- Hình thức chăn nuôi: Ở huyện Ba Vì hiện nay có 2 hình thức chăn nuôi chủ yếu là hộ gia
đình và trang trại.
Chăn nuôi bò sữa theo hộ gia đình có vai trò rất quan trọng. Hơn 80% tổng đàn bò sữa ở
nước ta được nuôi trong các hộ gia đình. Ở huyện Ba Vì hình thức chăn nuôi này là phổ biến với
sự hỗ trợ về vốn, giống, kĩ thuật chăn nuôi của Công ty sữa quốc tế (IDP).
Tính đến cuối năm 2012 cả huyện có 1.524 hộ nuôi bò sữa, trong đó 1.227 hộ nuôi với quy
mô 1 - 5 con/hộ, 269 hộ nuôi với quy mô 6 - 10 con/hộ và chỉ có 28 hộ nuôi trên 10 con/hộ [2]. Ba
xã trong huyện phát triển đàn bò sữa mạnh nhất với quy mô nuôi lớn nhất là Vân Hòa, Tản Lĩnh và
Yên Bái.
Chăn nuôi bò sữa theo hình thức trang trại đang được xây dựng ở huyện Ba Vì. Tại đây
trong số 58 trang trại thì có đến 47 trang trại chăn nuôi, trong đó có 5 trang trại gia đình với quy
mô mỗi trang trại từ 35 đến 70 con bò sữa [1]. Riêng trang trại của Trung tâm nghiên cứu bò và
đồng cỏ Ba Vì nuôi trên 300 con.
Vừa qua, công ty IDP và Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì đã xây dựng một trang
trại nằm ở giai đoạn I trên diện tích 25 ha. Trang trại này bao gồm nhiều khu vực (như chăn nuôi,
sản xuất thức ăn, vắt sữa.) với trang thiết bị hiện đại với tư cách như một mô hình mẫu, giúp nông
dân tiếp cận với cách làm ăn mới.
- Hiệu quả kinh tế: Chăn nuôi bò sữa - ngoài việc đáp ứng nhu cầu của thị trường - đã được
xác định là nghề chính giúp nông dân huyện Ba Vì xóa đói giảm nghèo vươn lên làm giàu. Việc
chăn nuôi bò sữa góp phần làm tăng thu nhập trung bình của người dân huyện này từ 3,9 triệu đồng
năm 2005 lên hơn 22 triệu đồng năm 2010 và 25,0 triệu đồng năm 2012, đồng thời giải quyết việc
làm cho hơn 11 nghìn lao động, xóa được trên 3 nghìn hộ nghèo [2].
Theo những người chăn nuôi bò, mỗi con bò sữa đem lại thu nhập trung bình từ 15 đến 20
triệu đồng/năm, tùy theo nuôi nhiều hay nuôi ít. Như vậy, chỉ cần nuôi 5 con bò sữa, mỗi năm có
thể có trên dưới 100 triệu đồng. Đó là chưa kể bò sữa còn có thể gây giống mà mỗi bê cái vừa sinh
ra đã có giá 5 - 8 triệu đồng.
Với việc phát triển chăn nuôi bò sữa, huyện Ba Vì trở thành một bộ phận đặc biệt quan trọng
của “vành đai sữa” ở Thành phố Hà Nội.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu “vành đai sữa” của thành phố Hà Nội (lấy thí dụ minh họa ở huyện Ba Vì), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-00019
Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 3, pp. 115-121
This paper is available online at
NGHIÊN CỨU “VÀNH ĐAI SỮA” CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
(LẤY THÍ DỤ MINH HỌA Ở HUYỆN BA VÌ)
Lê Mỹ Dung
Khoa Địa lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Hà Nội là thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa hàng đầu của cả nước. Để
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về thực phẩm của nhân dân, trong những năm gần đây đã
xuất hiện “vành đai sữa” bao trùm một vài huyện ngoại thành, trong đó Ba Vì là huyện có
ngành chăn nuôi bò sữa phát triển nhất Thành phố. Sau khi tổng quan về “vành đai sữa”
của Thủ đô, bài báo nghiên cứu cụ thể về huyện Ba Vì với tư cách như một thí dụ minh
họa (case study) với các nguồn lực, tình hình và định hướng phát triển của ngành chăn nuôi
mới được ra đời này.
