Nghiên cứu về đường lối trị nước an dân của Nho gia

Nghiên cứu về đường lối trị nước an dân của Nho gia Phần 1 LỜI MỞ ĐẦU Triết học Trung Hoa cổ đại là một kho tàng tư tưởng cổ xưa rực rỡ phong phú nhất, một chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại. Nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học thế giới, chúng ta không thể không nghiên cứu triết học Trung Hoa cổ đại. Mà nghiên cứu triết học Trung Hoa cổ đại chúng ta không thể không nghiên cứu học thuyết Nho gia của Khổng Tử. Mặc dù trong thời kỳ này đã nảy sinh nhiều học thuyết chính trị triết học tiêu biểu như:Nho gia, Pháp gia, Đạo gia, Nông gia, Mặc gia, Âm dương gia, Tạp gia. nhưng có thể nói Nho gia giữ một vai trò to lớn trong sự phát triển của lịch sử triết học và văn hoá Trung quốc. Kể từ lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trước công nguyên cho đến thời nhà Hán (Hán Vũ Đế) Nho giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng trị nước an dân độc tôn và luôn luôn giữ vị trí đó cho đến ngày cuối cùng của chế độ phong kiến. Điều đó đã minh chứng rõ ràng: tư tưởng trị nước an dân của Nho giáo hẳn phải có những giá trị tích cực đặc biệt, nếu không sao nó có thể có sức sống mạnh mẽ đến như vậy. Nghiên cứu về học thuyết của Khổng Tử là một việc rất khó. Nhưng với mong muốn được hiểu biết về lịch sử Trung quốc nên em đã chọn đề tài : “Nghiên cứu về đường lối trị nước an dân của Nho gia”. Có nhiều vấn đề được đặt ra : một đất nước phát triển mạnh mẽ như trung quốc có phải chỉ dựa trên đức trị ? Và hệ tưởng pháp gia có ảnh hưởng như thế nào đối với sự tồn tại và phát triển của Trung hoa thời cổ và trung đại ? Giữa Nho gia và Pháp gia có điểm gì khác nhau? Tuy nhiên với kiến thức có hạn, nên không thể tránh khởi những sai sót. Rất mong sự giúp đỡ của thầy để em hoàn thành tốt bài tiểu luận này. Em xin chân thành cảm ơn thầy. Bài làm gồm 4 chương: Chương1: Mội vài nét về tiến trình phát triển của nho giáo và một số nội dung chính của nó Chương2: Những tư tưởng cơ bản về đường lối trị nước an dân của Khổng Tử. Chương3:So sánh đường lối trị nước an dân của nho gia và pháp gia Chương4: Ảnh hưởng của Nho gia tới đời sống văn hoá Việt Nam Chương 1 VÀI NÉT VỀ TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH CỦA NÓ 1. VÀI NÉT VỀ TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO. 1. 1. vài nét về tiểu sử của Khổng Tử. Khổng Tử (551-479)tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, ông là nhà triết học, nhà chính trị, nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung Học cố đại. Ông được coi là người sáng lập ra môn phái Nho gia. Ông được các học trò tôn là:"chí thánh tiên su, vạn thế sư biểu". Năm1982, một hmột học giảọc giả Mỹ viết “Hành vi cao quý và tư tưởng lý luận đạo đức của Khổng Tử, không chỉ ảnh hưởng tới Trung Quốc mà còn ảnh hưởng tưói trần nhân loại”. Từ thiếu niên đến 30 tuổi, Khổng Tử chuyên cần học tập và tập luyện nắm vững các tri thức về lễ nghi, âm nhạc, xạ tiễn, ngự xạ, thư, số là sau ngành tri thức căn bản thời ấy. Sau đó ông đi giảng dạy bốn phương, nghiên cứu học vấn trong vài chục năm rồi san định, biên soạn các sách được đời sau gọi là lục kinh như Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu. 1. 2. Sự ra đời của Nho giáo. Khổng Tử sống trong thời kỳ thay đổi lớn, biến động lớn. Từ lâu, thiên tử nhà Chu đã mất hết uy quyền, quyền lực rơi vào tay các vua chư hầu, cục thể xã hội biến chuyển thay đổi nhanh chóng, người ta mỗi người chọn cho mình những thái độ sống khác nhau. Là một triết nhân thái độ của Khổng Tử hết sức phức tạp, ông vừa hoài cổ, vừa sùng thượng đổi mới. Trong tâm trạng phân vân, dần dần ông hình thành tư tưởng lấy nhân nghĩa để giữ vững sự tồn tại chung và khai sáng hệ thống tư tưởng lớn nhất thời Tiên Tần là học phái Nho giáo tạo ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Trung Quốc. Hệ thống tư tưởng Nhân và Nghĩa của Khổng Tử, bất kể hàm nghĩa phong phú phức tạp đến đâu, nói cho cùng cũng chỉ là để thiết lập một trật tự nghiêm cẩn của bậc đế vương và thành lập một xã hội hoàn thiện. Hệ thống tư tưởng của ông ảnh hưởng tới hơn 2500 năm lịch sử Trung Quốc. Khổng Tử tuy sáng lập ra học thuyết Nhân Nghĩa Nho gia nhưng không được các quân vương thời Xuân Thu coi trọng mà phải do các hậu học như Tử Cống, Tử Tư, Mạnh Tử, Tuân tử truyền bá rộng về sau. Trải qua nhiều nỗ lực của giai cấp thống trị và các sĩ đại phu triều Hán, Khổng tử và tư tưởng Nho gia của ông mới trở thành tư tưởng chính thống. Đổng Trọng Thư đời Hán hấp thụ nhân cách hoàn thiện và học thuyết nhân chính của Khổng Tử, phụ hội thêm Công Dương Xuân Thu lợi dụng âm dương bổ sung thay đổi lý luận trở thành học thuyết thiên nhân hợp nhất cùng với