In recent years, the climate change has been one of the hot issues that need a lot of attention of
researchers, particularly those related to rainfall for planning for irrigation in order to raise the
management efficiency of the irrigation systems’ operation. The change in seasonal rainfall which
directly affects the irrigation regime and the water source is the basic data for planning of
irrigation systems. The question is whether the changes in the amount of seasonal rainfall can be
predicted with accuracy at acceptable levels. In this article, the Adaptive Neuro-fuzzy Inference
System (ANFIS) model has been proposed to develop a precipitation model for the Ca river basin.
Data for calculations were obtained at four representative meteorological stations in the Ca river
basin from 1975 to 2014. Different seasonal rainfall forecast models were constructed with
different input rainfall parameters, the predictive performance of these models is compared through
statistical parameters to identify and propose models with the best prediction. The results show that
the M4 model gives the best and most reliable results for 3-month and 6-month seasonal rainfall
forecasts for the study area
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
9 trang | 
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 782 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ứng dụng mô hình anfis dự báo lượng mưa vụ phục vụ cho việc lập kế hoạch tưới trên lưu vực Sông Cả, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 18
BÀI BÁO KHOA H
C 
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG MÔ HÌNH ANFIS DỰ BÁO LƯỢNG MƯA VỤ 
PHỤC VỤ CHO VIỆC LẬP KẾ HOẠCH TƯỚI TRÊN LƯU VỰC SÔNG CẢ 
Nguyễn Lương Bằng1 
Tóm tắt: Trong những năm gần đây, diễn biến về lượng mưa trên các lưu vực là một trong những 
vấn đề cần được quan tâm và nghiên cứu, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến lượng mưa vụ 
(LMV) phục vụ cho việc việc lập kế hoạch tưới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vận hành các hệ 
thống thủy lợi. Do sự thay đổi LMV có ảnh hưởng trực tiếp đến chế độ tưới và nguồn nước, đó là 
tài liệu cơ bản trong việc lập kế hoạch tưới của các hệ thống thủy lợi, câu hỏi được đặt ra là liệu 
những thay đổi về LMV có thể được dự báo với độ chính xác ở mức có thể chấp nhận được hay 
không. Trong bài viết này, mô hình ANFIS (adaptive neuro-fuzzy inference system) đã được đề xuất 
để xây dựng mô hình dự báo LMV cho lưu vực sông Cả. Số liệu dùng cho tính toán được lấy ở 4 
trạm khí tượng đại diện trên lưu vực sông Cả từ năm 1975 đến 2014. Các mô hình dự báo LMV 
khác nhau đã được xây dựng với các tham số lượng mưa đầu vào khác nhau, kết quả dự báo của 
các mô hình này được so sánh thông qua các thông số thống kê để xác định và đề xuất mô hình có 
kết quả dự báo tốt nhất. Kết quả cho thấy mô hình dự báo với các nhân tố dự báo là lượng mưa vụ 
của 5 năm liên tiếp trong quá khứ cho kết quả tốt nhất và đáng tin cậy nhất để dự báo lượng mưa 
vụ 3 tháng và 6 tháng cho khu vực nghiên cứu. 
Từ khóa: Lượng mưa vụ, Lưu vực sông Cả, Mô hình ANFIS. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1 
Lượng mưa vụ là hiện tượng ngẫu nhiên trong 
tự nhiên do hoàn lưu khí quyển và đại dương gây 
ra. Lượng mưa vụ (LMV) là nguồn cung cấp nước 
chính, là tài liệu cơ bản để xác định chế độ tưới và 
nguồn nước phục vụ cho việc lập kế hoạch tưới 
của các hệ thống thủy lợi. Hiện nay, ở Việt Nam 
việc xác định LMV phục vụ cho công tác lập kế 
hoạch tưới chủ yếu dựa vào phương pháp thống 
kê xác suất để tính LMV với một mức đảm bảo 
nhất định nào đó. Vì thế, kế hoạch tưới đã được 
lập chưa phù hợp với diễn biến lượng mưa thực tế 
của vụ đó dẫn đến hiệu quả quản lý vận hành các 
hệ thống thủy lợi chưa cao (PGS. TS. Phạm Việt 
Hòa, 2007). Do đó, việc xác định (dự báo) LMV 
với độ chính xác ở mức có thể chấp nhận được là 
rất hữu ích cho việc lập kế hoạch tưới phù hợp để 
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý vận hành các 
hệ thống thủy lợi. 