Từ khóa: Vành đai, chăn nuôi, bò sữa, Ba Vì, Hà Nội.
1. Mở đầu
Hà Nội là thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa hàng đầu của cả nước. Về quy mô
dân số, Thành phố có 6.957 nghìn người, trong đó dân thành thị chiếm 42,5% (năm 2012) [1],
đứng hàng thứ hai trong số 63 tỉnh, thành phố, chỉ sau TP. Hồ Chí Minh. Để đảm bảo nhu cầu cho
thành phố triệu dân như Hà Nội nói riêng và các thành phố khác ở Việt Nam cũng như thế giới nói
chung, một “vành đai xanh” mang tính chất quy luật bao quanh thành phố được hình thành nhằm
cung cấp các loại thực phẩm cần thiết như rau, thịt, sữa... cho nhân dân. “Vành đai xanh” không
phải bất biến, mà có sự thay đổi, phụ thuộc chủ yếu vào sự biến động về quy mô dân số và nhu cầu
thực phẩm của nhân dân thành phố.
Nhờ kết quả của công cuộc Đổi mới, chất lượng cuộc sống của người dân Hà Nội ngày càng
được cải thiện. Nhu cầu về sữa và các sản phẩm từ sữa tăng lên nhanh chóng. Vì thế, trong những
năm gần đây “vành đai sữa” ở Thủ đô dần dần xuất hiện và ngày càng rõ nét hơn. Vành đai ấy bao
trùm một số huyện ven đô với sự phát triển mạnh mẽ của ngành chăn nuôi bò sữa, mà tiêu biểu là
các huyện Ba Vì, Sóc Sơn, Chương Mỹ, Gia Lâm, Đông Anh, Mê Linh...
Trên cơ sở tổng quan về “vành đai sữa” của TP. Hà Nội, tác giả nghiên cứu sâu về huyện
Ba Vì với tư cách như một minh họa cụ thể (case study). Vậy câu hỏi đặt ra là tại sao lại lấy huyện
Ba Vì làm thí dụ cho “vành đai sữa” của Thành phố? Lí do chủ yếu là chăn nuôi bò sữa phát triển
mạnh nhất ở huyện này với hơn 1/3 tổng đàn bò sữa của Thành phố (năm 2012). Hơn nữa, huyện
Ba Vì còn được xác định là vùng trọng điểm chăn nuôi bò sữa ở Hà Nội với 6 xã trên tổng số 15
xã trọng điểm về lĩnh vực này của toàn Thành phố.
Ngày nhận bài: 15/8/2014 Ngày nhận đăng: 29/3/2015
Liên hệ: Lê Mỹ Dung, e-mail: dungle128@yahoo.com.vn
115
Lê Mỹ Dung
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Tổng quan về “vành đai sữa” của Thành phố Hà Nội
So với các ngành chăn nuôi khác, chăn nuôi bò sữa là ngành tương đối mới và được hình
thành ở Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu về sữa và sản phẩm từ sữa ngày càng tăng của nhân dân.
Trong giai đoạn 2005 - 2012, số lượng đàn bò sữa của nước ta tăng từ 55,9 nghìn con lên 130,0
nghìn con và sản lượng sữa tươi cũng tăng lên tương ứng từ 197,7 nghìn tấn lên 381,7 nghìn tấn
[6]. Đàn bò sữa tập trung chủ yếu ở 3 vùng: Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng
bằng sông Hồng. Hà Nội là thành phố có ngành chăn nuôi bò sữa phát triển hàng đầu của nước ta.
2.1.1. Quy mô đàn bò sữa
Quy mô đàn bò nói chung của Hà Nội có sự biến động. Nhờ chuyển đổi mục đích chăn nuôi
theo hướng lấy thịt và lấy sữa nên ngành chăn nuôi bò có những chuyển biến tích cực. Năm 2012
đàn bò của Thành phố Hà Nội chiếm 28,5% đàn bò của Đồng bằng sông Hồng [6].
