalence of gestational diabetes mellitus and related factors at Can
Tho obstetrics and Gynecology Hospital
Tran Khanh Nga1,2, Ngu Quoc Vi2, Lam Duc Tam2, Cao Ngoc Thanh3, Pham Van Linh2
(1) PhD Student of Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Can Tho University of Medicine and Pharmacy
(3) Department of Obstetrics and Gynecology, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: The overall prevalence of gestational diabetes mellitus (GDM) is from 2 to 25% in current
worldwide estimates, tends to increase especially in the Asia - Pacific region with proportion ranged from 8,1
to 18.3% and has become a concern for obstetricians. Objectives: to identify the prevalence of gestational
diabetes mellitus among 24-28w pregnancy and its related factors at Can Tho Obstetrics&Gynecology
hospital. Materials and methods: A cross-sectional study was conducted in 1291 pregnant women from 24
to 28 weeks hospitalized at Can Tho obstetrics and gynecology hospital from April 2018 to July 2019. Results:
The incidence of GDM was 8.8% (113/1291 gestations). Factors were related to GDM include: urban pregnant
women (OR=3.62, 95%CI: 1.86-7.09), intellectual labor (OR=2.76, 95%CI: 1.35-5.65), BMI ≥ 25 (OR=4.92,
95%CI: 2.47-9.82), history of gestational hypertention (OR=4.32, 95%CI: 1.60-11.72), history of stillbirth
(OR=5.61, 95%CI:1.99-15.83) and history of birth defects (OR=26.33, 95%CI:1.46-475.57). Conclusion:
Pregnant women at 24-28w pregnancy should be advised to screening popularly for detection of gestational
diabetes mellitus.
Keyword: gestational diabetes mellitus
DOI: 10.34071/jmp.2019.6_7.28
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường là bệnh rối loạn chuyển hóa
đang có tốc độ phát triển nhanh hiện nay, trong đó
đái tháo đường thai kỳ là một thể đặc biệt của bệnh
lý đái tháo đường. Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ thay
đổi từ 2 đến 25% ở các thai phụ trên toàn thế giới.
Bệnh có chiều hướng ngày càng gia tăng nhất là ở
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Việt
Nam với tỷ lệ dao động từ 8,1 – 18,3% [16]. nhiều
trường hợp chỉ khi đường huyết của thai phụ đái
tháo đường thai kỳ đã quá cao và có tai biến, họ mới
được chuyển đến các bác sĩ chuyên khoa điều trị thì
quá muộn và đã có những tai biến đáng tiếc xảy ra.
Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Tỷ lệ đái
tháo đường thai kỳ và một số yếu tố liên quan ở thai
phụ đến khám tại Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần
188
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Thơ” với mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ ở thai
phụ đến khám tại Bệnh viện Phụ Sản thành phố Cần
Thơ năm 2018-2019.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến đái tháo
đường thai kỳ ở thai phụ đến khám tại Bệnh viện
Phụ sản thành phố Cần Thơ năm 2018-2019.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả thai phụ đến khám thai tại phòng khám
sản Bệnh viện Phụ Sản Thành phố Cần Thơ từ tháng
04/2018 đến tháng 07/2019..
- Tiêu chuẩn chọn mẫu:
+ Tuổi thai từ 24 - 28 tuần. Được tính từ ngày
đầu của kỳ kinh cuối hoặc siêu âm 3 tháng đầu thai
kỳ (tính theo siêu âm nếu kinh chót không phù hợp
với siêu âm).
+ Đơn thai
+ Đồng ý làm nghiệm pháp dung nạp glucose 75g
tại phòng khám bệnh viện Phụ Sản thành phố Cần
Thơ.
+ Đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Đã được chẩn đoán là đang mắc các bệnh có
khả năng ảnh hưởng đến chuyển hoá glucose: cường
giáp, suy giáp, Cushing, hội chứng buồng trứng đa
nang, bệnh lý gan, suy thận Đã được chẩn đoán
ĐTĐ trước khi mang thai. Đã được chẩn đoán ĐTĐTK
từ nơi khác chuyển đến.
+ Đang mắc các bệnh lý ác tính, bệnh lý nội khoa
nặng, bệnh tim mạch, bệnh tâm thần. Đã được chẩn
đoán thiếu máu mức độ vừa hoặc nặng.