Dự báo lượng mưa nói chung là khó khăn và 
cũng là một nhiệm vụ đầy thách thức cho bất cứ ai 
1
 Đại học Thủy Lợi, e-mail: nguyenluongbang77@tlu.edu.com 
vì quá trình khí quyển là rất phức tạp. Trong kỹ 
thuật dự báo, cụ thể là các phương pháp thống 
kê như ARIMA (autoregressive integrated 
moving average), mô hình hồi quy,  và các 
phương pháp trí tuệ nhân tạo khác như ANN 
(artificial neural network), ANFIS (adaptive 
neuro fuzzy inference system), FIS (fuzzy 
inference system), GA (genetic algorithm) 
đã được đề xuất và ứng dụng. Banik, S. et al 
(2008) đã sử dụng phương pháp ANN, ANFIS 
và GA để xây dựng mô hình dự báo lượng 
mưa, kết quả thu được từ các mô hình này đã 
được so sánh với các số liệu thống kê, các mô 
hình dự báo ANFIS và GA có thể được sử 
dụng để dự báo lượng mưa tháng chính xác 
hơn so với mô hình ANN và mô hình hồi quy 
tuyến tính khác. Nayak, D. R. et al (2013) 
cũng đã sử dụng các cấu trúc mạng thần kinh 
khác nhau để dự báo lượng mưa, kết quả lượng 
mưa dự báo là đáng tin cậy. El-Shafie, A. et al 
(2011) đã phát triển mô hình ANFIS và ANN 
để dự báo lượng mưa tháng cho lưu vực sông 
Klang ở Malaysia, kết quả cho thấy kết quả của 
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 19
phương pháp ANFIS là tốt hơn so với phương 
pháp ANN và kết luận rằng phương pháp 
ANFIS là vượt trội so với phương pháp ANN 
trong dự báo lượng mưa tháng. 
Hình 1. Bản đồ lưu vực sông Cả 
Trong những năm gần đây phương pháp 
ANFIS đã trở nên rất phổ biến cho việc dự báo 
trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Phương pháp 
ANFIS đã được chấp nhận như là một công cụ 
thay thế hiệu quả cho các phương pháp truyền 
thống và được sử dụng rộng rãi để dự báo trong 
hệ thống thủy văn phức tạp. Dữ liệu lượng mưa 
là đa chiều, biến động và phi tuyến tính, do đó 
trong bài báo này tác giả đã lựa chọn phương 
pháp ANFIS để thiết lập một mô hình dự báo 
LMV thích hợp cho vùng nghiên cứu. 
2. VÙNG NGHIÊN CỨU VÀ SỐ LIỆU 
Lưu vực sông Cả nằm ở vùng Bắc Trung 
Bộ, vùng hạ lưu của sông Cả giới hạn bởi các 
huyện Đô Lương, Yên Thành, Diễn Châu, 
Thanh Chương, Anh Sơn, Hưng Nguyên, Nam 
Đàn, Nghi Lộc, thị xã Cửa Lò, thành phố Vinh 
(Tỉnh Nghệ An). Huyện Đức Thọ, Nghi Xuân, 
Can Lộc, Lộc Hà, thị xã Hồng Lĩnh (Tỉnh Hà 
Tĩnh). Có tọa độ địa lý: 18°15’ đến 19°3’ vĩ 
độ Bắc, 104°55’20” đến 105°58’ 30” kinh độ 
Đông. 
Lưu vực sông Cả nằm trong khu vực khí 
hậu nhiệt đới gió mùa tuy nhiên khí hậu có 
những đặc điểm khá độc đáo, lượng mưa trung 
bình hàng năm từ 1.100÷2.500 (mm), có 2 
mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô, mùa mưa 
tập trung từ tháng 5÷10, mùa khô từ tháng 11 
đến tháng 4 năm sau, đặt biệt là lượng mưa 
chủ yếu tập trung vào các tháng 8, 9, 10. Nhiệt 
độ có sự chênh lệch lớn giữa các tháng của 
mùa đông và mùa hè, nhiệt độ trung bình 
nhiều năm là 23.5°C, nhiệt độ thấp nhất vào 
mùa đông có nơi là 0,5°C, vào mùa hè có nơi 
lên đến 42,7°C. 
Bốn trạm khí tượng, cụ thể là Vinh, Đô 
Lương, Quỳ Châu và Tương Dương đã được 
chọn để đại diện cho khí hậu của lưu vực 
nghiên cứu. Các thông số về lượng mưa của 4 
trạm khí tượng được thể hiện trong bảng 1. 
Các số liệu mưa này được sự quản lý của 
Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia 
Việt Nam, chất lượng của số liệu đủ sự bảm 
bảo và tin cậy để tính toán. Phạm vi thời gian 
khai thác số liệu để sử dụng trong nghiên cứu 
được lấy từ tháng 1 năm 1975 đến tháng 12 
năm 2014. 