Trong cơ cấu đàn bò của Hà Nội, bò thịt và bò sinh sản chiếm ưu thế tuyệt đối. Bò sữa có tỉ
trọng rất khiêm tốn, chỉ với 5,8% tổng đàn bò năm 2012. Mặc dù đàn bò sữa của Thành phố có xu
hướng tăng cả về số lượng lẫn tỉ trọng, nhưng mức tăng còn thấp so với nhu cầu và tiềm năng phát
triển của địa phương.
Tuy vậy, chăn nuôi bò sữa được coi là một trong những thế mạnh của ngành chăn nuôi đại
gia súc ở Thành phố. Hà Nội là một trong bốn trung tâm chăn nuôi bò sữa hàng đầu của cả nước.
Nhìn chung, đàn bò sữa có tăng, nhưng chậm. Trong giai đoạn 2005 - 2012, đàn bò sữa chỉ tăng
được từ 7.300 con lên 7.787 con, trong đó đàn bò cái sinh sản là 5.881 con (chiếm 75,5% tổng
đàn), đàn bò cái vắt sữa 4.142 con (70,4% tổng đàn bò cái sinh sản) [4]. Giống bò sữa đang nuôi
chủ yếu là giống bò Hà Lan (HF). Cơ cấu giống đàn bò sữa của Thành phố gồm có giống bò thuần
chủng (10%), HFF3 (62%), HFF2 (18%) và HFF1 (10%). Với quy mô đàn bò sữa như vậy, Hà Nội
đứng hàng thứ 3 trong số 63 tỉnh, thành phố của cả nước, sau TP. Hồ Chí Minh và tỉnh Nghệ An,
đồng thời chiếm đến hơn 3/4 đàn bò sữa ở Đồng bằng sông Hồng và 6,1% đàn bò sữa của nước ta.
Trên địa bàn Thành phố đã và đang hình thành một số vùng chăn nuôi bò sữa quy mô lớn
với tư cách như là “vành đai sữa” của Hà Nội tại các huyện Ba vì, Gia Lâm, Đông Anh, Quốc Oai,
Đan Phượng với 15 xã trọng điểm về chăn nuôi bò sữa có quy mô đến năm 2015 đạt 14.650 con
[3]. Đó là 6 xã thuộc huyện Ba Vì (Tản Lĩnh, Vân Hòa, Yên Bái, Tòng Bạt, Minh Châu, Ba Trại);
4 xã của huyện Gia Lâm (Phù Đổng, Trung Màu, Dương Hà, Đặng Xá); 2 xã ở huyện Đông Anh
(Vĩnh Ngọc, Tàm Xã) và mỗi huyện chỉ có một xã là huyện Quốc Oai (Phương Cách), huyện Đan
Phượng (Phương Đình), huyện Phúc Thọ (Xuân Phú).
2.1.2. Sản lượng sữa và thị trường tiêu thụ
Việc gia tăng quy mô đàn bò sữa cùng với quá trình nâng cao chất lượng của nó là nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến sản lượng sữa tăng nhanh. Trong giai đoạn 2005 - 2012, sản lượng sữa tăng
gần 2,0 lần và đạt 18,6 nghìn tấn năm 2012 (chiếm 72,0% sản lượng sữa của Đồng bằng sông
Hồng và 5,0% sản lượng sữa của cả nước) [6]. Sản lượng sữa tăng nhanh nhờ vào việc tăng năng
suất sữa của các giống bò lai như HFF1 (với sản lượng 3.615 kg/chu kì), HFF2 (3.757 kg/chu kì),
HFF3 (3.610 kg/chu kì).
116
Nghiên cứu “vành đai sữa” của thành phố Hà Nội (Lấy thí dụ minh họa ở huyện Ba Vì)
Bảng 1. Sản lượng sữa và bình quân sữa theo đầu người của Hà Nội [1]
Tiêu chí 2005 2008 2010 2012
Sản lượng sữa (nghìn tấn) 9.489 11.301 15.565 18.568
Bình quân/người/năm (lít) 16,0 18,0 24,0 26,7
Do năng suất sữa được cải thiện, sản lượng sữa gia tăng nên bình quân sản lượng sữa theo
đầu người của Thành phố cũng tăng lên đáng kể. Năm 2012 mức bình quân của Hà Nội là 26,7
lít/người, cao hơn TP. Cần Thơ, TP. Đà Nẵng, nhưng vẫn còn thấp hơn so với TP. Hồ Chí Minh (27
lít/người) và mức bình quân của cả nước (4,5 lít/người).