+ Đang sử dụng các thuốc có ảnh hưởng đến
chuyển hoá glucose: corticoide, salbutamol, thuốc
chẹn giao cảm, lợi tiểu nhóm thiazide, thuốc chống
loạn thần, acetaminophen, phenytoin, acid nicotin-
ic
+ Thường xuyên tiếp xúc khói thuốc lá (chủ động
hoặc thụ động), thường xuyên sử dụng thức uống có
cồn như bia, rượu
+ Thai phụ không thể lấy đủ 3 mẫu máu xét ng-
hiệm hoặc từ chối trả lời bảng câu hỏi.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Cỡ mẫu: 1291 trường hợp có tuổi thai tử 24
đến 28 tuần khám tại Bệnh viện
- Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu ngẫu nhiên
đơn ở tất cả thai phụ nhập viện và sinh tại Bệnh viện
Phụ Sản Thành phố Cần Thơ thỏa tiêu chuẩn chọn
mẫu từ tháng 04/2018 đến 06/2019 thông qua bộ
câu hỏi được soạn trước phù hợp với mục tiêu nghiên
cứu.
- Nội dung nghiên cứu: chọn thai phụ thỏa tiêu
chuẩn chọn mẫu mỗi ngày cho đến khi đủ cỡ mẫu
theo ước lượng. Ghi nhận các trường hợp ĐTĐTK
bằng nghiệm pháp dung nạp glucose 75g/2 giờ.
Phỏng vấn theo phiếu thu thập số liệu những yếu tố
đặc trưng của thai phụ như: tuổi, dân tộc, tôn giáo,
địa chỉ, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng
kinh tế, số lần mang thai, các tiền sử sẩy thai, thai
chết lưu, sinh con dị tật, sinh con to, có ĐTĐTK và/
hoặc THATK ở lần mang thai trước, tiền sử gia đình
có người mắc đái tháo đường. Phân tích một số yếu
tố liên quan đến ĐTĐTK như: tuổi mẹ, địa chỉ, dân
tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, học vấn, kinh tế gia đình,
BMI trước mang thai, tiền sử gia đình và các tiền sử
sản khoa
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Biểu đồ 1. Tỷ lệ ĐTĐTK
189
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Biểu đồ 2. Tỷ lệ ĐTĐTK theo mẫu máu xét nghiệm của các thai phụ
Bảng 1. Tỷ lệ ĐTĐTK theo địa chỉ của thai phụ
Địa chỉ
ĐTĐTK (n=1291) (%)
OR
KTC (95%)
p
(χ2)Có
(n = 113)
Không
(n = 1178)
Nông thôn 46 (5,2) 840 (94,8) 1 < 0,001
(44,84)Thành thị 67 (16,5) 338 (83,5) 3,62 (2,45 – 5,38)
Nhận xét: Nhóm thai phụ sinh sống thành thị có tỷ lệ ĐTĐTK cao hơn nhóm sinh sống nông thôn 3,62 lần
với p<0,001.
Bảng 2. Tỷ lệ ĐTĐTK theo nghề nghiệp của thai phụ
Nghề nghiệp
ĐTĐTK (n=1291) (%)
OR
KTC (95%)
p
(χ2)Có
(n= 113)
Không
(n= 1178)
Nông dân, công nhân 15 (4,0) 362 (96,0) 1
< 0,001
(30,98)
Công nhân viên chức, văn
phòng
48 (15,7) 257 (84,3) 4,51 (2,47 – 8,20)
Buôn bán 13 (9,6) 123 (90,4) 2,55 (1,18 – 5,53)
Nội trợ 28 (8,7) 294 (91,3) 2,30 (1,21 – 4,38)
Nghề khác 9 (6,0) 142 (94,0) 1,53 (0,65 – 3,58)
Nhận xét: Thai phụ trong các nhóm nghề nghiệp khác có tỷ lệ mắc ĐTĐTK cao hơn nhóm thai phụ làm
nông dân, công nhân với p < 0,001.
Bảng 3. Tỷ lệ ĐTĐTK theo tiền sử gia đình thế hệ thứ nhất của thai phụ bị đái tháo đường
Tiền sử gia đình ĐTĐ
ĐTĐTK (n=1291) (%)
OR
KTC (95%)
p
(*)Có
(n= 113)
Không
(n= 1178)
Không 102 (8,2) 1144 (91,8) 1
0,001
Có 11 (24,4) 34 (75,6) 3,63 (1,79 – 7,38)
*Kiểm định chính xác Fisher
Nhận xét: Kiểm định chính xác Fisher chúng tôi nhận thấy nhóm có tiền sử ĐTĐ có nguy cơ mắc ĐTĐTK
cao hơn 3,63 lần với p = 0,001 (KTC 95% là 1,79 – 7,38).