Bảng 1. Các thông số về lượng của 4 trạm khí tượng ở lưu vực sông Cả (đơn vị: mm) 
Tên trạm Kinh độ Vĩ độ 
TB năm từ 
1975-2014 
Năm lớn nhất 
1975-2014 
Năm nhỏ nhất 
1985-2014 
Độ lệch 
chuẩn 
Vinh 105°40’E 18°40’ N 2041.6 3521,3 (1989) 1185,8 (1977) 483,9,4 
Quỳ Châu 105°06’E 19°34’ N 1646,5 2492 (1978) 1101,7 (1976) 292,4 
Tương Dương 104°28’E 19°16’ N 1268,2 1887,8 (2005) 734,6 (1998) 243,2 
Đô Lương 104°53’E 19°03’ N 1811,4 3529,4 (1978) 1083,8 (1998) 425,5 
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 20
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
3.1. Yếu tố dự báo (biến đầu ra) 
Với mục tiêu của đề tài là nghiên cứu và đề 
xuất mô hình dự báo LMV phục vụ cho việc lập 
kế hoạch tưới, thời đoạn để tính toán LMV căn 
cứ vào thời vụ sản xuất nông nghiệp của từng 
vùng, thời vụ sản xuất nông nghiệp có thể là 1, 
2, ..., 6 tháng ... hay 1 năm. Trong bài viết này 
sẽ lựa chọn 3 vụ điển hình có thời đoạn tính 
toán là 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng để tính toán. 
Vì thế, yếu tố dự báo là tổng LMV 1, 3 và 6 
tháng trong tương lai tại thời điểm t, các yếu tố 
dự báo được ký hiệu là Pi(t), trong đó i là biến 
LMV (LMV 1 tháng thì i=1, LMV 3 tháng i=3, 
LMV 6 tháng i=6); LMV 1 tháng dự báo tại thời 
điểm t ký hiệu là P1(t); LMV 3 tháng dự báo tại 
thời điểm t ký hiệu là P3(t); và LMV 6 tháng dự 
báo tại thời điểm t ký hiệu là P6(t). 
3.2. Nhân tố dự báo (biến đầu vào) 
Một trong những bước quan trọng nhất trong 
việc phát triển một mô hình dự báo đạt yêu cầu 
là lựa chọn nhân tố dự báo (các biến đầu vào), 
bởi vì các biến này xác định cấu trúc của các mô 
hình dự báo và ảnh hưởng đến các hệ số trọng 
số và kết quả của các mô hình. Trong nghiên 
cứu này, các mô hình dự báo dựa trên các nhân 
tố dự báo là lượng mưa trong lịch sử (quá khứ) 
được ký hiệu là Pi(t-j), trong đó j là biến thời 
gian (số năm trước thời điểm dự báo, j=1, 2, 
n), nếu yếu tố dự báo là LMV 1 tháng tại thời 
điểm t mà sử dụng nhân tố dự báo là lượng mưa 
của tháng đó trước 1 năm thì j=1, trước 2 năm 
thì j=2, trước 3 năm thì j=3 , ví dụ như yếu tố 
dự báo là lượng mưa tháng 1 năm 2016 thì các 
nhân tố dự báo là lượng mưa tháng 1 năm 2015 
thì j=1, lượng mưa tháng 1 năm 2014 thì j=2, 
đối với yếu tố dự báo là LMV 3 tháng hay vụ 6 
tháng thì biến thời gian j cũng tương tự như 
LMV 1 tháng. 
3.3. Cấu trúc mô hình dự báo 
Để thiết lập các phương pháp dự báo lượng 
mưa tại thời điểm t Pi(t) tác giả sẽ sử dụng nhân 
tố dự báo là các lượng mưa trong quá khứ Pi(t-
1), Pi(t-2), Pi(t-j), như đã phân tích ở trên thì 
số biến đầu vào khác nhau thì kết quả dự báo sẽ 
khác nhau, vì thế trong nghiên cứu này tác giả 
đã thiết lập 5 mô hình khác nhau (được ký hiệu 
là M1, M2, , M5) với số biến đầu vào tăng 
dần từ 2 biến đến 6 biến đầu vào, cụ thể cấu trúc 
của các mô hình được thể hiện như bảng 2. 
Bảng 2. Các tham số của mô hình dự báo 
Mô 
hình 
Tham số đầu vào (nhân tố dự 
báo) 
Đầu ra (yếu tố 
dự báo) 
M1 Pi(t-1), Pi(t-2) Pi(t) 
M2 Pi(t-1), Pi(t-2), Pi(t-3) Pi(t) 
M3 Pi(t-1), Pi(t-2), Pi(t-3), Pi(t-4) Pi(t) 
M4 Pi(t-1), Pi(t-2), Pi(t-3), Pi(t-4), Pi(t-5) Pi(t) 
M5 Pi(t-1), Pi(t-2), Pi(t-3), Pi(t-4), Pi(t-5), Pi(t-6) Pi(t) 
 3.4. Mô hình mạng noron thích nghi mờ 
(Adaptive Neuro-Fuzzy Inference System – 
ANFIS) 
Mô hình ANFIS được đề xuất bởi Jang, J. -S. 