Thị trường tiêu thụ sữa tươi ở Hà Nội có nhiều triển vọng. Dự báo nhu cầu về sữa tiếp tục
tăng nhanh và đạt khoảng 25 nghìn tấn vào năm 2015 [3]. Trên địa bàn Thành phố hiện có 5 công
ty chế biến sữa quy mô lớn (như Công ty sữa quốc tế IDP, Vinamilk, Hanoimilk...) với công suất
280 tấn/ngày và hơn 100 cơ sở chế biến sữa quy mô nhỏ, công suất 5 - 7 tấn/ngày. Việc chế biến
và tiêu thụ sữa tươi diễn ra rất đa dạng với công nghệ chế biến từ thấp (làm sữa cô đặc, sữa bánh,
sữa chua) đến cao (có hệ thống làm lạnh).
Để đảm bảo việc tiêu thụ sữa một cách nhanh chóng, quy trình sản xuất sữa sạch từ các
nông hộ, trang trại chăn nuôi đến các nhà máy chế biến đã và đang được hoàn thiện. Chất lượng
sữa tươi ngày càng được nâng cao. Một số sản phẩm sữa có thương hiệu đã được thị trường trong
nước biết đến như sữa tươi Ba Vì.
2.1.3. Hình thức chăn nuôi bò sữa và định hướng phát triển
Cũng như ở nhiều địa phương khác trên phạm vi cả nước, hình thức chăn nuôi bò sữa tại
các huyện ngoại thành Hà Nội chủ yếu vẫn là quảng canh và bán thâm canh. Chăn nuôi thâm canh
với quy mô lớn còn hạn chế.
Chăn nuôi quảng canh và bán thâm canh thường được áp dụng trong các nông hộ và trang
trại nhỏ. Chăn nuôi bò sữa trong các nông hộ chiếm đến 96% tổng số hộ với quy mô nhỏ, trung
bình từ 3 đến 5 con/hộ. Bò chủ yếu được nuôi nhốt trong chuồng kết hợp với việc chăn thả ngoài
các gò, bãi ven đê, ven sông... Công nghệ còn lạc hậu, sử dụng lao động phụ trong gia đình, tận
dụng nguồn phụ phẩm từ ngành trồng trọt và thức ăn thô xanh sẵn có cùng với thức ăn tinh phối
trộn. Việc đầu tư trồng cỏ năng suất cao chưa được chú trọng, hệ thống chuồng trại thường là đơn
giản và chưa đảm bảo được vệ sinh.
Chăn nuôi thâm canh được áp dụng ở các trang trại nuôi tập trung có quy mô vừa và lớn.
Hình thức này đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, áp dụng công nghệ mới với quy trình chăn nuôi tiên tiến.
Bò được nuôi trên đồng cỏ thâm canh luân phiên, hoặc nuôi nhốt trong chuồng với khẩu phần thức
ăn đảm bảo dinh dưỡng mà chủ yếu là thức ăn tinh hỗn hợp của các công ty chế biến thức ăn gia
súc.
Trừ một số nơi đã có truyền thống chăn nuôi như ở Ba Vì, chăn nuôi bò theo hình thức thâm
canh còn tương đối mới đối với nông dân ngoại thành. Vì thế tính đến nay, toàn thành phố mới có
2.599 hộ nuôi bò sữa với quy mô trung bình 3,27 con/hộ, trong đó số hộ nuôi trên 20 con/hộ chỉ
có 8 hộ, từ 11 - 20 con/hộ có 28 hộ, số còn lại là các hộ nuôi dưới 10 con/hộ [3]. Các trang trại
nuôi bò sữa quy mô lớn còn hạn chế.
Ngành chăn nuôi bò sữa ở Hà Nội tuy đã hình thành và phát triển, nhưng vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế. Đó là việc sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, thiếu quy hoạch. Tình trạng thiếu nguồn giống
tốt cũng như hạn chế về cơ sở vật chất - kĩ thuật, vốn, nguồn thức ăn công nghiệp đã ảnh hưởng
117
Lê Mỹ Dung
nhiều đến hiệu quả của việc nuôi bò sữa.