học thuyết chính trị của Tuân Tử, khoác tấm áo thần học cho Nho học. Từ đời Hán đến đời Thanh, Khổng học chủ yếu dùng hình thức kinh truyện để lưu truyền. Đường Thái Tông sau khi hoàn thành toàn diện thống nhất quốc gia, liền cho kinh học gia Khổng Dĩnh Đạt chú giải, hiệu đính lại năm kinh Nho gia là Dịch, Thi, Thư, Tà tuyên, Lễ ký thành bộ Ngũ kinh chính nghĩa gần như tổng kết toàn diện kinh học từ đời Hán đến đó. Ngũ kinh chính nghĩa trở thành sách giáo khoa dùng cho thi cử đời Đường. Khổng học càng được giai cấp thống trị tín nhiệm, Đường Thái Tông nói rất rõ “Nay trẫm yêu thích nhất là đạo của Nghiêu Thuấn và đạo của Chu Không coi như chim thêm cánh, như cá gặp nước, không thể không có được”. Từ đó, Khổng Tử với đế vương, với chính phủ các triều đại đều có quan hệ như Đường Thái Tông hình dung. Khi lịch sử phức tạp của Trung Quốc tiến vào thời kỳ phát đạt - thời kỳ nhà Tống, vị hoàng đế khai quốc là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lập tức chủ trì nghi lễ long trọng tế tự Khổng Tử để biểu dương lòng thiếu đễ, vua còn thân chủ trì khoa thi tiến sĩ mà nội dung hoàn toàn theo Nho học. Đối với Nho học mới bột hưng ở thời Tống, chúng ta thường gọi đó là Lý học. Ngoài Lý học của Trình Chu có địa vị chi phối, phái Công học của Trần Lượng, Diệp Thích, phái Tâm học của Vương Dương Minh cũng đều tôn sùng Khổng Tử, hấp thu một phần tư tưởng cơ bản của ông. Những học thuyết này đều được lưu truyền rộng rãi và tạo ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội văn hoá Trung Quốc. Do vì Nho học được các sĩ đại phu tôn sùng, được các vương triều đua nhau đề xướng nên Nho học thuận lợi thẩm thấu trong mọi lĩnh vực trong mọi giai tầng xã hội, từ rất sớm nó đã vượt qua biên giới dân tộc Hán, trở thành tâm lý của cộng đồng dân tộc Trung Quốc, là cơ sở văn hoá của tín ngưỡng và tập tính. 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH CỦA NHO GIÁO Chúng ta tìm hiểu về Nho giáo khi nó đã tồn tại hơn 2000 năm, luôn được cải biến được bổ sung và mang các bộ mặt khác nhau qua các thời kỳ. Nhiều học giả đã tốn rất nhiều giấy mực để sưu tâm, trích dẫn và bàn cãi chung quanh những câu chữ trong sách vở của Nho giáo từ trước tới nay. Việc làm ấy thường dẫn đến những nhận định chủ quan, giản đơn và phiến diện. Muốn khen hay chê người ta đều có thể trích dẫn những lời lẽ rất hấp dẫn từ trong kho sách của Nho giáo. Nhưng khi để ý rằng Khổng Tử - người sáng lập ra Nho giáo - khi đề ra những điều căn bản trong học thuyết của Nho giáo cũng đang ở tâm trạng phân vân, mâu thuẫn, vừa hoài cổ, vừa sùng thường, và bối cảnh xã hội lúc ấy cũng là lúc giằng co, giành giật giữa chế độ nô lệ và chế độ phong kiến. Sau này khi Nho học được cải biến để phục vụ ý đồ của giai cấp thống trị thì nó càng chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Vì thế không thể tìm hiểu Nho học theo lối trích dẫn, kinh viện vì nó chỉ càng dẫn ta vào ngõ cụt. Để tìm hiểu Nho học không thể không xem xét trên giác độ phương pháp duy vật lịch sử. Chúng ta không phân tích những sự kiện tư tưởng bằng bản thân tư tưởng mà phải tìm hiểu tư tưởng gắn liền với những điều kiện xã hội cụ thể trong đó nó đã nảy sinh, phát triển và suy tàn. Hệ tư tưởng của Nho giáo trải qua hơn 2000 năm phát triển và biến đổi. Từ Tam đức của Khổng Tử, từ đoan của Mạnh Tử, ngũ thường ở Hán Nho, “Thiên nhân hợp nhất” ở Đống Trọng Thư, “Thái cực đồ thuyết” của Chu Đôn Di, Lý Khí ở Chu Hi. Tất cả đều xuất phát từ một gốc và khoác chung tấm áo Nho học. Như vậy hệ tư tưởng Nho giáo trải qua hơn 2000 năm là vô cùng phức tạp. Thế thì hệ tư tưởng Nho giáo là tư tưởng gì? và tại sao dưới những hình thức rất phức tạp, tương phản và mâu thuẫn, bao giờ tư tưởng Nho giáo cũng giữ địa vị thống trị.

doc22 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1863 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu về đường lối trị nước an dân của Nho gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1 LỜI MỞ ĐẦU Triết học Trung Hoa cổ đại là một kho tàng tư tưởng cổ xưa rực rỡ phong phú nhất ,một chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại.Nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học thế giới ,chúng ta không thể không nghiên cứu triết học Trung Hoa cổ đại.Mà nghiên cứu triết học Trung Hoa cổ đại chúng ta không thể không nghiên cứu học thuyết Nho gia của Khổng Tử.Mặc dù trong thời kỳ này đã nảy sinh nhiều học thuyết chính trị triết học tiêu biểu như:Nho gia,Pháp gia,Đạo gia,Nông gia ,Mặc gia,Âm dương gia,Tạp gia...nhưng có thể nói Nho gia giữ một vai trò to lớn trong sự phát triển của lịch sử triết học và văn hoá Trung quốc. Kể từ lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trước công nguyên cho đến thời nhà