R. (1993); Jang, J.-S.R. et al (1997) đã được áp 
dụng để nghiên cứu nhiều vấn đề. Mô hình 
ANFIS được dựa trên một hệ thống giao diện 
mờ, được đào tạo bởi một thuật toán bắt nguồn 
từ lý thuyết mạng nơron. Một xử lý chi tiết của 
ANFIS được cung cấp bởi Ying, H. (2000). Các 
hệ thống Sugeno-type của ANFIS với ba yếu tố 
đầu vào và hai quy tắc, được sử dụng trong 
nghiên cứu này, được thể hiện trong Hình 2. 
Hình 2. Cấu trúc mô hình ANFIS 
Các nút hình vuông và hình tròn được sử 
dụng để phản ánh đặc tính khác nhau của việc 
học thích nghi. Các nút vuông (các nút thích 
nghi) có các thông số, trong khi các nút tròn 
(nút cố định) thì không. Mỗi nút có chức năng 
nút riêng. Các chức năng nút khác nhau từ nút 
tới nút. Sự kết nối giữa hai nút cho biết hướng 
của tín hiệu. 
 Trong hình 2, mô hình ANFIS có 3 biến đầu 
vào là: Nhân tố dự báo 1 (được ký hiệu là biến 
x), Nhân tố dự báo 2 (được ký hiệu là biến y), 
Nhân tố dự báo 3 (được ký hiệu là biến z); biến 
đầu ra là yếu tố dự báo (LMV). Mỗi biến đầu 
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 21
vào có 3 hàm thuộc là (A1, A2), (B1, B2), (C1, 
C2) tương ứng. 
Quy tắc mờ Nếu-Thì (if-then) kiểu Sugeno-
type cho biến đầu ra tuyến tính được thiết lập 
như sau: 
Quy tắc 1: Nếu x bằng A1, y bằng B1 , z bằng 
C1 thì: 
11111 szryqxpf +++= (1) 
Quy tắc 2: Nếu x bằng A2, y bằng B2 thì: 
22222 szryqxpf +++= (2) 
Trong công thức trên thì Ai, Bi, Ci là tập mờ 
(một tập mờ được xác định duy nhất bởi hàm 
thuộc của nó); fi là hàm đầu ra của vùng mới; và 
pi, qi, ri, si là các hệ số kết quả được xác định 
trong quá trình đào tạo, i là biến chạy từ 1 đến 2. 
Một hàm thuộc (membership function, MF) 
là một đường cong xác định độ mạnh của một 
điểm 'x ∈ X thuộc về một tập hợp, bằng cách 
chỉ định mức độ thuộc giữa 0 và 1, 
{ }1,0:)'(
'
→Xxzµ . Có thể có một dạng hình 
MF, chẳng hạn như hình chuông MF, Gaussian 
MF, hai mặt Gaussian MF, hình tam giác MF, 
hình thang MF, và hình dạng pi MF. Trong luận 
án này sử dụng hàm thuộc là Gaussian MF. 
Hàm thuộc Gaussian MF có dạng: 
( )( )2
'
'exp),'()'( σσµ cxxfxz −−== (3) 
Trong đó, 'x là giá trị của đầu vào đến nút ith; 
c và σ
là chiều rộng trung tâm đường cong 
Gaussian của tập mờ 'Z tương ứng. c và σ 
được gọi là các tham số tiền đề. 
Các nút trong cùng một lớp có chức năng 
như nhau, như mô tả dưới đây: 
Lớp đầu tiên của hình 2 chứa các nút thích 
nghi được đại diện bởi i, mà các kết quả đầu ra 
được tính với hàm của nút là: 
( ),
,1 xO iAi µ= 2,1=i
 (4) 
( ),
2,1
yO
iBi −
= µ 4,3=i (5) 
( ),
4,1
zO
iCi −= µ 6,5=i (6) 
Trong đó iA , 2−iB , và 4−iC là các nhãn ngôn 
ngữ (ví dụ như “nhỏ”, “trung bình”, hoặc “cao”) 
gắn với nút đó, µ
là hàm thuộc. Như vậy, iO ,1 đại 
diện cho cấp thuộc của một tập mờ 
( )212121 ,,,,,' orCCBBAAZ = , và xác định mức 
độ cho mỗi đầu vào zyx ,, thảo mãn tập mờ A. 