Đối với ngành sản xuất còn mới mẻ này, theo định hướng của Thành phố, quy mô đàn bò
sữa sẽ đạt khoảng 15 nghìn con vào năm 2015 và 20 nghìn con vào năm 2020. Sản lượng sữa tươi
ở mức tương ứng là 25 nghìn tấn và 36 nghìn tấn. Chăn nuôi bò sữa được phát triển theo hình thức
mới, áp dụng kĩ thuật công nghệ cao, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng tại một số vùng chăn nuôi
lớn, có nhiều tiềm năng như Ba Vì, Gia Lâm, Đông Anh, Quốc Oai, Đan Phượng [7]...
2.2. Phát triển chăn nuôi bò sữa ở huyện Ba Vì
Ba Vì là huyện nằm ở phía tây bắc của Thủ đô Hà nội có diện tích hơn 424 km2 với số dân
gần 26 vạn người (năm 2012) [1]. Về mặt hành chính, cả huyện có 1 thị trấn (Tây Đằng) và 30 xã.
Việc sát nhập huyện Ba Vì vào Thành phố Hà Nội ngày 1 - 8 - 2008 là một thời cơ thuận lợi giúp
cho ngành chăn nuôi bò sữa của huyện có điều kiện phát triển mạnh.
2.2.1. Vai trò của ngành chăn nuôi
Chăn nuôi là một trong những ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của huyện Ba
Vì. Giá trị sản xuất của ngành tăng nhanh, từ 361 tỉ đồng năm 2005 lên 4.379,0 tỉ đồng năm 2012.
Về giá trị sản xuất, huyện Ba Vì dẫn đầu thành phố Hà Nội với 22,0% giá trị sản xuất chăn nuôi
toàn Thành phố [1].
Cơ cấu giá trị sản xuất trong nội bộ ngành nông nghiệp của huyện có sự chuyển dịch theo
hướng tích cực với việc tăng nhanh tỉ trọng của chăn nuôi và giảm nhanh tỉ trọng của trồng trọt.
Trong giai đoạn 2005 - 2012, tỉ trọng của chăn nuôi tăng từ 40,2% lên 70,0%, còn ngược lại tỉ
trọng của trồng trọt giảm từ 59,2% xuống 26,2%. Tỉ trọng của dịch vụ nông nghiệp tương đối nhỏ
và tăng lên không đáng kể [2].
Mặc dầu ngành chăn nuôi của Ba Vì đã và đang phát triển mạnh, nhưng vai trò của chăn
nuôi bò sữa lại khá khiêm tốn và chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Nguyên nhân chủ yếu là
ở chỗ chăn nuôi bò sữa của huyện mới được phát triển. Trong tương lai, vai trò của nó ngày càng
được nâng cao nhờ việc khai thác hợp lí các thế mạnh sẵn có, nhất là thị trường tiêu thụ của Thành
phố.
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển chăn nuôi bò sữa
- Thị trường tiêu thụ
Thị trường có vai trò quyết định đối với việc phát triển chăn nuôi bò sữa ở huyện Ba Vì. Nó
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất, góp phần mở rộng (hoặc thu hẹp) quy mô sản xuất.
Dân số ngày càng tăng, mức sống không ngừng được nâng cao, nhu cầu thực phẩm chất lượng cao,
trong đó có sữa và các sản phẩm từ sữa liên tục phải được bảo đảm chính là động lực giúp cho
chăn nuôi bò sữa của huyện phát triển mạnh.
Có hai loại thi trường tiêu thụ là thị trường Hà Nội và thị trường ngoài Hà Nội, trong đó thị
trường thứ nhất có ý nghĩa quyết định.
Hà Nội là thủ đô của nước ta với dân cư đông đúc. Một thành phố xấp xỉ 7 triệu dân (năm
2012), trong đó dân thành thị chiếm gần 3 triệu (42,5%) là thị trường tiêu thụ rất lớn. Đó là chưa
kể số lượng đông đảo khách vãng lai trong nước và quốc tế hàng ngày qua lại Hà Nội.
Thị trường ngoài Hà Nội hiện nay đang là thị trường thứ yếu với tỉ trọng nhỏ. Tuy nhiên với
chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao, khả năng mở rộng thị trường này là rất khả thi.