190
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Bảng 4. Tỷ lệ ĐTĐTK theo BMI của thai phụ
BMI
(kg/m2)
ĐTĐTK (n=1291) (%)
OR
KTC (95%)
p
(χ2)Có
(n= 113)
Không
(n= 1178)
< 25 57 (5,9) 906 (94,1) 1
<0,001
≥ 25 56 (17,1) 272 (82,9) 3,27 (2,21 – 4,85)
Nhận xét: Nhóm thai phụ có BMI ≥ 25 ghi nhận tỷ lệ mắc ĐTĐTK cao gấp 3,27 lần so với nhóm có BMI <
25 (KTC 95% 2,21 – 4,85)
Bảng 5. Tỷ lệ ĐTĐTK theo tiền sử sản khoa của thai phụ
Tiền sử sản khoa
ĐTĐTK (n=1291) (%)
OR
KTC (95%)
p
(χ2)Có
(n= 113)
Không
(n= 1178)
Mang thai
Con so
Con rạ
65 (8,2)
48 (9,6)
724 (91,8)
454 (90,4)
1
1,18 (0,80 – 1,74)
0,41
(0,67)
Sinh non
Không
Có
109 (8,6)
4 (14,3)
1154 (91,4)
24 (85,7)
1
1,77 (0,60 – 5,18)
0,30*
Sẩy thai
Không
Có
90 (8,6)
23 (9,3)
954 (91,4)
224 (90,7)
1
1,09 (0,67 – 1,76)
0,73
(0,12)
Thai lưu
Không
Có
(n=56)
49 (8,1)
7 (18,4)
(n=588)
557 (91,9)
31 (81,6)
1
2,57 (1,08 – 6,13)
0,04
(4,81)
Sinh con ≥ 4000g
Không
Có
(n=48)
37 (8,4)
11 (17,5)
(n=454)
402 (91,6)
52 (82,5)
1
2,30 (1,11 – 4,78)
0,02
(5,20)
Sinh con dị tật
Không
Có
(n=56)
54 (8,4)
2 (66,7)
(n=588)
587 (91,6)
1 (33,3)
1
21,74 (1,94 – 243,66)
0,02*
ĐTĐTK
Không
Có
(n=42)
40 (10,6)
2 (33,3)
(n=441)
337 (89,4)
4 (66,7)
1
4,21 (0,75 – 23,73)
0,13*
THATK
Không
Có
(n=48)
41 (8,7)
7 (21,9)
(n=454)
429 (91,3)
25 (78,1)
1
2,93 (1,19 – 7,19)
0,03*
*Kiểm định chính xác Fisher
Nhận xét: Thai phụ mang thai con rạ có tỷ lệ mắc
ĐTĐTK cao hơn con so với p = 0,41 và OR = 1,18 (KTC
95%: 0,80 – 1,74). Thai phụ có tiền sử mang thai
chết lưu có tỷ lệ mắc ĐTĐTK cao hơn nhóm không có
tiền sử mang thai chết lưu với p = 0,04 và OR = 2,57
(KTC 95%: 1,08 – 6,13). Thai phụ có tiền sử sinh con
nặng hơn 4000g có tỷ lệ mắc ĐTĐTK cao hơn nhóm
không có tiền sử sinh con nặng hơn 4000g với p =
0,02 và OR = 2,30 (KTC 95%: 1,11 – 4,78). Thai phụ
có tiền sử sinh con dị tật có tỷ lệ mắc ĐTĐTK cao hơn
nhóm không có tiền sử sinh con dị tật với p = 0,02
và OR = 21,74 (KTC 95%: 1,94 – 243,66). Thai phụ có
tiền sử tăng huyết áp thai kỳ có tỷ lệ mắc ĐTĐTK cao
hơn nhóm không có tiền sử này với p = 0,03 và OR
= 2,93 (KTC 95%: 1,19 – 7,19). Thai phụ có tiền sử
đái tháo đường thai kỳ có tỷ lệ mắc ĐTĐTK cao hơn
nhóm không có tiền sử này với p = 0,13 và OR = 4,21
(KTC 95%: 0,75 – 23,73).
