Dựa trên các kết quả thực nghiệm về ảnh hưởng
của tốc độ gia công, nồng độ dung dịch mài và kích
thước hạt mài đến lượng vật liệu cắt gọt và độ
nhám bề mặt, có thể rút ra một số kết luận như sau:
Tốc độ quay của đĩa mài có ảnh hưởng lớn đến
độ nhám bề mặt. Tốc độ quay của đĩa mài càng
tăng thì chất lượng bề mặt càng tốt. Với tốc độ
quay của đĩa mài là 150 (vòng /phút) thì độ nhám
bề mặt đạt được Ra = 23 nm.
Nồng độ dung dịch mài cũng là nhân tố quan
trọng quyết định độ nhám bề mặt chi tiết gia công.
Khi nồng độ dung dịch càng tăng thì chất lượng bề
mặt sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, nếu nồng độ dung dịch
quá lớn thì ứng suất cắt lại không tăng theo và như
vậy hiệu quả gia công không đạt yêu cầu.
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 515 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ứng dụng chất lỏng phi Newton trong mài tinh bề mặt cầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
58 Science and Technology Development Journal, vol 20, No.K5-2017
Nguyễn Đức Nam
Tóm tắt—Trước đây, quá trình gia công mài
tinh các bề mặt cầu ta phải trải qua nhiều bước
gia công phức tạp để đạt độ nhám bề mặt theo
yêu cầu. Để đơn giản hoá quá trình gia công
này, hạt mài sẽ được trộn với chất kết dính để
tạo thành một hỗn hợp dung dịch mài. Hỗn hợp
dung dịch mài này sẽ không tuân theo quy luật
Newton khi được chuyển động. Quá trình này sẽ
tạo ra ứng suất cắt cho dung dịch mài tác động
lên bề mặt gia công. Với phương pháp gia công
bằng chất lỏng phi Newton thì bề mặt cầu phức
tạp sẽ được gia công mài tinh bằng một quá
trình gia công đơn giản. Trong bài báo này sẽ
nghiên cứu ảnh hưởng của tốc độ mài, nồng độ
dung dịch mài và kích thước hạt mài đến độ
nhám bề mặt chi tiết. Kết quả thí nghiệm cho
thấy rằng, tốc độ mài ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng bề mặt gia công. Tốc độ gia công
càng tăng thì độ nhám bề mặt càng giảm. Bên
cạnh đó, nồng độ dung dịch mài cũng ảnh
hưởng đến chất lượng bề mặt gia công như tốc
độ mài. Còn kích thước hạt mài dường như
không ảnh hưởng đến chất lượng bề mặt gia
công. Kết quả độ nhám bề mặt cầu bằng thép có
đường kính Ø 40mm sau khi gia công giảm từ
Ra=130 nm xuống còn Ra = 23 nm.
Từ khóa—Chất lỏng phi Newton, mài tinh bề
mặt cầu, tốc độ mài, nồng độ dung dịch mài,
kích thước hạt mài, độ nhám bề mặt.
1 GIỚI THIỆU
gày nay, sự phát triển mạnh mẽ của ngành
công nghiệp chất bán dẫn, thiết bị quan sát,
dụng cụ quang học và quang điện tử đã làm tăng
nhu cầu đối với các bề mặt cong. Các bề mặt cong
đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực của
Bài báo này được gửi vào ngày 27 tháng 05 năm 2017 và
được chấp nhận đăng vào ngày 11 tháng 09 năm 2017.