Năm 2010 sản phẩm sữa Ba Vì được trao giải thưởng cúp vàng châu Âu về chất lượng. Thương
118
Nghiên cứu “vành đai sữa” của thành phố Hà Nội (Lấy thí dụ minh họa ở huyện Ba Vì)
hiệu sữa Ba Vì đã có chỗ đứng trên thị trường trong nước. Đó chính là động lực giúp cho chăn nuôi
bò sữa của huyện có điều kiện cất cánh.
- Nguồn lao động: Huyện Ba Vì có nguồn lao động tương đối dồi dào. Năm 2012 toàn
huyện có gần 15 vạn người trong độ tuổi lao động. Người lao động nhìn chung có nhiều kinh
nghiệm trong việc chăn nuôi. Trước đây họ chăn nuôi theo hình thức chăn thả, hiệu quả không cao.
Ngày nay, người lao động đã học hỏi và tiếp thu khoa học - kĩ thuật để xây dựng các trang trại chăn
nuôi bò sữa quy mô lớn, đem lại hiệu quả cao về kinh tế và xã hội.
Mặt hạn chế của nguồn lao động là trình độ chuyên môn còn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Các chủ hộ phần lớn xuất thân từ nông dân, nhưng chưa được đào tạo về chuyên môn và nghiệp
vụ quản lí nên việc điều hành sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Ngay cả các thông tin về thị
trường cũng ít được cập nhật.
- Nguồn thức ăn: Nguồn thức ăn cũng là nhân tố quan trọng tác động đến việc nuôi bò sữa.
Về đại thể ở huyện Ba Vì có 3 nguồn thức ăn chính:
Nguồn thức ăn xanh của huyện đa dạng, phong phú. Trong huyện có 7 xã miền núi, khí hậu
mát mẻ, thích hợp cho việc trồng các loại cỏ phục vụ chăn nuôi bò sữa. Toàn huyện có khoảng trên
800 ha trồng cỏ với sản lượng 23 nghìn tấn [2]. Các giống cỏ được trồng phổ biến gồm cỏ voi, cỏ
VA06, cỏ Chi Lê, cỏ Pangola...
Bên cạnh nguồn thức ăn xanh thì nguồn thức ăn từ phụ phẩm của ngành trồng trọt cũng có
giá trị nhất định. Sự phát triển của ngành trồng trọt tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh chăn nuôi bò
sữa. Năm 2012 huyện Ba Vì sản xuất được hơn 82 nghìn tấn lúa; 18,3 nghìn tấn ngô... Ngoài việc
đảm bảo trực tiếp nguồn thức ăn, các sản phẩm từ ngành trồng trọt còn là nguồn nguyên liệu dồi
dào của ngành công nghiệp chế biến thức ăn cho bò sữa.
Một nguồn thức ăn quan trọng mà việc sản xuất ở huyện Ba Vì còn bị hạn chế. Đó là nguồn
thức ăn từ công nghiệp chế biến thức ăn gia súc. Cơ sở chế biến thức ăn lớn nhất hiện nay của
huyện là doanh nghiệp tư nhân Minh Giang. Ngoài ra trên địa bàn huyện này còn có một số doanh
nghiệp kinh doanh thức ăn chế biến cho gia súc từ các nơi khác chuyển về...
- Giống bò sữa: Giống bò sữa tốt là tiền đề cho việc phát triển chăn nuôi, nâng cao năng
suất và chất lượng sữa. Năm 1962 là cột mốc đánh dấu việc bắt đầu nuôi bò sữa ở miền Bắc nước
ta khi nhập 30 con bò lai trắng đen từ Trung Quốc về nuôi ở Ba Vì. Năm 1964 ở đây đã tạo ra được
giống thuần chủng bò lai Sind và đàn bò lai F1, rồi cho lai trực tiếp vào những năm sau đời thứ hai
(F2), đời thứ ba (F3). Kết quả là trên địa bàn của huyện đã có được đàn bò lai chuyên sữa.
Song song với việc lai tạo giống, huyện còn chủ trương nhập các giống bò sữa cho năng
suất cao từ nước ngoài. Chẳng hạn như năm 2001 huyện đã nhập 21 con bò sữa thuần giống HF và
24 con bò Jersey từ Mỹ về.