4. BÀN LUẬN
4.1. Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ
Tỷ lệ ĐTĐTK trong nghiên cứu của chúng tôi
là 8,8% (KTC95%: 7,2%-10,3%). Theo các kết quả
nghiên cứu trước có thể thấy được số thai phụ có
191
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
ĐTĐTK trong nghiên cứu của các tác giả Phạm Kim
Phượng, Nguyễn Khoa Diệu Vân và Châu Hoàng
Sinh[7] là khá cao trong dân số nghiên cứu với tỷ
lệ hơn 30% cho đến gần 40% dù được thực hiện ở
ba vị trí hoàn toàn khác nhau với hai nghiên cứu
được thực hiện ở hai bệnh viện có quy mô khám
chữa bệnh khá lớn thuộc Hà Nội và Tp.HCM cùng
với một nghiên cứu thực hiện tại cộng đồng tại một
tỉnh biên giới thuộc miền Đông Nam bộ. Điểm chung
của các nghiên cứu này là tương đồng về tiêu chuẩn
chọn bệnh và phương pháp sàng lọc, chẩn đoán,
thực hiện ở nơi có mật độ dân cư đông đúc, phân
bố ngành nghề đa dạng, tình trạng kinh tế ở mức
trung bình cho đến khá cao, số mẫu quan sát đủ lớn
cho đến khá lớn, chỉ riêng của tác giả Châu Hoàng
Sinh [7] thực hiện ở vùng có tỷ lệ tín đồ theo đạo
khá cao. Qua đó cho thấy phân bố ngành nghề và
tình trạng kinh tế có tác động nhất định đến tỷ lệ
ĐTĐTK. Các nghiên cứu của Lại Thị Ngọc Điệp[2],
Trương Thị Quỳnh Hoa, Lê Thị Thanh Tâm, Trương
Thị Ái Hòa[5] và Huỳnh Ngọc Duyên [1] đều có tỷ lệ
ĐTĐTK trong kết quả trên dưới 20%. Khi so sánh địa
điểm tiến hành nghiên cứu của các tác giả trên cho
thấy được thực hiện ở nhiều vị trí rất khác nhau, từ
các nghiên cứu trong bệnh viện cho đến các nghiên
cứu tại cộng đồng trong một huyện hoặc cả một
thành phố trải dài từ Bắc Trung bộ đến mũi Cà Mau
với số lượng mẫu khảo sát không nhỏ cùng với đặc
điểm phân bố của mẫu khá đa dạng nên có thể phản
ảnh một phần khá quan trọng về thực trạng bệnh lý
ĐTĐTK của Việt Nam. Trong nghiên cứu của chúng
tôi khảo sát được tỷ lệ ĐTĐTK thấp hơn so với các
tác giả nêu trên và tương đồng với kết quả của các
tác giả Phạm Thị Triều Tiên, Nguyễn Thị Lệ Hằng[3],
Võ Thị Ánh Nhàn[6] và Nguyễn Thị Phương Yến[8]
với tỷ lệ dao động từ 8% đến dưới 10%. Trong các
tác giả này có hai tác giả tiến hành nghiên cứu tại
bệnh viện An Bình, thành phố Hồ Chí Minh và hai tác
giả cũng thực hiện tại Cần Thơ như chúng tôi nhưng
ở các bệnh viện khác nhau. Mặc dù cả ba nghiên
cứu ở Cần Thơ đều tiến hành lấy mẫu tại bệnh viện,
không thể khái quát hóa cho cả cộng đồng dân cư
nhưng được thực hiện ở ba bệnh viện có số lượt
khám, chữa bệnh khá lớn của thành phố nên cũng
thể hiện khá hợp lý về tỷ lệ lưu hành của ĐTĐTK tại
Cần Thơ và vùng phụ cận. Với kết quả tỷ lệ ĐTĐTK
dưới 10%, thấp hơn so với kết quả nghiên cứu ở
các vùng khác nên có thể xem đây như là dấu hiệu
tương đối lạc quan về bệnh lý này ở Cần Thơ so với
các nơi khác. Ngoài ra, khi tham khảo một số nghiên
cứu cũng trong khu vực Châu Á như Ấn Độ, Hàn
Quốc và Kuwait cho thấy tỷ lệ ĐTĐTK dao động từ
9,5% đến 12,6%[11], khá tương đồng so với nghiên
cứu của chúng tôi. Các kết quả này cũng phù hợp với
phân tích gộp trên 84 nghiên cứu ở các nước Châu Á
của Siew M.C. [14] cho thấy tỷ lệ ĐTĐTK trung bình
chung là 11,5% (KTC95%: 10,9- 12,1%) và báo cáo
của Zhu Y. [16] phân tích gộp trên 77 nghiên cứu ở
36 quốc gia cho thấy tỷ lệ ĐTĐTK của khu vực Đông
Á và Nam Á nằm trong khoảng 8,1- 18,3% và vùng
Trung Đông nằm trong khoảng 8,4- 24,5%. Trong khi
đó, Melchior [13] tổng hợp trên 12 nghiên cứu lớn ở
Đức, Croatia, Úc, Canada và Mỹ cho thấy tỷ lệ ĐTĐTK
đa số dưới 10%.