Hán (Hán Vũ Đế) Nho giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng trị nước an dân độc tôn và luôn luôn giữ vị trí đó cho đến ngày cuối cùng của chế độ phong kiến. Điều đó đã minh chứng rõ ràng: tư tưởng trị nước an dân của Nho giáo hẳn phải có những giá trị tích cực đặc biệt, nếu không sao nó có thể có sức sống mạnh mẽ đến như vậy. Nghiên cứu về học thuyết của Khổng Tử là một việc rất khó .Nhưng với mong muốn được hiểu biết về lịch sử Trung quốc nên em đã chọn đề tài : “Nghiên cứu về đường lối trị nước an dân của Nho gia”. Có nhiều vấn đề được đặt ra : một đất nước phát triển mạnh mẽ như trung quốc có phải chỉ dựa trên ‘đức trị’ ? Và hệ tưởng pháp gia có ảnh hưởng như thế nào đối với sự tồn tại và phát triển của Trung hoa thời cổ và trung đại ? Giữa Nho gia và Pháp gia có điểm gì khác nhau? .... Tuy nhiên với kiến thức có hạn ,nên không thể tránh khởi những sai sót .Rất mong sự giúp đỡ của thầy để em hoàn thành tốt bài tiểu luận này.Em xin chân thành cảm ơn thầy. Bài làm gồm 4 chương: Chương1: Mội vài nét về tiến trình phát triển của nho giáo và một số nội dung chính của nó Chương2: Những tư tưởng cơ bản về đường lối trị nước an dân của Khổng Tử. Chương3:So sánh đường lối trị nước an dân của nho gia và pháp gia Chương4: Ảnh hưởng của Nho gia tới đời sống văn hoá Việt Nam Chương 1 VÀI NÉT VỀ TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH CỦA NÓ 1.VÀI NÉT VỀ TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO. 1.1.vài nét về tiểu sử của Khổng Tử . Khổng Tử (551-479)tên thật là Khổng Khâu ,tự là Trọng Ni,ông là nhà triết học ,nhà chính trị ,nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung Học cố đại .Ông được coi là người sáng lập ra môn phái Nho gia.Ông được các học trò tôn là:"chí thánh tiên su,vạn thế sư biểu". Năm1982, một hmột học giảọc giả Mỹ viết “Hành vi cao quý và tư tưởng lý luận đạo đức của Khổng Tử, không chỉ ảnh hưởng tới Trung Quốc mà còn ảnh hưởng tưói trần nhân loại”. Từ thiếu niên đến 30 tuổi, Khổng Tử chuyên cần học tập và tập luyện nắm vững các tri thức về lễ nghi, âm nhạc, xạ tiễn, ngự xạ, thư, số là sau ngành tri thức căn bản thời ấy. Sau đó ông đi giảng dạy bốn phương, nghiên cứu học vấn trong vài chục năm rồi san định, biên soạn các sách được đời sau gọi là lục kinh như Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu. 1.2. Sự ra đời của Nho giáo. Khổng Tử sống trong thời kỳ thay đổi lớn, biến động lớn. Từ lâu, thiên tử nhà Chu đã mất hết uy quyền, quyền lực rơi vào tay các vua chư hầu, cục thể xã hội biến chuyển thay đổi nhanh chóng, người ta mỗi người chọn cho mình những thái độ sống khác nhau. Là một triết nhân thái độ của Khổng Tử hết sức phức tạp, ông vừa hoài cổ, vừa sùng thượng đổi mới. Trong tâm trạng phân vân, dần dần ông hình thành tư tưởng lấy nhân nghĩa để giữ vững sự tồn tại chung và khai sáng hệ thống tư tưởng lớn nhất thời Tiên Tần là học phái Nho giáo tạo ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Trung Quốc. Hệ thống tư tưởng Nhân và Nghĩa của Khổng Tử, bất kể hàm nghĩa phong phú phức tạp đến đâu, nói cho cùng cũng chỉ là để thiết lập một trật tự nghiêm cẩn của bậc đế vương và thành lập một xã hội hoàn thiện. Hệ thống tư tưởng của ông ảnh hưởng tới hơn 2500 năm lịch sử Trung Quốc. Khổng Tử tuy sáng lập ra học thuyết Nhân Nghĩa Nho gia nhưng không được các quân vương thời Xuân Thu coi trọng mà phải do các hậu học như Tử Cống, Tử Tư, Mạnh Tử, Tuân tử truyền bá rộng về sau. Trải qua nhiều nỗ lực của giai cấp thống trị và các sĩ đại phu triều Hán, Khổng tử và tư tưởng Nho gia của ông mới trở thành tư tưởng chính thống. Đổng Trọng Thư đời Hán hấp thụ nhân cách hoàn thiện và học thuyết nhân chính của Khổng Tử, phụ hội thêm Công Dương Xuân Thu lợi dụng âm dương bổ sung thay đổi lý luận trở thành học thuyết thiên nhân hợp nhất cùng với học thuyết chính trị của Tuân Tử, khoác tấm áo thần học cho Nho học. Từ đời Hán đến đời Thanh, Khổng học chủ yếu dùng hình thức kinh truyện để lưu truyền. Đường Thái Tông sau khi hoàn thành toàn diện thống nhất quốc gia, liền cho kinh học gia Khổng Dĩnh Đạt chú giải, hiệu đính lại năm kinh Nho gia là Dịch, Thi, Thư, Tà tuyên, Lễ ký thành bộ Ngũ kinh chính nghĩa gần như tổng kết toàn diện kinh học từ đời Hán đến đó. Ngũ kinh chính nghĩa trở thành sách giáo khoa dùng cho thi cử đời Đường. Khổng học càng được giai cấp thống trị tín nhiệm, Đường Thái Tông nói rất rõ “Nay trẫm yêu thích nhất là đạo của Nghiêu Thuấn và đạo của Chu Không coi như chim thêm cánh, như cá gặp nước, không thể không có được”. Từ đó, Khổng Tử với đế vương, với chính phủ các triều đại đều có quan hệ như Đường Thái Tông hình dung. Khi lịch sử phức tạp của Trung Quốc tiến vào thời kỳ phát đạt - thời kỳ nhà Tống, vị