Lớp thứ hai là lớp quy tắc. Mỗi nút trong lớp 
này có hình tròn, có nhãn là Π, được gọi là các nút 
quy tắc. Một đầu ra từ các nút quy tắc đại diện cho 
một sản phẩm của các tín hiệu đầu vào. Nghĩa là, 
nút cố định nhận các đầu vào từ các nút thích nghi 
tương ứng, và mỗi giá trị đầu ra của nút biểu diễn 
cường độ của một quy tắc đã cho: 
( ) ( ) ( ),
,2 zyxwO iii CBAii µµµ== (7) 
Trong lớp thứ ba, mỗi nút là một nút cố định 
hình tròn có nhãn là N. Số lượng các nút trong 
lớp này là các nút số giống nhau trong lớp quy 
tắc. Nút thứ i trong lớp này được tính là tỷ lệ 
của cường độ quy tắc của nút thứ I so với tổng 
tất cả các cường độ của các quy tắc: 
,
,3
i
i
ii
w
w
wO
Σ
== 2,1=i (8) 
Trong lớp thứ tư, mỗi nút là một nút thích 
nghi hình vuông, có nhãn là Z. Số lượng các nút 
trong lớp này giống như số nút trong lớp thứ ba. 
Đầu ra từ mỗi nút là giá trị kết quả trọng số của 
một quy tắc nhất định: 
),(
,4 iiii
i
i
iii szrqxp
w
wfwO +++
Σ
==
2,1=i 
(9) 
Lớp thứ năm chỉ chứa một nút đầu ra, và 
được gọi là lớp tổng kết. Nút đơn này là một nút 
hình tròn và được biểu thị là ∑. Nút này tính 
tổng sản lượng của ANFIS, là tổng của các đầu 
ra của tất cả các nút thích nghi trong lớp thứ tư: 
∑
∑
∑∑
=
=
==
=+
===
2
1
2
1
21
2
1
2
1 ,4,5
i i
i ii
ii
ii ii ii
w
fwfwfw
fwOO
(10) 
Giá trị đầu ra của P(t) được tính như sau: 
P(t) = ( ) =
+
+
=
21
2211
,,
ww
fwfw
zyxf 
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 22
( ) ( )
( )zyxwzyzw
zyxfzyxwzyxfzyxw
,,),,(
,,),,(,,),,(
21
2211 +
= (11) 
ANFIS sử dụng một thuật toán học lai để 
hiệu chỉnh mạng. Việc kết hợp thuật toán hồi 
phục lại với thuật toán xấp xỉ hoặc thuật toán 
truyền lại được sử dụng trong thuật toán học lai 
ghép để tối ưu hóa các tham số trong các lớp 1 
và 4. Các chi tiết toán học của các thuật toán 
được đưa ra trong nghiên cứu của Jang, J.-S.R. 
et al (1997), Nayak, P. C. et al (2004) và 
Bacanli, Ulker Guner et al (2009). 
3.5. Kiểm định các mô hình dự báo 
Trong mỗi mô hình, mỗi biến đầu vào phải 
được nhóm vào một số giá trị trong lớp lớp 1, 
xây dựng các quy tắc mờ; ngoài ra, mỗi quy tắc 
mờ sẽ được xây dựng thông qua một số thông số 
của các hàm thành viên trong lớp 2 (hình 2). Vì 
số lượng các thông số tăng lên cùng với quy luật 
thặng dư mờ, cấu trúc mô hình trở nên phức tạp 
hơn. Trong nghiên cứu này, các chức năng phân 
nhóm phép trừ mờ được sử dụng để thiết lập các 
quy tắc mờ, dựa trên các mối quan hệ giữa các 
biến số đầu vào-ra. Để xác định các thông số 
đầu vào và đầu ra tuyến tính phi tuyến, một 
thuật toán lai được sử dụng, thủ tục đào tạo và 
xây dựng các quy tắc được cung cấp bởi các 
thuật toán này. Việc thực hiện các mô hình 
ANFIS cho quá trình đào tạo và thử nghiệm các 
tập dữ liệu được đánh giá thông qua 3 thông số 
thống kê là: Sai số căn quân phương (Root mean 
square error, RMSE); Hệ số tương quan 
(Correlation Coefficient, CORR); Tỷ lệ chênh 
lệch (Discrepancy ratio, D). Để kiểm định kết 
quả dự báo của một mô hình ta dựa vào giá trị 
của 3 hệ số thống kê là RMSE, CORR và D. 
Một mô hình dự báo có kết quả dự báo tốt khi 
giá trị của CORR và D gần giá trị 1.0, và RMSE 
gần giá trị 0. Tập dữ liệu dùng cho quá trình đào 
tạo là số liệu LMV từ năm 1975 đến 2012. Để 
đạt được một sự đánh giá, so sánh và kiểm định 
đáng tin cậy hơn, tập dữ liệu dùng cho quá trình 
thử nghiệm không trùng với quá trình đào tạo, 
tập dữ liệu dùng cho quá trình thử nghiệm là số 
liệu LMV từ năm 2013 đến 2015. 