4.2. Một số yếu tố liên quan đến đái tháo
đường thai kỳ
Về nhóm tuổi: Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ (ADA) đồng
thuận tại hội nghị ĐTĐTK lần thứ V trên thế giới,
thống nhất tuổi < 25 là nhóm nguy cơ thấp và nhiều
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ ĐTĐTK gia tăng theo tuổi
mẹ. Hiện nay, ACOG [9]và ADA[10] cũng chỉ ra rằng
độ tuổi ≥ 35 là nhóm có nguy cơ của ĐTĐTK. Qua
thống kê, độ tuổi trung bình của thai phụ trong
nghiên cứu của chúng tôi ở nhóm ĐTĐTK là 31,7±
4,7 và ở nhóm không ĐTĐTK là 28,7 ± 5,3. Trong đó,
tỷ lệ ĐTĐTK cao nhất ở nhóm thai phụ ≥ 35 tuổi
(13,7%) và thấp nhất ở nhóm dưới 25 tuổi (1,9%).
Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
Khi so với nhóm dưới 25 tuổi, nhóm từ 25 đến dưới
35 tuổi tăng nguy cơ mắc ĐTĐTK 5,52 lần (KTC95%:
2,21- 13,78) và nhóm ≥ 35 tuổi tăng nguy cơ 8,18
lần (KTC95%: 3,10- 21,59). Tương tự, tác giả Huỳnh
Ngọc Duyên [1] qua khảo sát thấy ở nhóm từ 25 –
34 tuổi và nhóm ≥ 35 tuổi có nguy cơ ĐTĐTK cao gấp
là 2,11 lần (KTC95%: 1,03- 4,28) và 5,01 lần (KTC95%:
1,97- 12,75) khi so với nhóm dưới 25 tuổi. Các tác
giả khác cũng có kết quả tương đồng với chúng tôi
khi cho thấy nhóm tuổi ≥ 25 tăng nguy cơ ĐTĐTK lên
1,68 lần (KTC 95% 1,16- 2,45) của tác giả Lại Thị
Ngọc Điệp [2], tăng 2,54 lần (0,92- 7,06), tăng 5,0
lần (KTC95%: 2,3-11,1) và 2,42 lần (KTC 95% 1,96 –
6,23) như trong nghiên cứu của các Võ Thị Ánh
Nhàn [6], Châu Hoàng Sinh [7] và Nguyễn Thị
Phương Yến [8]. Về nghề nghiệp: Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ ĐTĐTK ở các nhóm
nghề nội trợ, nhóm nghề buôn bán và nhóm nghề
viên chức, văn phòng đều cao hơn có ý nghĩa thống
kê (p<0,001) so với nhóm nghề nông dân, công nhân
với tỷ số nguy cơ lần lượt là: 2,30 (KTC95%: 1,21 –
4,38), 2,55 (KTC95%: 1,18 – 5,53) và 4,51 (KTC95%:
2,47 – 8,20). Tuy nhiên, trong các nghiên cứu của
các tác giả Huỳnh Ngọc Duyên [1], Trương Thị Ái
Hòa [5], Võ Thị Ánh Nhàn [6] và Nguyễn Thị Phương
Yến [8] chưa tìm thấy khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa các ngành nghề. Điều này có thể lý giải một
phần do sự phân bố nghề nghiệp cũng như đặc thù
192
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
công việc tùy thuộc vào điều kiện rất khác nhau của
từng địa phương, một phần cũng do cách phân chia
hiện nay không phản ảnh chính xác hoàn toàn điều
kiện làm việc và sinh hoạt đặc thù của các ngành
nghề. Về nơi cư ngụ: Trong nghiên cứu của chúng
tôi, có đến 68,6% thai phụ có địa chỉ ở nông thôn
theo định nghĩa về nông thôn mới trong Thông tư
số 41/2013/TT-BNNPTNT là khu vực địa giới hành
chính không thuộc nội thành, nội thị của các thành
phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi các cấp hành
chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã. Toàn thành phố
Cần Thơ chỉ có 4 huyện nông thôn là Vĩnh Thạnh, Cờ
Đỏ, Phong Điền và Thới Lai với tổng dân số chỉ chiếm
21,1% (466804/2208105) dân số của Cần Thơ (theo
Niên giám thống kê thành phố Cần Thơ 2014). Tuy
nhiên, mặc dù tiến hành ở bệnh viện Phụ Sản thành
phố Cần Thơ nhưng có đến 33,6% (434/1291) thai
phụ đến khám khám có địa chỉ là ở các huyện thuộc
các tỉnh lân cận. Điều này cho thấy tỷ lệ thai phụ ở
tại quận Ninh Kiều (nơi bệnh viện tọa lạc) đi khám
thấp hơn so với ở nơi khác đến. Dù chỉ chiếm tỷ lệ
thấp trong dân số nghiên cứu nhưng nguy cơ ĐTĐTK
của nhóm ở thành thị cao gấp 3,62 lần (KTC95%:
2,45 – 5,38) so với nhóm ở nông thôn. Kết quả này
cũng tương đồng với tác giả Nguyễn Thị Phương Yến
[8] thực hiện tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược
Cần Thơ với thành thị có nguy cơ tăng gấp 2,65 lần
(KTC95%: 1,04 – 6,78) so với nông thôn. Về tiền sử
gia đình ĐTĐ: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi
nhận tỷ lệ ĐTĐTK ở nhóm thai phụ có tiền sử người
thân trực hệ trong gia đình mắc bệnh ĐTĐ cao gấp
3,63 lần (KTC95%: 1,79 – 7,38) so với nhóm còn lại.