hoàng đế khai quốc là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lập tức chủ trì nghi lễ long trọng tế tự Khổng Tử để biểu dương lòng thiếu đễ, vua còn thân chủ trì khoa thi tiến sĩ mà nội dung hoàn toàn theo Nho học. Đối với Nho học mới bột hưng ở thời Tống, chúng ta thường gọi đó là Lý học. Ngoài Lý học của Trình Chu có địa vị chi phối, phái Công học của Trần Lượng, Diệp Thích, phái Tâm học của Vương Dương Minh cũng đều tôn sùng Khổng Tử, hấp thu một phần tư tưởng cơ bản của ông. Những học thuyết này đều được lưu truyền rộng rãi và tạo ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội văn hoá Trung Quốc. Do vì Nho học được các sĩ đại phu tôn sùng, được các vương triều đua nhau đề xướng nên Nho học thuận lợi thẩm thấu trong mọi lĩnh vực trong mọi giai tầng xã hội, từ rất sớm nó đã vượt qua biên giới dân tộc Hán, trở thành tâm lý của cộng đồng dân tộc Trung Quốc, là cơ sở văn hoá của tín ngưỡng và tập tính. 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH CỦA NHO GIÁO Chúng ta tìm hiểu về Nho giáo khi nó đã tồn tại hơn 2000 năm, luôn được cải biến được bổ sung và mang các bộ mặt khác nhau qua các thời kỳ. Nhiều học giả đã tốn rất nhiều giấy mực để sưu tâm, trích dẫn và bàn cãi chung quanh những câu chữ trong sách vở của Nho giáo từ trước tới nay. Việc làm ấy thường dẫn đến những nhận định chủ quan, giản đơn và phiến diện. Muốn khen hay chê người ta đều có thể trích dẫn những lời lẽ rất hấp dẫn từ trong kho sách của Nho giáo. Nhưng khi để ý rằng Khổng Tử - người sáng lập ra Nho giáo - khi đề ra những điều căn bản trong học thuyết của Nho giáo cũng đang ở tâm trạng phân vân, mâu thuẫn, vừa hoài cổ, vừa sùng thường, và bối cảnh xã hội lúc ấy cũng là lúc giằng co, giành giật giữa chế độ nô lệ và chế độ phong kiến. Sau này khi Nho học được cải biến để phục vụ ý đồ của giai cấp thống trị thì nó càng chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Vì thế không thể tìm hiểu Nho học theo lối trích dẫn, kinh viện vì nó chỉ càng dẫn ta vào ngõ cụt. Để tìm hiểu Nho học không thể không xem xét trên giác độ phương pháp duy vật lịch sử... Chúng ta không phân tích những sự kiện tư tưởng bằng bản thân tư tưởng mà phải tìm hiểu tư tưởng gắn liền với những điều kiện xã hội cụ thể trong đó nó đã nảy sinh, phát triển và suy tàn. Hệ tư tưởng của Nho giáo trải qua hơn 2000 năm phát triển và biến đổi. Từ Tam đức của Khổng Tử, từ đoan của Mạnh Tử, ngũ thường ở Hán Nho, “Thiên nhân hợp nhất” ở Đống Trọng Thư, “Thái cực đồ thuyết” của Chu Đôn Di, Lý Khí ở Chu Hi... Tất cả đều xuất phát từ một gốc và khoác chung tấm áo Nho học. Như vậy hệ tư tưởng Nho giáo trải qua hơn 2000 năm là vô cùng phức tạp. Thế thì hệ tư tưởng Nho giáo là tư tưởng gì? và tại sao dưới những hình thức rất phức tạp, tương phản và mâu thuẫn, bao giờ tư tưởng Nho giáo cũng giữ địa vị thống trị. 2.1. Tư tưởng Nho giáo là gì? Tư tưởng Nho giao bao gồm những tư tưởng về biến dịch của vũ trụ và tư tưởng về chính trị - đạo đức của Khổng Tử.Đứng trên quan điểm triết học của kinh dịch thì uyên nguyên của vũ trụ ,của vạn vật là thái cực.Thái cực chứa đựng một năng lực nội tại mà phân thành lưỡng nghi là âm và dương.Sự tương tác giữa hai thế lực âm và dương sinh ra tứ tượng (thái âm - thái dương - thiếu âm - thiếu dương).Tứ tượng sinh ra bát quái (càn - khảm - cấn - chấn - tốn - ly - khôn - đoài).Và bát quái sinh ra vạn vật. Thế giới quan của Khổng Tử dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm ,giữa chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa hữu thần.Một mặt ông xem trời là giới tự nhiên ,có sự vận hành của giới tự nhiên .Mặt khác ,ông lại cho rằng trời là một lực lượng vô hình chi phối vận mệnh xã hội và con người.... Về tư tưởng chính trị - đạo đức ,thì toàn bộ tư tưởng đều nhằm vào việc giải quyết những vấn đề xã hội - những vấn đè cấp bách đặt ra trong thời đại ông.Đây cũng chính là nội dung đường nối trị nước an dân của Khổng Tử mà nội dung của nó sẽ được trình bày ở chương 2. 2.2. Thái độ của Nho giáo đối với cuộc sống. Trước hết phải nói Nho giáo làđạo quan tâm đến con người, đến cuộc đời và tìm thú vui trong cuộc sống. Khác với các tôn giáo ở chỗ đó. Phật giáo cho cuộc đời là bể khổ nên tìm cách giải thoát, cần sự “bất sinh”. Lão giáo cũng yếm thế, bi quan như vậy, nên cần sự “vô vi tịch mịch”. Chỉ có đạo Nho là trong sự sống hơn cả. Không cần phải hỏi ta sinh ra ở cõi đời để làm gì, chết rồi thì đi đâu, chết rồi có linh hồn nữa không “Người muốn biết người chết rồi có biết gì nữa không ư? Chuyện đó không phải là chuyện cần kíp bây giờ, rồi sau biết” (Khổng Tử gia ngữ). Cho nên Khổng Tử ít bàn đến chuyện quỷ thần, đến chuyện quái lạ, huyền bí. Làm người ở đời hãy lo lấy việc của con người. Chuyện