- Các nhân tố khác: Tác động đến việc chăn nuôi bò sữa ở Ba Vì còn có nhiều nhân tố khác
nữa như nguồn vốn, trình độ khoa học - công nghệ, chính sách phát triển...
Huyện Ba Vì đã bước đầu xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất - kĩ thuật phục vụ cho
chăn nuôi bò và chế biến sữa. Trong lĩnh vực lai tạo giống có Trung tâm bò giống Môncađa, Trung
tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì (với nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp giống cho năng suất cao
và tư vấn cho các hộ nông dân về kĩ thuật chăn nuôi bò sữa). Trong lĩnh vực chế biến sữa có Công
ty sữa quốc tế (IDP), Công ty sữa Vinamilk, Công ty sữa Nestle...
119
Lê Mỹ Dung
2.2.3. Thực trạng phát triển ngành chăn nuôi bò sữa
- Quy mô đàn bò và sản lượng sữa: Chăn nuôi bò sữa là thế mạnh đặc biệt của huyện Ba
Vì. Đây được coi là một trong những trung tâm nuôi bò sữa hàng đầu không chỉ của Thành phố Hà
Nội, mà còn của cả nước.
Từ những năm 60 - 70 của thế kỉ XX, bò sữa bắt đầu được nuôi trên địa bàn của huyện tại
Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì. Trong những năm gần đây, chăn nuôi bò sữa phát triển
mạnh cả về quy mô đàn bò lẫn sản lượng sữa.
Bảng 2. Quy mô đàn bò sữa và sản lượng sữa tươi của huyện Ba Vì [1, 2]
Tiêu chí 2005 2008 2010 2012
Số lượng bò sữa (con) 2.376 2.164 3.800 4.100
Sản lượng sữa (tấn) 2.772 4.875 9.750 11.517
% sản lượng sữa so với toàn Thành phố 29,2 43,1 62,6 63,0
Nhìn chung trong giai đoạn 2005 - 2012 quy mô đàn bò và sản lượng sữa của huyện tăng
nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân Hà Nội về sữa và các sản phẩm từ
sữa. Riêng năm 2007 đàn bò sữa giảm mạnh dẫn đến sản lượng sữa tươi cũng giảm sút. Có nhiều
nguyên nhân, nhưng quan trọng nhất là giá cả và thị trường. Ở thời điểm đó sữa tươi bị ép giá, còn
giá bán các sản phẩm chăn nuôi khác (như thịt bò, thịt lợn...) tăng mạnh nên nhiều hộ trong huyện
đã bán bò sữa để nuôi gia súc khác có lợi ích kinh tế cao hơn...
- Hình thức chăn nuôi: Ở huyện Ba Vì hiện nay có 2 hình thức chăn nuôi chủ yếu là hộ gia
đình và trang trại.
Chăn nuôi bò sữa theo hộ gia đình có vai trò rất quan trọng. Hơn 80% tổng đàn bò sữa ở
nước ta được nuôi trong các hộ gia đình. Ở huyện Ba Vì hình thức chăn nuôi này là phổ biến với
sự hỗ trợ về vốn, giống, kĩ thuật chăn nuôi của Công ty sữa quốc tế (IDP).
Tính đến cuối năm 2012 cả huyện có 1.524 hộ nuôi bò sữa, trong đó 1.227 hộ nuôi với quy
mô 1 - 5 con/hộ, 269 hộ nuôi với quy mô 6 - 10 con/hộ và chỉ có 28 hộ nuôi trên 10 con/hộ [2]. Ba
xã trong huyện phát triển đàn bò sữa mạnh nhất với quy mô nuôi lớn nhất là Vân Hòa, Tản Lĩnh và
Yên Bái.
Chăn nuôi bò sữa theo hình thức trang trại đang được xây dựng ở huyện Ba Vì. Tại đây
trong số 58 trang trại thì có đến 47 trang trại chăn nuôi, trong đó có 5 trang trại gia đình với quy
mô mỗi trang trại từ 35 đến 70 con bò sữa [1]. Riêng trang trại của Trung tâm nghiên cứu bò và
đồng cỏ Ba Vì nuôi trên 300 con.