Kết quả này hoàn toàn phù hợp với các khảo sát
trước đây như của tác giả Huỳnh Ngọc Duyên [1]
nghiên cứu tại tại Bệnh Viện Sản Nhi Cà Mau với
OR=3,16 (KTC95%: 1,47 – 6,77), Nguyễn Thị Lệ Hằng
[3] tại Bệnh viện An Bình với OR=2,86 (p=0,001),
Trương Thị Quỳnh Hoa [4] tại Bệnh viện Đa khoa
tỉnh Bình Định với OR=2,0 (KTC95%: 1,0 – 4,0),
Trương Thị Ái Hòa [5] tại Bệnh viện quận 2 với
OR=3,22 (KTC95%: 1,93 – 5,38), Võ Thị Ánh Nhàn [6]
tại bệnh viện An Bình với OR=2,9 (KTC95%: 1,5 –
5,7) và Châu Hoàng Sinh [7] tại Bệnh viện quận Thủ
Đức với OR=2,5 (KTC95%: 1,1-5,7). Theo các y văn
trước đây, tiền sử gia đình trực hệ (cha mẹ, anh chị
em ruột) bị ĐTĐ vốn được xem là yếu tố nguy cơ
kinh điển của ĐTĐTK, nhiều nghiên cứu thăm dò cha
mẹ của người ĐTĐTK cho thấy tỷ lệ bị rối loạn dung
nạp glucose hoặc có ĐTĐ týp 2 là khá lớn. Điều này
gợi ý rằng khả năng yếu tố di truyền trên nhiều gen
hoặc ảnh hưởng của môi trường tới ĐTĐTK nhiều
hơn là di truyền trên nhiễm sắc thể trội. Do đó, tiền
sử gia đình trực hệ có ĐTĐ được ACOG[9], ADA [10]
và WHO[15] định danh là một trong các yếu tố nguy
cơ của ĐTĐTK [9], [10], [15]. Về béo phì trước mang
thai: Zhu [16] và cộng sự phân tích cho thấy mặc dù
người Châu Á thường có chỉ số BMI thấp hơn các
chủng tộc khác nhưng rất dễ bị tích lũy mỡ nội tạng
và béo bụng, các yếu tố thuận lợi cho suy giảm chức
năng tế bào beta tuyến tụy và tình trạng đề kháng
insulin. Theo bảng phân loại BMI của IDI/WPRO
dành cho người châu Á [11], béo phì trước mang
thai được chia ở mốc BMI ≥ 23. Tuy nhiên, trong
nhiều nghiên cứu chúng tôi tham khảo được ở Việt
Nam chỉ có tác giả Trương Thị Ái Hòa [5] phân chia
theo mốc này và không tìm thấy mối liên quan có ý
nghĩa thống kê. Do các tác giả khác vẫn dung ngưỡng
BMI ≥ 25 để chia nhóm phân tích nên trong nghiên
cứu của chúng tôi vẫn dung mốc này để tiện cho
việc so sánh, kết quả chúng tôi cho thấy BMI ≥ 25
làm tăng nguy cơ ĐTĐTK gấp 3,27 lần (KTC95%:
2,21- 4,85). Tương tự, các Huỳnh Ngọc Duyên [1],
Lại Thị Ngọc Điệp [2], Châu Hoàng Sinh [7] và
Nguyễn Thị Phương Yến [8] cũng khảo sát thấy
ngưỡng BMI này làm tăng tỷ lệ mắc ĐTĐTK với các
nguy cơ lần lượt là: OR=2,76 (KTC95%: 1,49- 5,09),
OR= 2,18(KTC95%: 1,08- 4,25), OR=2,7 (KTC95%:
1,1- 7,3) và OR=4,13 (KTC95%: 1,51 – 11,34). Điều
này cũng phù hợp với y văn khi cả ACOG [9], ADA
[10] và WHO [15] đều xác định đây là một trong
những yếu tố có liên quan mạnh đến ĐTĐTK.