của con người lúc sống còn chưa lo hết, lo gì đến việc sau khi chết! “Phải vụ lấy việc nghĩa của con người, còn quỷ thần kính mà xa ta” (Luận ngữ) khi khoa học chưa phát triển, các tôn giáo còn thịnh hành, những chuyện mê tín dị đoan còn huyền hoặc người ta gây bao nhiêu tai hại, thì thái độ “kinh nhi viễn chi” là đúng. Khổng Tử tuy chưa thoát ra được cái “thiện đạo quan” của đời Chu, nhưng ông đã bắt đầu hoài nghi quỷ thần, trời mặc dù ông vẫn trong việc tế trị. Nho học khuyên con người ta nên yêu đời, vui đời, sống có ích cho đời cho xã hội. Câu Khổng Tử trả lời Tử Lộ khi ông ta định sang giúp Phật Bật nêu rõ điều đó: “Ta đây há lại là quả dưa, chỉ được treo mà không được ăn hay sao” sống ở đời mà bỏ việc đời là trái đạo con người. Sống là hành động, đem tài trí giúp đời Khổng Tử chính là tấm gương cho các nhà Nho đời sau noi theo. Ông không tìm thú vui ở chỗ ẩn dật hay ở chỗ suy tưởng suông, mà ở chỗ hành động, hành đạo. Khổng Tử đi chu du thiên hạ ngoài mục đích tìm cách thực hiện lý tưởng của mình suốt 14 năm. Không ai dùng, trở về đã 70 tuổi ông vẫn dạy học, làm sạch, truyền bá tư tưởng của mình. Đây có thể nói là điểm sáng nhất của Nho giáo so với các học thuyết khác, và có lẽ chính nhờ nó mà Nho giáo giữ vị trí độc tôn và ưa chuộng trong thời gian rất dài của lịch sử. 2.3. Quan niệm về đạo đức trong Nho giáo. Trong Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người. Phải nói đạo làm người của Khổng Tử dạy là đạo làm người trong xã hội phong kiến. Chúng ta đều biết trong xã hội có giai cấp thì những nguyên tắc để đánh giá hành vi của con ngươì, phẩm hạnh của con người trong mối quan hệ với người khác và trong mối quan hệ với nhà nước, Tổ quốc... đều mang tính giai cấp rõ rệt và có tính chất lịch sử. Những quan niệm về đạo đức điều thiện, điều ác “thay đổi rất nhiều từ dân tộc này tới dân tộc khác, từ thời đại này đến thời đại khác đến nỗi thường thường trái ngược hẳn nhau” (Enghen). Những quan niệm đạo đức mà Khổng Tử đề ra không phải là vĩnh cửu, nhưng có nhiều phương châm xử thế, tiếp vật đã giúp ông sống giữa bầy lang sói mà vẫn giữ được tâm hồn cao thượng, nhân cách trong sáng. Suy đến cùng đạo làm người ấy bao gồm 2 chữ nhân nghĩa. Khổng Tử giảng chữ Nhân cho học trò không lúc nào giống lúc nào, nhưng xét cho kỹ, cốt tuỷ của chữ Nhân là lòng thương người và cũng chính là Khổng Tử nói “đối với người như đối với mình, không thi hành với người những điều mà bản thân không muốn ai thi hành với mình cả. Hơn nữa cái mình muốn lập cho mình thì phải lập cho người, cái gì mình muốn đạt tới thì cũng phải làm cho đạt tới, phải giúp cho người trở thành tốt hơn mà không làm cho người xấu đi” (luận ngữ) “Nghĩa” là lẽ phải. đường hay, việc đúng. Mạnh Tử nói “nhân là lòng người, nghĩa là đường đi của người”; (Cáo Tử thượng) “Nhân là cái nhà của người, nghĩa là đường đi ngay thẳng của người” (Lâu ly thượng); “ở với đạo nhân, nói theo đường nghĩa, tất cả mọi việc của đại nhân là thế đó” (Tồn tâm thương). Nghĩa thường đối lập với lợi. Theo lợi có khi không làm cái việc phải làm nhưng trái lại, theo nghĩa có khi lại rất lợi. Có cái nghĩa đối với người xung quanh có cái nghĩa đối với quốc gia xã hội. Tuy nhiên quan niệm đạo đức của Nho giáo quả là có rất nhiều điểm tích cực. Một trong những đặc điểm đó là đặt rõ vấn đề người quân tử, tức là người lãnh đạo chính trị phải có đạo đức cao cả; dù nguyên tắc ấy không được thực hiện trong thực tế nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa cho những sĩ phu đấu tranh. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần trách nhiệm cao cả với xã hội. Truyền thống hiếu học, truyền thống khí tiết của kẻ sĩ không thể bảo là di sản của Nho giáo chỉ có tiêu cực. Chương 2 NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC AN DÂN CỦA KHỔNG TỬ Toàn bộ tư tưởng cơ bản của học thuyết Khổng Tử là nhằm vào việc giải quyết những vấn đề xã hội - chính trị ,những vấn đề cấp bách trong thời đại của ông . Xã hội là một tổng thể của những quan hệ giữa người với người .Nhưng Khổng Tử đã coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ cơ bản ,đề cao vai trò những quan hệ ấy thâu tóm những quan hệ ấy vào ba mối quan hệ được ông coi là rường cột chủ đạo (gọi là tam cương):vua - tôi ,cha- con,vợ -chồng.Từ ba mối quan hệ đó mở rộng ra việc giải quyết các mối quan hệ khác.Có thể coi đây là phương pháp luận trong việc giải quyết vấn đề triết học xã hội của ông. Để giải quyết đúng đắn các quan hệ xã hội ,mà trước hết là mối quan hệ "tam cương",Khổng Tử nêu ra thuyết "chính danh". Thứ nhất: Muốn cho xã hội thái bình thịnh trị cần phải có kỷ cương đường lối.Kỷ cương đó là: Quân quân, Thần thần, Phụ phụ Tử tử. Thứ hai: Theo Khổng Tử mỗi người mỗi