Nghiên cứu này được tài trợ bởi quỹ nghiên cứu khoa học
cấp cơ sở của Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM (mã số đề
tài: IUH.KCK 02/2016)
Nguyễn Đức Nam, Khoa Cơ khí, Trường Đại học Công
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
(e-mail: nguyenducnam@iuh.edu.vn)
ngành sản xuất công nghiệp như các cánh quạt của
động cơ phản lực [1], các thấu kính quang học [2],
khuôn đúc trong ngành sản xuất sản phẩm nhựa,
khớp hông và khớp gối nhân tạo trong lĩnh vực cấy
ghép y sinh học [3]. Các bề mặt này đòi hỏi yêu cầu
chất lượng bề mặt rất cao và công nghệ gia công
hiệu suất cao. Trước đây, quá trình gia công tinh bề
mặt được chế tạo thông qua phương pháp gia công
truyền thống như tiện, phay và kết thúc bằng mài
tinh. Quá trình này yêu cầu một lượng thời gian gia
công lớn nên năng suất hạn chế. Bên cạnh đó, chất
lượng bề mặt sau gia công chỉ ở một giới hạn nhất
định. Hiện nay, có rất nhiều công nghệ gia công đã
được phát triển và áp dụng để gia công các bề mặt
cong, chẳng hạn như công nghệ gia công bằng bức
xạ đàn hồi [4], gia công bằng cơ – hóa học [5], gia
công bằng thủy động lực học [6], gia công bằng
chất lỏng từ biến [7, 8]. Phương pháp bức xạ đàn
hồi có thể gia công bề mặt cong đạt chất lượng cao
nhưng hiệu suất thấp. Phương pháp gia công bằng
cơ – hoá học có thể đạt hiệu suất cao hơn, tuy nhiên
chất thải hoá học sẽ gây ảnh hưởng đến môi trường.
Phương pháp gia công bằng chất lỏng từ biến được
áp dụng gia công các bề mặt cong với độ chính xác
bề mặt cao do được điều khiển bằng máy tính. Tuy
nhiên, phương pháp này ứng dụng hạn chế do chi
phí tương đối cao cho chất điện từ và thiết kế các
điện cực.
Để cải thiện hiệu suất và chất lượng bề mặt gia
công thì phương pháp gia công mài tinh bằng chất
lỏng phi Newton là cần thiết và cấp bách. Trong
phương pháp này, ứng suất chất lỏng phi Newton
được sử dụng để tạo nên quá trình cắt gọt trong gia
công [9]. Cơ học của quá trình tạo ra ứng suất chất
lỏng dựa trên sự hình thành, kết dính của các hạt
tinh thể được thể hiện ở hình 1.
Hiệu quả của chất lỏng phi Newton là tạo ra ứng
suất cắt nhờ sự chuyển động của chất lỏng. Dưới
tác dụng của lực chuyển động, độ nhớt của chất
lỏng phi Newton sẽ thay đổi và phản ứng hoàn toàn
khác với chất lỏng thông thường. Chất lỏng phi
Newton này có khả năng gia công linh hoạt với các
bề mặt cong mà vẫn đáp ứng được yêu cầu cắt gọt
và chất lượng bề mặt, trong khi đó dung dịch mài
có thể sử dụng lại sẽ không gây ảnh hưởng đến môi
trường.
Nghiên cứu ứng dụng chất lỏng phi Newton
trong mài tinh bề mặt cầu
N
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số K5-2017
59
Trong bài báo này, mô hình thí nghiệm gia công
mài tinh bề mặt cầu được thiết lập để nghiên cứu
ảnh hưởng của các thông số gia công đến chất
lượng bề mặt để đánh giá khả năng gia công của
phương pháp.
Hình 1. Cơ học tương tác của các hạt tinh thể
2 PHƯƠNG PHÁP GIA CÔNG BẰNG CHẤT
LỎNG PHI NEWTON
Trong chất lỏng Newton, độ nhớt là một hằng số
đối với lực tác động, chỉ thay đổi nếu có thay đổi
nhiệt độ. Trong khi đó, độ nhớt của chất lỏng phi
Newton không phải là hằng số, có thể thay đổi theo
nhiều cách khác nhau dưới tác động của một hay
nhiều yếu tố: lực, thời gian, nhiệt độ... Khi độ nhớt
thay đổi, loại chất lỏng này phản ứng hoàn toàn
khác chất lỏng thông thường: lỏng hóa rắn, rắn hóa
lỏng, dầy và xốp lên...
Sự tương tác giữa các hạt: khi chịu tác động của
lực, khoảng cách giữa các hạt trong hỗn hợp thay
đổi. Tại vị trí chịu lực, các hạt chụm lại, tạo thành
cụm có hình dạng như tinh thể. Đây là nguyên nhân
khiến dung dịch rắn lại.
Cơ học của quá trình gia công được thể hiện
trong hình 2. Đầu tiên, dung dịch mài được cho
chuyển động để tạo ra ứng suất cắt. Nếu tốc độ
chuyển động và chiều sâu cắt không đủ lớn thì quá
trình cắt gọt không diễn ra. Hạt mài chỉ trượt lên
trên bề mặt gia công bởi vì lực thuỷ động tác dụng
lên dung dịch mài không đạt yêu cầu (hình 2a).