Garrison [12] và Zhu [16] cũng xác định đây là yếu tố
nguy cơ độc lập khá mạnh của ĐTĐTK chỉ đứng sau
yếu tố tiền sử ĐTĐTK ở lần mang thai trước với OR
hiệu chỉnh là 3,2. Về số lần sinh con: Trong nghiên
cứu chúng tôi chia thai phụ thành 2 nhóm: chưa
sinh con lần nào (con so) và đã từng sinh con (con
rạ). Kết quả phân tích cho thấy không khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tỷ lệ ĐTĐTK giữa 2 nhóm. Kết quả
này cũng tương tự như trong nghiên cứu của các
Huỳnh Ngọc Duyên [1], Lại Thị Ngọc Điệp [2], Trương
Thị Quỳnh Hoa [4], Trương Thị Ái Hòa [5] và Võ Thị
Ánh Nhàn [6]. Về tiền sử sinh non, sẩy thai, thai
chết lưu, sinh con dị tật, sinh con to: Theo kết quả
phân tích của chúng tôi không tìm thấy khác biệt có
ý nghĩa thống kê giữa nhóm có và không có tiền sử
sinh non. Nghiên cứu của Huỳnh Ngọc Duyên [1],
Trương Thị Quỳnh Hoa [4] và Nguyễn Thị Phương
Yến [8] cũng cho kết quả tương đồng. Tương tự,
tiền sử sẩy thai trong nghiên cứu của chúng tôi và
tác giả Nguyễn Thị Phương Yến [8] cũng không có
liên quan đến tỷ lề ĐTĐTK. Riêng Huỳnh Ngọc Duyên
[1] phân tích cho thấy nhóm có tiền sử sẩy thai tăng
nguy cơ ĐTĐTK 2,29 lần (KTC95%: 1,22 – 4,27) so
với nhóm còn lại. Qua khảo sát, nghiên cứu chúng
tôi và các tác giả Huỳnh Ngọc Duyên [1], Trương Thị
193
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Quỳnh Hoa [4] cho thấy tiền sử có mang thai chết
lưu ở lần mang thai trước làm tăng nguy cơ ĐTĐTK
với các nguy cơ lần lượt là OR=2,57 (KTC95%: 1,08-
6,13), OR=3,18 (KTC95%: 1,13- 8,96) và OR=15,1
(KTC95%: 1,5-151,0), còn tác giả Nguyễn Thị Phương
Yến[8] khảo sát thấy biến số này không làm tăng
nguy cơ có ý nghĩa thống kê. Khi tìm hiểu về tiền sử
sinh con dị tật, chúng tôi thấy nhóm có tiền sử này
tăng nguy cơ ĐTĐTK lên 21,74 lần (KTC95%: 1,94-
243,66) so với nhóm không có. Tuy nhiên, các tác giả
Huỳnh Ngọc Duyên [1], Trương Thị Quỳnh Hoa [4]
và Nguyễn Thị Phương Yến [8] lại cho thấy yếu tố
tiền sử này không có mối liên quan với tỷ lệ ĐTDTK.
Theo y văn và tổng hợp các nghiên cứu lớn về ĐTĐTK
thì tiền sử sinh con ≥ 4000 g là một trong những yếu
tố nguy cơ độc lập của bệnh lý này [9], [10], [16].
Tuy vậy, do người Việt Nam nói riêng và đa số sắc
tộc của người Châu Á nói chung có vóc dáng nhỏ
hơn của người Âu – Mỹ, tỷ lệ sinh con trên 4000
gram không nhiều nên các đồng thuận về con to ở
Việt Nam chủ yếu chỉ ở ngưỡng cân nặng bé từ
3500g trở lên. Tham khảo nghiên cứu của các tác giả
khác trong nước vẫn dùng ngưỡng 4000g trở lên để
đánh giá nguy cơ liên quan đến ĐTĐTK nên để tiện
cho việc so sánh, chúng tôi vẫn lấy mốc thai to là từ
4000g trở lên theo như y văn của thế giới [15]. Kết
quả của chúng tôi và tác giả Huỳnh Ngọc Duyên [1]
phân tích cho thấy tiền sử sinh con to làm tăng nguy
cơ ĐTĐTK lên 2,30 lần (KTC95%: 1,11 – 4,78) và 4,84
lần (KTC95%: 1,55 - 15,05) tương ứng. Trong khi đó,
các tác giả Nguyễn Thị Lệ Hằng [3], Trương Thị
Quỳnh Hoa [4] và Nguyễn Thị Phương Yến[8] chưa
khảo sát thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
tiền sử này và ĐTĐTK.