Vừa qua, công ty IDP và Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì đã xây dựng một trang
trại nằm ở giai đoạn I trên diện tích 25 ha. Trang trại này bao gồm nhiều khu vực (như chăn nuôi,
sản xuất thức ăn, vắt sữa...) với trang thiết bị hiện đại với tư cách như một mô hình mẫu, giúp nông
dân tiếp cận với cách làm ăn mới.
- Hiệu quả kinh tế: Chăn nuôi bò sữa - ngoài việc đáp ứng nhu cầu của thị trường - đã được
xác định là nghề chính giúp nông dân huyện Ba Vì xóa đói giảm nghèo vươn lên làm giàu. Việc
chăn nuôi bò sữa góp phần làm tăng thu nhập trung bình của người dân huyện này từ 3,9 triệu đồng
năm 2005 lên hơn 22 triệu đồng năm 2010 và 25,0 triệu đồng năm 2012, đồng thời giải quyết việc
làm cho hơn 11 nghìn lao động, xóa được trên 3 nghìn hộ nghèo [2]...
Theo những người chăn nuôi bò, mỗi con bò sữa đem lại thu nhập trung bình từ 15 đến 20
triệu đồng/năm, tùy theo nuôi nhiều hay nuôi ít. Như vậy, chỉ cần nuôi 5 con bò sữa, mỗi năm có
120
Nghiên cứu “vành đai sữa” của thành phố Hà Nội (Lấy thí dụ minh họa ở huyện Ba Vì)
thể có trên dưới 100 triệu đồng. Đó là chưa kể bò sữa còn có thể gây giống mà mỗi bê cái vừa sinh
ra đã có giá 5 - 8 triệu đồng...
Với việc phát triển chăn nuôi bò sữa, huyện Ba Vì trở thành một bộ phận đặc biệt quan trọng
của “vành đai sữa” ở Thành phố Hà Nội.
3. Kết luận
“Vành đai xanh” nói chung và “vành đai sữa” nói riêng là vành đai tất yếu được hình thành
ở Hà Nội để phục vụ cho nhu cầu thực phẩm ngày càng tăng của nhân dân. Trong số 30 quận,
huyện, thị xã của Thủ đô thì huyện Ba Vì là địa phương có ngành chăn nuôi bò sữa phát triển mạnh
nhất. Chính vì thế huyện này được nghiên cứu như là một thí dụ minh họa cho “vành đai sữa” của
Hà Nội. Từ thực tiễn thăng trầm của ngành chăn nuôi bò sữa ở địa bàn nghiên cứu, có thể rút ra
nhiều bài học cho việc phát triển hơn nữa “vành đai sữa” của Thủ đô.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Cục thống kê TP.Hà Nội, 2014. Niên giám thống kê Hà Nội 2013. Nxb Thống kê.
[2] Phòng Thống kê, Phòng Chăn nuôi huyện Ba Vì, 2012. Số liệu thống kê.
[3] Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, 2010. Quy hoạch tổng thể phát triển nông
nghiệp Hà Nội đến năm 2020, định hướng năm 2030.
[4] Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, 2012. Số liệu thống kê về chăn nuôi giai đoạn
2001 - 2012.
[5] Nguyễn Minh Tuệ, Lê Thông (đồng chủ biên), 2012. Địa lí nông - lâm - thủy sản Việt Nam.
Nxb Đại học Sư phạm.
[6] Tổng cục thống kê, 2014. Niên giám thống kê Việt Nam 2013. Nxb Thống kê.
[7] Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, 2010. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành
phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
ABSTRACT
Studying on “dairy belt” in Hanoi city (A case study of the Ba Vi district)
Hanoi is the capital and also the center on politics, economics and culture of the country.
To meet the increasing demand for food of the people in recent years have appeared “dairy belt”
covers several suburban districts which Ba Vi is the most developing dairy farming district in the
city. After an overview of Hanoi’s “dairy belt”, this paper focuses on studying Ba Vi district such
as a case study with the resources, the situation and development orientation of this newly livestock
sector.
Keywords: Farming, dairy, belt, Hanoi, Ba Vi.
121
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_vanh_dai_sua_cua_thanh_pho_ha_noi_lay_thi_du_minh.pdf