vật đều có một giá trị sử dụng nhất định .Nếu biết dùng đúng chỗ sẽ trở thành hữu ích.Cho nên,làm chính trị là việc rất khó,nhưng cũng rất dễ nếu đấng minh quân biết sử dụng ba hạng người :(1)quả quyết can đảm;(2)Minh đạt(có tài lường trước đoán sau);(3)Nghệ tinh(có tài nghệ, am hiểu chuyên môn) Để thực hiện chính danh ,Khổng Tử đề ra đường lối trị quốc là "nhân trị",chứ không phải "pháp trị".Do đó hệ thống các phạm trù và bảng giá trị về chính trị - đạo đức được đặc biệt coi trọng là:nhân ,lễ,trí ,dũng.Trong đó chữ "nhân "được đặc biệt đề cao và có thể coi là cốt tuỷ của hệ thống đó.chữ "nhân"trong học thuyết của khổng Tử có nhiều nghĩa khác nhau.trong đó có những nội dung chủ yếu:Nhân là yêu người(nhân giả,ái nhân);nhân là coi người như mình,cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người(kỷ sở bất dục vật thi ư nhân)nhân là coi trọng nguyên tắc xã hội đó nguyên tắc "lễ",ông nói "khắc phục lễ vi nhân "(hạn chế lòng mình trở lại điều lễ là nhân ). Đối với người làm chính trị mốn có đức nhân phải làm năm điều: (1).Kính trọng dân;(2).Khoan dung độ lượng;(3).Giữ lòng tin;(4).mẫn cán ;(5).đem lòng nhân ái mà lo cho dân và đối sử với dân. Đối với đấng quân vương trị vì đất nước,mốn có đức nhân cần phải:kính sự(chăm lo đến công việc).Như lín(giữ lòng tin vối dân);tiết dụng(tiết kkiệm trong tiêu dùng ). Muốn có đức "nhân"thực hạnh theo đức nhân thì phải có trí và dũng .Theo Khổng Tử,có đức nhân thì chẳng việc gì lo buồn,có đức trí thì chẳng bao giờ sai lầm ,có đức dũng thì chẳng bao giờ kính sợ. Chủ trương "nhân trị "của Khổng Tử phản ánh tư tưởng triết học nhân bản của ông :tin tưởng vào bản chất tín thiệm nơi con người . Ngoài ra Khổng Tử còn chủ trương đừng để giàu nghèo cách biệt thái quá:không lo thiếu mà lo không đều không lo nghèo mà lo không yên . Về đường lối xây dựng đất nước :Khổng Tử cho rằng ,để xây dựng quốc gia thái bình thịnh trị ,người trị vì đất nước phải chăm lo ba việc lớn:(1).Túc thực(sản xuất nhiều của cải), (2).Túc binh (quốc phòng hùng hậu), (3).Thành tín (giữ lòng tin của dân sao cho dân tin và dân phục); Trong đó theo Khổng Tử ,quan trọng nhất là thanh tín ,thứ đến là túc thực và sau cùng là tù binh. Về giáo dục Khổng Tử cho rằng :Tính của con người do trời phú mà cứ buông lơi ,thả lỏng trong cuộc sống thì tính không thể tránh khỏi tình trạng biến chất theo muôn vàn tập tục, tập quán. Trong hoàn cảnh ấy con người có thể trở thành vô đạo ,dẫn đến cả nước vô đạo và thiên hạ vô đạo.Vì vậy,Khổng Tử khuyên nên coi trọng "giáo" hơn "chính",đặt giáo hoá lên chính trị.Muốn dẫn nhân loại trở về tính gần nhau ,tức là chỗ "thiện bản thân "thì phải để công vào giáo dục vì giáo dục có thể hoá ác thành thiện."Tu sửa đạo làm người "là mục đích tối cao của giáo dục trong việc cải tạo nhân tính của Khổng Tử .Ông không coi giáo dục chỉ là để mở mang tri thức ,giải thích vũ trụ mà ông chú trọng đến việc hình thành nhân cách đầy đủ ,lấy giáo dục để mở mang cả trí, nhân, dũng ,cốt dạy người ta hoàn thành con người đạo lý . Xuất phát từ quan điểm đó ,Khổng Tử đã dành nhiều thời gian, tâm huyết để đặt nền móng cho một nền giáo dục lý tưởng của ông. Nền giáo dục ,theo Khổng Tử,phải tuân theo những nguyên tác cơ bản:(1)"Đại học chi đạo":nghĩa là học cho đến mức biến hoá được dân ,đối được phong tục tập quán của dân làm cho người gần thì khâm phục ,người xa thì yêu mến.(2) "tại minh minh đức":chữ đức được hiểu là chân lý nhận thức,nghĩa là học đến mức hiểu được các nguyên lý của trời đất,thấu hiểu mọi chân tơ kẽ tóc.(3) "Tại thần dân":sự học phải xuất phát từ tình thân yêu dân ,thương yêu con người mà học.Bởi vì theo Khổng Tử đạo của đạo học là đạo người,cho nên chỉ ai có tình yêu thương con người mới có thể thấu hiểu lý lẽ của sự học.(4)"tại chi vi chi thiện":Tức là học cho đạt tới sự hoàn thiện . Muốn đạt được minh đức ,sáng tỏ mọi nguồn lý lẽ của tạo hoá thì phải "cách vật trí chi" tức là phải tới nơi có sự vật ,có sự kiện mà tìm ra ngọn nguồn của nó .Cuối cùng mục đích của sự học cũng như mục đích của giáo dục ,theo Khổng Tử ,là để "thành ý,chính tâm ,tu thân ,tề gia ,trị quốc ,thiên hạ bình".Tức là ,học để ứng dung cho có ích với đời ,với xã hội, chứ không phải để làm quan sang ,bổng lộc.Học còn để hoàn thiện nhân cách và học để tìm tòi điều lý .Khi tìm ra được hệ thống điều lý thì có thể hiểu được sự khác nhau của vạn vật. Để thực hiên được điều đó ,ông đã đề ra phương pháp giáo dục: Ông rất coi trọng việc giáo dục theo lịch trình đúng với điều kiện tâm sinh lý .Cách giáo dục ấy nhằm nuôi cho tình cảm nẩy nở, rồi đưa vào khuôn phép,rồi điều hoà sự xung đột ở tâm.Ông còn coi trọng các mối quan hệ giữa các khâu của giáo dục :trong viêc học, cần tuân thủ "học "gắn liền với "tư",với "tập",với "hành".Từ đó Khổng Tử để tâm xây dựng những mẫu người theo lý tưởng của chính trị xã hội của ông.