5. KẾT LUẬN
1. Tỷ lệ ĐTĐTK kỳ là 8,8% (KTC95%: 7,2%-10,3%).
2. Một số yếu tố liên quan (sau phân tích hồi quy
đa biến) bao gồm: thai phụ ở thành thị (p<0,001,
0R=3,62), lao động trí óc (p<0,006, OR=2,76), BMI
thai phụ ≥ 25 (p<0,001, OR=4,92), tiền sử tăng huyết
áp thai kỳ (p=0,004, OR=4,32), tiền sử mang thai
chết lưu (p=0,001, OR=5,61) và tiền sử sinh con dị
tật (p=0,03, OR=26,33).
6. KIẾN NGHỊ
Cần tầm soát ĐTĐTK thường quy ở tất cả thai
phụ khám thai, nhất là thai phụ ở thành thị, lao động
trí óc, BMI ≥ 25, có tiền sử sinh con dị tật hoặc thai
chết lưu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Ngọc Duyên (2019), “Tỷ lệ đái tháo đường
thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Sản Nhi Cà
Mau”, Y Học TP. Hồ Chí Minh, 23(2), tr. 95 - 100.
2. Lại Thị Ngọc Điệp (2014), “Tỷ lệ đái tháo đường
trong thai kỳ và các yếu tố liên quan trên thai 24 – 28 tuần
tại huyện Châu Thành – tỉnh Kiên Giang”, Luận án chuyên
khoa cấp II, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, tr.
50 – 75.
3. Nguyễn Thị Lệ Hằng (2015), “Nghiên cứu tỷ lệ đái
tháo đường thai kỳ và các yếu tố nguy cơ tại Bệnh viện An
Bình”, Y Học TP. Hồ Chí Minh, 20(5), tr. 134- 139.
4. Trương Thị Quỳnh Hoa (2017), “Tỷ lệ đái tháo
đường thai kỳ và yếu tố liên quan tại Bệnh viện Đa khoa
tỉnh Bình Định”, Y Học TP. Hồ Chí Minh, 21(1), tr. 74 - 79.
5. Trương Thị Ái Hòa (2018), “Tỷ lệ đái tháo đường
thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện quận 2”, Y Học
TP. Hồ Chí Minh, 22(1), tr. 22 - 28.
6. Võ Thị Ánh Nhàn (2017), “Tỷ lệ đái tháo đường thai
kỳ và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện An Bình”, Y Học TP.
Hồ Chí Minh, 21(1), tr. 69 - 74
7. Châu Hoàng Sinh (2018), “Tỷ lệ đái tháo đường
trong thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện quận
Thủ Đức năm 2018”, Hội nghị Khoa Học Công Nghệ - Bệnh
viện Quận Thủ Đức lần IV, trang 342 – 348.
8. Nguyễn Thị Phương Yến (2018), “Tỷ lệ đái tháo
đường trong thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện
Trường Đại học Y dược Cần Thơ”, Luận văn Thạc sỹ Y học,
Đại học Y Dược TP.HCM, trang 34 - 49.
9. ACOG (2018), “Gestational Diabetes Mellitus”,
ACOG Practice Guidelines, Bulletin 190(1), pp. 1- 16.
10. ADA (2019), “Standards of medical care in
diabetes”, Diabetes Care, 39(1), pp. 36 - 94.
11. Anuurad E. (2003), “The new BMI Criteria for
Asian by the Regional Office for Western Parcific Region of
WHO are suitable for screening of overweight to prevent
Metabolic Syndrome in elder Japanese workers”, Journal
of Occupational Heath, 45(1), pp. 335 - 343.
12. Garrison A. (2015), “Screening, Diagnosis, and
Management of Gestational Diabetes Mellitus”, American
Family Physician, 91(7), pp. 461 - 469.
13. Melchior H. (2017), “The prevalence of
gestational diabetes- a population-based analysis of a
nationwide screening program”, Dtsch Arztebl Int 2017;
114: 412–8.
194
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
14. Siew M.C. (2018), “Prevalence and risk factors of
gestational diabetes mellitus in Asia: a systematic review
and meta-analysis”, BMC Pregnancy Childbirth. 2018; 18:
494.
15. WHO (2018), “Diagnosis of gestational diabetes in
pregnancy”, The WHO Reproductive Health Library, 1, pp.
1 - 5.
16. Zhu Y. (2016), “Prevalence of Gestational Diabetes
and Risk of Progression to Type 2 Diabetes: a Global
Perspective”, Curr Diab Rep (2016), 16: 7.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_ty_le_dai_thao_duong_thai_ky_va_mot_so_yeu_to_lie.pdf