Sau khi lực thuỷ động tác dụng lên dung dịch đủ
lớn thì hiện tượng đông đặc và độ nhớt của chất
lỏng không tuân theo định luật Newton trong vùng
tiếp xúc sẽ tăng lên nhanh chóng. Lúc này, các hạt
phân tán trong hỗn hợp sẽ kết hợp thành các cụm
hạt, trong đó hạt mài sẽ được bao quanh bởi các hạt
kết dính (hình 2b). Kết quả là, dung dịch mài trong
vùng gia công sẽ hoạt động như một chất rắn tức
Hình 2. Cơ học của quá trình gia công bằng chất lỏng phi
Newton
60 Science and Technology Development Journal, vol 20, No.K5-2017
thời, và một đĩa mài linh hoạt được hình thành
trong vùng tiếp xúc, và cường độ mài sẽ tăng lên
nhanh chóng tác động lên phôi để tăng tốc độ loại
bỏ vật liệu (hình 2c). Để tăng tốc độ loại bỏ vật liệu
thì cần tăng tốc độ của dòng dung dịch mài vàchiều
sâu tiếp xúc thì khi đó lực cắt (Fshear) sẽ lớn hơn lực
cản sinh ra trên vết nhấp nhô của chi tiết (FR). Khi
bề mặt gia công được mài phẳng và lực cắt được
loại bỏ thì cụm hạt kết dính sẽ bị chia tách ra và trở
về như trạng thái ban đầu như chất lỏng tuân theo
định luật Newton (hình 2d) [10].
Do vậy, tính lưu động của chất lỏng phi Newton
sẽ tạo ra một đĩa mài linh hoạt có thể phù hợp với
các bề mặt cong khác nhau. Dung dịch mài sẽ kết
dính và đông đặc trong gia công và trở lại bình
thường như chất lỏng Newton một khi lực cắt được
loại bỏ. Vì vậy, có thể đạt được hiệu quả và chất
lượng mài bóng cao. Hiệu quả của phương pháp gia
công này phụ thuộc vào sự chuyển động tương đối
giữa chi tiết và dung dịch đánh bóng để tạo ra quá
trình đông đặc. Nguyên lý của quá trình gia công
được thể hiện ở hình 3.
Hình 3. Nguyên lý của phương pháp gia công bằng chất lỏng phi
Newton
3 MÔ HÌNH THỰC NGHIỆM
Nguyên lý hoạt động và tiến trình thực nghiệm
như hình 4. Chi tiết được kẹp chặt dưới trục chính
và được điều khiển bởi một động cơ bước. Động cơ
và trục chính được lắp đặt trên trục Z, có thể di
chuyển theo chiều dọc trục Z bằng một trục vít dẫn.
Ngoài ra, trục Z đã được lắp đặt trên trục X, do đó
chuyển động qua lại có thể thực hiện được.Chi tiết
được quay tròn và tịnh tiến lên xuống theo phương
Z trong quá trình gia công.
Hình 4. Mô hình thí nghiệm
Dung dịch mài bóng bao gồm hạt mài và chất kết
dính được khuấy trộn thành khối dung dịch. Khối
dung dịch này sẽ được chứa trong một rãnh tròn và
được điều khiển chuyển động quay tròn bởi một
động cơ đặt ở dưới cùng của thiết bị. Các thông số
của quá trình gia công như đường kính chi tiết, tốc
độ quay của trục chính, đường kính của đĩa mài, tốc
độ quay của đĩa mài được liệt kê trong bảng 1. Các
yếu tố ảnh hưởng đến độ nhám bề mặt và tốc độ cắt
bỏ vật liệu bao gồm tốc độ gia công, nồng độ dung
dịch mài và kích thước hạt mài được thiết lập trong
nghiên cứu này.
Bảng 1. Thông số máy và chi tiết gia công
Thông số Giá trị
Đường kính chi tiết (mm) 40
Tốc độ quay của trục chính (vòng /phút) 0 - 400
Đường kính của đĩa mài (mm) 350
Tốc độ quay của đĩa mài (vòng/phút) 0 - 200
Hạt mài được sử dụng trong quá trình thực
nghiệm là Al2O3. Chi tiết được sử dụng trong thực
nghiệm là mặt cầu có đường kính 40 mm. Các
thông số của quá trình thực nghiệm được trình bày
trong bảng 2. Độ nhám bề mặt sau khi gia công ứng
với các thông số khác nhau được tiến hành trên
máy đo độ nhám SJ-310.