(1):mẫu người quân tử ,đó là loại người mẫu mực mà theo Khổng Tử là tiêu biểu cho chính trị đạo đức .Con người này có những tính chất :trước nghĩa và lợi thì hướng về nghĩa, với mọi người thì hoà hợp nhưng không hùa theo.(2)Mẫu người kẻ sĩ:học rồi ra làm quan ,dùng thì làm bỏ thì ẩn ,chỉ lo đạo không lo nghèo.(3)Mẫu người làm chính trị :quyết đoán (như Trọng Do), đạt nhân tình(như Doan Mộc Tử), nhiều tài lắm nghệ (như Nhiễu Câu). Kết luận: Về đạo đức: Nho giáo sinh ra từ một xã hội chiếm hữu nô lệ trên đường suy tàn ,vì vậy ,Khổng Tử đã luyến tiếc và cố sức duy trì chế độ ấy bằng đạo đức. Về chính trị: tình hình xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã xuất hiện những vấn đề lớn như:sự hỗn loạn về quan niệm đẳng cấp và danh phận ,các chư hầu xâm lấn và thôn tính lẫn nhau ,mâu thuẫn gay gắt giữa nông dân và lãnh chúa, sự xuống cấp về đạo đức... do không hiểu nguyên nhân sâu xa của các sự biến lịch sử và bị những quyền lợi giai cấp quy định nên những kế sách chính trị của Khổng Tử chỉ dừng lại ở tính chất cải lương và duy tâm, chứ không phải bằng cách mạng hiện thực . Về nhận thức luận :Từ kinh nghiệm của mình ,Khổng Tử đã tổng kết đựơc nhiều quy luật nhận thức ,nhưng chủ yếu là thực tiễn giáo dục .Do không coi trọng cơ sở kinh tế - kỹ thuật của xã hội, cho nên giáo dục của Nho gia chủ yếu hướng vào rèn luyện đạo đức con người .Nhưng tư tưởng về giáo dục ,về thái độ và phương pháp học tập của Khổng Tử chính là bộ phận giàu sức sống nhất trong tư tưởng Nho gia. Chương 3 SO SÁNH TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC AN DÂN CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA. Thời Xuân Thu - Chiến Quốc có nhiều học phái triết học xuất hiện và mỗi học phái đưa ra cách trị nước an dân khác nhau của mình gọi là "trị đạo'.Những trị đạo được người ta nói nhiều là : "chính trị ","đức trị ","lễ trị","pháp trị,và "vô vi nhi trị".Và luôn đấu tranh gay gắt giành ưu thế trong phép cai trị xã hội ,trong đó phải nói đến đấu tranh giữa Nho gia và Pháp gia về trị đạo.Pháp gia thiên về bá đạo chủ trương pháp trị ;Nho gia ,kiên trì vương đạo và chủ trương lễ trị Trước hết ,nói đến Pháp gia, ta phải nói đến Hàn Phi Tử (280 - 233 TCN). Ông được coi là người tiền bối sáng lập ra với tư cách là một hệ tư tưởng toàn vẹn .Những tư tưởng này đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp thống nhất quốc gia thời Tần Thuỷ Hoàng Đế. Trái với tư tưởng trị nước an dân của Nho gia ,Pháp gia cai trị xã hội bằng luật pháp .Hàn Tử phản đối phép trị quốc của Nho gia coi trọng nhân trị .Ông cho rằng bản tính của con người vốn là "ác",tức là tính cá nhân vụ lợi ,luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi...do đó phải đặt ra "pháp",tức là những quy định ,luật lệ ,hiến lệ ,thể chế ,chế độ chính trị - xã hội ,những tiêu chuẩn khách quan mà người ta có thể căn cứ vào đó mà luận công,tội, phải ,trái ,đúng ,sai ...,được viết thành văn bản của quốc gia, khống chế dư luận ,yêu cầu dùng hình phạt nặng không a dua quyền quý .Theo Hàn Phi Tử :"Pháp bất vi thân ",pháp phải được xác định rõ ràng ,minh bạch ,khách quan ,tức là căn cứ vào "lý". Còn "thế" là thế lực của người cầm đầu tổ chức chính trị - xã hội , có quyền vạn năng thì pháp mới được tôn trọng thuật mới được thực thi.Thuật :là phương pháp hay nghệ thuật giải quyết công việc và điều khiển con người ,tức là "thuật cai trị".Ngoài ra ,thuật còn có tác dụng trong việc tuyển chọn người tài vào bộ máy cai trị quốc.Vì nhờ thuật mà xác định đuậoc cái thật chứ không phải cái danh. Hàn Phi Tử thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội ,cho rằng không có chế độ nào là không thay đổi .Do đó không thể nào có khuôn mẫu chung cho toàn xã hội .Vì vậy, phép trị quốc thay đổi tuỳ theo sự thay đổi của xã hội ,tức là phải căc cứ vào tình trạng xã hội mà đề ra phép tắc ,điều luật ,không nên nệ cổ ,hoài cổ. Như vậy ,tư tưởng pháp gia thuộc tư tưởng triết học chính trị , nó đại biểu cho lợi ích của tầng lớp địa chủ mới trỗi dậy ,của nền chuyên chính quân chủ .Địa vị của nó ở giá trị thực dụng .Bao đời nay ,các nhà thống trị đều dùng "pháp "như một thủ đoạn chính trị để cướp quyền và củng cố chính quyền ."