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Dựa vào cấu trúc của các mô hình dự báo 
và thuật toán của mạng noron thích nghi mờ 
(ANFIS) tác giả tiến hành lập trình trên 
phần mềm Matlab. Kết quả kiểm định kết 
quả của các mô hình dự báo cho các trạm 
thông qua 3 thông số thống kê RMSE, 
CORR và D như sau: 
Bảng 3. Kết quả dự báo lượng mưa vụ 1 tháng của các trạm 
Trạm Quỳ Châu Trạm Tương Dương 
Mô 
hình 
Đào tạo Thử nghiệm Mô 
hình 
Đào tạo Thử nghiệm 
CORR D RMSE CORR D RMSE CORR D RMSE CORR D RMSE 
M1 0.74 1.00 94.20 0.83 0.97 69.90 M1 0.71 1.00 74.70 0.89 1.15 66.00 
M2 0.78 1.00 87.30 0.89 0.97 59.00 M2 0.85 1.00 70.40 0.85 1.13 68.50 
M3 0.83 1.00 78.40 0.86 0.95 64.40 M3 0.83 1.00 59.50 0.83 1.12 71.60 
M4 0.93 1.00 53.30 0.85 0.93 67.00 M4 0.94 1.00 37.10 0.83 1.09 68.86 
M5 0.99 1.00 17.00 0.45 0.89 230.00 M5 0.99 1.00 11.60 0.39 1.31 144.90 
Trạm Đô Lương Trạm Vinh 
Mô 
hình 
Đào tạo Thử nghiệm Mô 
hình 
Đào tạo Thử nghiệm 
CORR D RMSE CORR D RMSE CORR D RMSE CORR D RMSE 
M1 0.61 1.00 143.90 0.70 0.96 121.70 M1 0.68 1.00 167.90 0.64 0.95 148.70 
M2 0.65 1.00 137.50 0.80 0.96 102.70 M2 0.78 1.00 144.60 0.53 0.89 170.60 
M3 0.76 1.00 117.60 0.73 0.97 116.20 M3 0.86 1.00 117.40 0.50 0.91 175.00 
M4 0.92 1.00 70.80 0.79 1.07 103.60 M4 0.95 1.00 70.60 0.57 0.90 170.00 
M5 0.97 1.00 46.70 0.19 1.02 250.00 M5 0.99 1.01 39.10 0.46 0.90 187.50 
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 23
Bảng 4. Kết quả dự báo lượng mưa vụ 3 tháng của các trạm 
Trạm Quỳ Châu Trạm Tương Dương 
Mô 
hình 
Đào tạo Thử nghiệm Mô 
hình 
Đào tạo Thử nghiệm 
CORR D RMSE CORR D RMSE CORR D RMSE CORR D RMSE 
M1 0.85 1.00 54.60 0.95 0.97 33.10 M1 0.82 1.00 44.60 0.95 1.03 35.10 
M2 0.88 1.00 50.00 0.96 0.95 29.30 M2 0.85 1.00 41.20 0.94 1.07 38.10 
M3 0.90 1.00 44.60 0.96 0.95 29.00 M3 0.90 1.00 35.40 0.95 1.05 35.60 
M4 0.95 1.00 31.00 0.96 0.92 31.70 M4 0.95 1.00 23.40 0.95 1.10 39.40 
M5 1.00 1.00 5.80 0.95 0.93 34.10 M5 1.00 1.00 4.90 0.94 1.09 40.20 
Trạm Đô Lương Trạm Vinh 
Mô 
hình 
Đào tạo Thử nghiệm Mô 
hình 
Đào tạo Thử nghiệm 
CORR D RMSE CORR D RMSE CORR D RMSE CORR D RMSE 
M1 0.72 1.00 86.20 0.91 0.95 50.90 M1 0.81 0.82 94.00 0.80 0.89 84.10 
M2 0.75 1.00 81.70 0.94 0.97 42.10 M2 0.83 1.00 84.70 0.86 0.91 70.70 
M3 0.80 1.00 74.10 0.91 0.98 51.30 M3 0.89 1.00 69.90 0.88 0.91 66.80 
M4 0.96 1.00 35.20 0.94 0.96 48.90 M4 0.97 1.00 36.70 0.89 0.95 60.00 
M5 0.99 1.00 15.20 0.90 0.91 56.00 M5 1.00 1.00 14.70 0.86 0.98 65.70 
Bảng 5. Kết quả dự báo lượng mưa vụ 6 tháng của các trạm 
Trạm Quỳ Châu Trạm Tương Dương 
Mô 
hình 
Đào tạo Thử nghiệm Mô 
hình 
Đào tạo Thử nghiệm 
CORR D RMSE CORR D RMSE CORR D RMSE CORR D RMSE 
M1 0.84 1.00 39.60 0.98 0.97 16.10 M1 0.79 1.00 33.60 0.95 1.05 24.20 
M2 0.87 1.00 36.04 0.98 0.95 15.80 M2 0.84 1.00 29.90 0.96 1.08 24.60 
M3 0.89 1.00 32.80 0.98 0.95 17.20 M3 0.86 1.00 27.80 0.94 1.06 25.50 
M4 0.95 1.00 23.10 0.98 0.95 16.80 M4 0.94 1.00 18.90 0.94 1.10 28.60 
M5 1.00 1.00 6.30 0.98 0.95 15.40 M5 0.99 1.00 5.54 0.96 1.11 27.30 
Trạm Đô Lương Trạm Vinh 
Mô 
hình 
Đào tạo Thử nghiệm Mô 