Bảng 2. Thông số máy và chi tiết gia công
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số K5-2017
61
Thông số Giá trị
Hạt mài Al2O3
Đường kính của hạt mài (µm) 3,5; 5; 7,5; 15
Nồng độ dung dịch mài (wt%) 10, 20, 30, 35
Tốc độ quay của đĩa mài (vòng/phút) 50, 80, 120, 150
Tốc độ quay của chi tiết (vòng/phút) 200
Thời gia gia công (phút) 60
4 KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
4.1 Ảnh hưởng của tốc độ cắt
Quá trình thực nghiệm ảnh hưởng của tốc độ đĩa
mài đến độ nhám bề mặt được thực hiện với hạt
mài có đường kính hạt mài trung bình là 7,5 µm và
nồng độ dung dịch hạt mài 30%. Kết quả ảnh
hưởng của tốc độ đĩa mài đến độ nhám bề mặt như
hình 5. Ở kết quả thực nghiệm, độ nhám bề mặt của
chi tiết giảm khi tăng tốc độ gia công và thời gian
gia công. Độ nhám bề mặt giảm nhanh ở 3 giờ gia
công đầu tiên, còn sau đó độ nhám bề mặt có thay
đổi nhưng tốc độ giảm tương đối ít. Ở thời gian gia
công 5 đến 6 giờ thì độ nhám bề mặt hầu như
không thay đổi nhiều. Với tốc độ gia công
150 (vòng/phút) và sau 6 giờ gia công thì độ nhám
bề mặt đạt được cao nhất là khoảng 23 nm.
Hình 5. Quan hệ giữa tốc độ cắt và độ nhám bề mặt
4.2 Ảnh hưởng của nồng độ dung dịch mài
Với kết quả ở hình 6 cho thấy rằng, độ nhám bề
mặt chi tiết giảm rõ rệt tương thích với sự thay đổi
của nồng độ dung dịch mài. Độ nhám bề mặt giảm
nhanh chóng trong một giờ gia công đầu tiên với
nồng độ dung dịch mài là 30% và 35%. Độ nhám
bề mặt đạt giá trị tốt nhất là khoảng 24 nm với nồng
độ dung dịch mài 35%. Tuy nhiên, với nồng độ
dung dịch mài 10% thì độ nhám hầu như ít thay đổi
theo thời gian gia công. Điều này có nghĩa là, khi
nồng độ dung dịch thấp thì tỷ lệ hạt mài trong dung
dịch sẽ ít, do đó khả năng tạo ra ứng suất cắt, sự kết
dính và đông đặc của dung dịch giảm xuống. Kết
quả chất lượng bề mặt gia công sẽ giảm xuống.
Hình 6. Quan hệ giữa nồng độ dung dịch mài và độ nhám bề mặt
4.3 Ảnh hưởng của kích thước hạt mài
Như kết quả ở hình 7, ảnh hưởng của kích thước
hạt mài đến độ nhám bề mặt chi tiết gia công cũng
không đáng kể. Độ nhám bề mặt giảm xuống nhanh
chóng ở giờ gia công đầu tiên. Sau đó, độ nhám hầu
như không thay đổi khi thời gian gia công tăng lên.
Độ nhám bề mặt đạt được sau 6 giờ gia công
khoảng từ 28 nm đến 24 nm với kích thước hạt mài
từ 3,5 µm đến 15 µm. Điều này cho thấy rằng, kích
thước hạt mài ảnh hưởng không đáng kể đến độ
nhám bề mặt.
Hình 7. Quan hệ giữa kích thước hạt mài và độ nhám bề mặt
5 KẾT LUẬN
Dựa trên các kết quả thực nghiệm về ảnh hưởng
của tốc độ gia công, nồng độ dung dịch mài và kích
thước hạt mài đến lượng vật liệu cắt gọt và độ
nhám bề mặt, có thể rút ra một số kết luận như sau:
Tốc độ quay của đĩa mài có ảnh hưởng lớn đến
độ nhám bề mặt. Tốc độ quay của đĩa mài càng
tăng thì chất lượng bề mặt càng tốt. Với tốc độ
quay của đĩa mài là 150 (vòng /phút) thì độ nhám
bề mặt đạt được Ra = 23 nm.
Nồng độ dung dịch mài cũng là nhân tố quan
trọng quyết định độ nhám bề mặt chi tiết gia công.
Khi nồng độ dung dịch càng tăng thì chất lượng bề
mặt sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, nếu nồng độ dung dịch
quá lớn thì ứng suất cắt lại không tăng theo và như
vậy hiệu quả gia công không đạt yêu cầu.
Kích thước hạt mài hầu như không ảnh hưởng
đến độ nhám bề mặt chi tiết gia công. Độ nhám bề
62 Science and Technology Development Journal, vol 20, No.K5-2017
mặt giảm xuống nhanh chóng ở giờ gia công đầu
tiên. Sau đó, độ nhám hầu như không thay đổi khi
thời gian gia công tăng lên
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Zhang X, Kuhlenk Otter B, Kneupner K. An
efficient method for solving the signorini
problem in the simulation of freeform
surfaces produced by belt grinding. Int. J.
Mach. Tools Manuf., 2005; 641–648.
[2]. Kim DW, Burge JH, Rigid conformal
polishing tool using non-linear visco -
elastic effect. Opt. Express 2010; 2242-2257
[3]. Zeng SY, Blunt L. Experimental
investigation and analytical modelling of the
effects of process parameters on material
removal rate for bonnet polishing of cobalt
chrome alloy. Precision Engineering 2014;
348–355
[4]. Tsuwa H, Ikawa N, Mori Y. Numerically
controlled elastic emission machine. CIRP
Ann. – Manuf. Technol., 1979; 193-197
[5]. Steigerwald JM, Murarka SP. Gutmann RJ.
Chemical Mechanical Planarization of
Microelectronic Materials. A Wiley –
Interscience Publication John Wiley & Sons,
Inc., NewYork, 1996.
[6]. Watanabe J, Suzuki J, Kobayashi A, High
precision polishing of semi-conductor
materials using hydrodynamic principle.
CIRP Ann. – Manuf. Technol., 1981; 91-95
[7]. Tani Y, Kawata K, Nakayama K,
Development of high - efficient fine finishing
process using magnetic fluid. CIRP Ann. –
Manuf. Technol., 1984; 217-220.
[8]. Shorey AB, Kwong KM, Johnson KM,
Jacobs SD, Nanoindentation hardness of
particles used in magnetorheological
finishing (MRF). Appl.Opt.,2000; 5194 -
5204
[9]. Wagner NJ, Brady JF. Shear thickening in
colloidal dispersions, Phys.Today., 2009;
27–32.
[10]. Li M, Lyu BH, Yuan JL, Dong CC, Dai W.
Shear thickening polishing method.
International Journal of Machine Tools &
Manufacture 2015; 88–99.
Nguyễn Đức Nam, nhận
bằng đại học, thạc sĩ tại Đại
học Sư phạm Kỹ thuật và
bằng tiến sĩ (2012) tại đại
học Hunna (China). Hiện tại
tác giả là giảng viên Khoa Cơ
khí, Trường Đại học Công
nghiệp TP.HCM. Các hướng
nghiên cứu của tác giả gia công chính xác và
phương pháp số.
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 20, số K5-2017
63
Abstract—Traditionally, the curved surfaces
are generated by a complicated machining
process to achieve the required surface quality.
To simplify this process, the abrasive will be
mixed with the binder to become a polishing
slurry. This slurry does not obey the Newton
laws when it moves. This process will produce
the shear stress for the slurry on the machining
surface. Based on the non-Newton fluid, the
curved surface will be machined by a simple
machining process. In this paper, the effects of
grinding speed, slurry concentration and
abrasive size on the surface roughness are
discussed. The experimental results show that
the polishing speed has an obvious influence on
surface finishing. With the increase of the
polishing speed, the surface roughness reduces.
In addition, the slurry concentration also affects
the surface quality like the polishing speed. The
abrasive size has a small effect on the surface
finishing. The surface roughness of steel
spherical workpiece Ø40 mm is reduced sharply
from Ra = 130 nm to Ra = 23 nm after
treatment.
Keywords—non-Newton fluid, curved surface,
polishing speed, slurry concentration, abrasive
size, surface roughness.
Study on the application of non-Newton fluid in
curved surface polishing
Duc Nam Nguyen
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_ung_dung_chat_long_phi_newton_trong_mai_tinh_be_m.pdf