hình 
Đào tạo Thử nghiệm 
CORR D RMSE CORR D RMSE CORR D RMSE CORR D RMSE 
M1 0.71 1.00 70.54 0.93 0.99 32.9 M1 0.77 1.00 64.50 0.81 0.93 54.40 
M2 0.76 1.00 64.34 0.92 0.98 33.8 M2 0.81 1.00 58.60 0.86 0.94 48.10 
M3 0.80 1.00 49.30 0.91 0.95 35.5 M3 0.88 1.00 48.00 0.87 0.96 45.20 
M4 0.94 1.00 29.10 0.95 0.94 30.4 M4 0.97 1.00 25.50 0.87 0.96 45.70 
M5 1.00 1.00 4.60 0.92 0.93 36.8 M5 1.00 1.00 7.30 0.83 0.94 54.60 
Theo các chỉ tiêu đánh giá RMSE, CORR và 
D cho thấy kết quả dự báo của quá trình đào tạo 
của tất cả các mô hình tại các trạm đều cao hơn 
quá trình thử nghiệm, kết quả của quá trình đào 
tạo của các mô hình tại tất cả các trạm đều có 
xu thế tăng dần từ mô hình M1 đến mô hình 
M5, mô hình M5 có kết quả tốt nhất. Nhưng, 
kết quả của quá trình thử nghiệm lại có xu thế 
tăng dần từ M1 đến mô hình M4, đến mô hình 
M5 thì lại giảm và mô hình M4 có kết quả tốt 
nhất. Kết quả dự báo của các mô hình dự báo 
LMV 1 tháng tại trạm Quỳ Châu và Tương 
Dương là tốt nhất và tương đương như nhau, 
sau đó đến Đô Lương và thấp nhất là trạm 
Vinh. Kết quả dự báo của các mô hình dự báo 
LMV 3 tháng và 6 tháng tại các trạm lại có sự 
khác biệt tương đối lớn, kết quả dự báo của các 
mô hình tại trạm Quỳ Châu là tốt nhất sau đó là 
trạm Tương Dương, tiếp theo là trạm Đô Lương 
và thấp nhất là trạm Vinh. 
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 24
Hình 3. Kết quả dự báo lượng mưa vụ 1, 3 và 6 tháng của mô hình M4 tại các trạm 
Từ số liệu phân tích ở trên cho thấy mô 
hình dự báo M4 tại các trạm đều có kết quả dự 
báo là tốt hơn các mô hình khác. Kết quả dự 
báo LMV 1, 3 và 6 tháng của mô hình M4 
được thể hiện ở hình sau: 
Từ kết quả của hình 3 cho thấy kết quả dự báo 
của mô hình M4 đối với LMV 1 tháng tại tất cả 
các trạm đều thấp nhất còn kết quả dự báo đối với 
LMV 3 và 6 tháng là tương đương nhau. Kết quả 
dự báo của mô hình M4 đối với trạm Quỳ Châu là 
tốt nhất sau đó đến trạm Tương Dương sau đó 
đến trạm Đô Lương và thấp nhất là trạm Vinh. 
Từ những phân tích ở trên về kết quả dự 
báo của các mô hình dự báo LMV tại các 
trạm của khu vực nghiên cứu, tác giả đề xuất 
mô hình dự báo M4 với 5 biến đầu vào là 
LMV 3 tháng, 6 tháng (P(t-1), P(t-2), , P(t-
5)) trong lịch để dự báo lượng mưa 3 tháng, 6 
tháng của năm tiếp theo so với lượng mưa đã 
có trong lịch sử là mô hình tốt nhất và có độ 
tin cậy cao để áp dụng cho khu vực nghiên 
cứu. Kết quả dự báo LMV 3 và 6 tháng của 
các trạm Quỳ Châu với mô hình có kết quả 
cao nhất (M4) được thể hiện ở các hình sau: 
Hình 4. Kết quả dự báo lượng mưa vụ 3 tháng trạm Quỳ Châu (M4) 
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 25
Hình 5. Kết quả dự báo lượng mưa vụ 6 tháng trạm Quỳ Châu (M4) 
5. KẾT LUẬN 
Trong bài báo này, phương pháp ANFIS đã 
được đề xuất như một công cụ dự báo LMV 
thay thế cho các phương pháp thống kê truyền 
thống khác. Để minh họa tính khả thi của 
phương pháp ANFIS trong dự báo LMV, các 
nhân tố dự báo là LMV trong lịch sử đã được 
chọn làm các biến đầu vào để dự báo LMV 
trong tương lai tại 4 trạm khí tượng của vùng 
nghiên cứu. 
Các mô hình ANFIS dự báo LMV (1, 3 và 6 
tháng) đã được đào tạo và thử nghiệm. Kết quả 
kiểm định các mô hình thông qua 3 thông số 
thống kê CORR, RMSE và D cho thấy: mô hình 
dự báo M4 với 5 biến đầu vào là P(t-1), P(t-2), 
, P(t-5) có kết quả dự báo là cao nhất; mô 
hình dự báo LMV 3 và 6 tháng có kết quả cao 
hơn mô hình dự báo LMV 1 tháng; và kết quả 
dự báo LMV cho trạm Tương Dương là cao 
nhất và trạm Vinh là thấp nhất. Kết quả của 
nghiên cứu này cho thấy mô hình dự báo 
ANFIS với các nhân tố dự báo là LMV trong 
lịch sử đã được áp dụng thành công và có độ tin 
cậy cao để dự báo LMV (3 và 6 tháng) của năm 
tiếp theo so với LMV đã có trong lịch sử cho 
khu vực nghiên cứu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
PGS. TS. Phạm Việt Hòa (2007) "Giáo trình Quản lý công trình Thủy lợi". Nhà xuất bản Nông 
nghiệp, Hà Nội. 
Bacanli, U.; Firat, M.; Dikbas, F. (2009) "Adaptive Neuro-Fuzzy Inference System for drought 
forecasting". Stoch Env Res Risk A, 23, 1143-1154. 
Banik, S.; Chanchary, F. H.; Khan, K.; Rouf, R. A.; Anwer, M. (2008) "Neural network and genetic 
algorithm approaches for forecasting bangladeshi monsoon rainfall". 24-27 Dec. 2008, 735-740. 
El-Shafie, A.; Jaafer, O.; Seyed, A. (2011) "Adaptive neuro-fuzzy inference system based model for 
rainfall forecasting in Klang River, Malaysia". International Journal of Physical Sciences, 6, 
2875-2888. 
Jang, J.-S. R. (1993) "ANFIS: adaptive-network-based fuzzy inference system". IEEE Transactions 
on Systems, Man, and Cybernetics, 23, 665-685. 
Jang, J.-S. R.; Sun, C.-T.; Mizutani, E. (1997) "Neuro-Fuzzy and Soft Computing". Prentice Hall: 
Englewood Cliffs, New Jersey, USA. 
Nayak, D. R.; Mahapatra, A.; Mishra, P. (2013) "A Survey on Rainfall Prediction using Artificial 
Neural Network". International Journal of Computer Applications, 72, 32-40. 
Nayak, P. C.; Sudheer, K. P.; Rangan, D. M.; Ramasastri, K. S. (2004) "A neuro-fuzzy computing 
technique for modeling hydrological time series". J Hydrol, 291, 52-66. 
Ying, H. (2000) "Fuzzy Control and Modeling:Analytical Foundations and Applications". Wiley-
IEEE Press. 
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 26
 Abstract: 
RESEARCH PROPOSAL FOR SEASONAL RAINFALL FORECASTING METHOD IN 
ORDER TO MAKE IRRIGATION PLAN S FOR CA RIVER BASIN 
In recent years, the climate change has been one of the hot issues that need a lot of attention of 
researchers, particularly those related to rainfall for planning for irrigation in order to raise the 
management efficiency of the irrigation systems’ operation. The change in seasonal rainfall which 
directly affects the irrigation regime and the water source is the basic data for planning of 
irrigation systems. The question is whether the changes in the amount of seasonal rainfall can be 
predicted with accuracy at acceptable levels. In this article, the Adaptive Neuro-fuzzy Inference 
System (ANFIS) model has been proposed to develop a precipitation model for the Ca river basin. 
Data for calculations were obtained at four representative meteorological stations in the Ca river 
basin from 1975 to 2014. Different seasonal rainfall forecast models were constructed with 
different input rainfall parameters, the predictive performance of these models is compared through 
statistical parameters to identify and propose models with the best prediction. The results show that 
the M4 model gives the best and most reliable results for 3-month and 6-month seasonal rainfall 
forecasts for the study area. 
Keywords: Seasonal rainfall, ANFIS model, Ca river basin. 
Ngày nhận bài: 13/12/2017 
Ngày chấp nhận đăng: 17/01/2018 
View publication stats
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_ung_dung_mo_hinh_anfis_du_bao_luong_mua_vu_phuc_vu_cho_viec_lap_ke_hoach_tuoi_tren_luu_vu.pdf