Âm pháp ,dương Nho ,lấy đạo hỗ trợ "là chủ lưu văn hoá chính trị Trung Hoa .Quả thật, không thể có một thứ Nho giáo chung cho các thời đại, một thứ Nho giáo nhất thành, bất biến ở khắp mọi nơi. Khi Khổng Tử đề ra học thuyết của ông và đi chu du thiên hạ để mong được sử dụng thì ông đã thất bại. Điều đó không có nghĩa rằng xã hội Đông Chu đã xấu hơn xã hội thời Ngũ đế tam vương mà chỉ có nghĩa rằng những tư tưởng của ông muốn bảo vệ nền chuyên chính của quý tộc chủ nô không còn phù hợp nữa với xã hội và uy thế chính trị đang đang dần dần thuộc về tầng lớp địa chủ mới. Khi học thuyết của Khổng Tử được đặt lên vị trí độc tôn thì không có nghĩa rằng vua nhà Hán đã có đạo đức, nhân nghĩa hơn nhà Tần mà chỉ vì chế độ trung ương tập quyền của nhà Hán đang đòi hỏi một hệ tư tưởng thích hợp với nền kinh tế tiểu nông và bộ máy phong kiến quan liêu của nó. Khi Nho giáo đã mang hình thức duy tâm tư biên với Lý học đời Tống thì không phải lịch sử đã tạo ra mấy nhân vật “lỗi lạc” mà chỉ vì giai cấp phong kiến đã suy tàn đã cần thiết phải đổi mới các hệ tư tưởng cũng suy tàn như nó. Nho giáo lúc đó hầu như đã kiệt sức và được bổ sung bằng giáo lý của Phật, Lão. Cũng như học thuyết của Nho giáo , học thuyết của Pháp gia cũng giữ vai trò to lớn trong sự phát triển của lịch sử triết học và văn hoá Trung Hoa.Nó cũng có thời kỳ suy tàn và hưng thịnh.Dù là Nhân trị hay hay Pháp trị thì đều có những mặt ưu điểm và nhược điểm của nó, có phù hợp hay không là phụ thuộc vào từng thời kỳ lịch sử nhất định.Và chúng đã tồn tại trong suốt quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng Trung Hoa cho tới thời cận đại. Chương 4 ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TỚI ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ VIỆT NAM 1. QUÁ TRÌNH DU NHẬP CỦA NHO HỌC VÀO VIỆT NAM. Tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luận hướng dẫn tư duy và hành động cho dân tộc mình là một chân lý phổ biến, là một sự thực khách quan của các thời đại, của các dân tộc. Trong ý thức hệ phong kiến mà người Hán đưa vào nước ta từ thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo lâu bền nhất và có ảnh hưởng sâu sắc nhất. Phật giáo dần dần rút lui vào chùa chiền, lão giáo cũng dần biến thành một thứ mê tín dị đoan mà các thầy phù thuỷ dùng làm kế sinh nhai. Tư tưởng trị vì trong lĩnh vực chính trị và học thuật suốt 2000 năm là tư tưởng Nho giáo. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân vô cùng quan trọng là sức sống của dân tộc. Trong hoàn cảnh thời trước, nhất là từ khi giành được nền tự chủ dân tộc Việt Nam muốn tồn tại thì phải chọn lấy một ý thức hệ tích cực, quan tâm đến con người đến cuộc đời, đến xã hội, đến vận mệnh dân tộc. Nho giáo có nhiều hạn chế nhưng trong 3 ý thức hệ phong kiến thì phải nói Nho giáo có nhiều nhân tố tích cực nhất. Do đó cha ông ta đã chọn lấy Nho giáo. Chúng ta đã biết, lúc đầu Nho giáo được đưa vào Việt Nam trong trường hợp không hay ho gì. Nó bị bọn xâm lược đặt lên nhân dân ta với ý định gây cảnh “đồng văn” để dễ “đồng hoá”. Nhưng khi đã làm quen với đạo Nho, chắc rằng nhân dân ta thời đó thấy nó đáp ứng được nhiều vấn đề mà đời sống đặt ra, nên khi giành được độc lập, nhân dân ta nói lấy nó làm nền tảng lý luận để chỉ đạo tư duy và hành động của mình. Thế là từ chỗ bị ép học nó, nhân dân ta đã tự nguyện học nó và ngày một phổ biến nó một cách rộng rãi. Vì thế những người Việt Nam đầu tiên được giữ những chức vụ quan trọng dưới thời Bắc thuộc như Lý Tiến, Lý Cầm - làm thái thú, thứ sứ - đều là những người học thông kinh truyện, xuất thân từ khoa bảng. Ngay khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán, giành được độc lập đã xây dựng thể chế quốc gia, đặc các nghi lễ phẩm phục, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, tức là tinh thần tôn ti đẳng cấp. Các triều đại đầu tiên khi niên hiệu, tôn hiệu cũng đã thể hiện sự tin tưởng màu sắc là lý thuyết mệnh trời như “ứng thiên”, “thuận thiên” “Phụng thiên”. Phần “Chiếu dời đô” của nhà Lý tuy đoạn còn lại với chúng ta rất ngắn, cũng đượm mùi Nho giáo. Cái gương “nhà Thương, nhà Chu” cũng được nêu lên, cái gương “kính vâng mạng trời” cũng được nhấn mạnh. Các triều đại sau, Trần, Lê, Nguyễn thờ đạo Nho như thế nào thì sử sách đã nêu rõ. 2. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG VIỆT NAM. 2.1.Những nhu cầu xã hội giúp cho Nho giáo chiếm được địa vị độc tôn trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Nho giáo Việt Nam chiếm được vị trí độc tôn từ thế kỷ 15 và thịnh đạt nhất vào thời Lê Thánh Tông thì đó không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Bởi vì nó có liên hệ với những nhu cầu xã hội nước ta lúc đương thời. Những nhu cầu này không chỉ tồn tại ở thế kỷ 15 mà đã sớm xuất hiện từ trước ngay khi Nho giáo còn đang trên đà phát triển. Trong những nhu cầu đó đáng kể trước hết là nhu cầu xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền lớn mạnh và nhu cầu củng cố trật tự đã ổn định của xã hội phong kiến. Ngay từ sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại ở thế kỷ X, việc xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đã tỏ ra cần thiết cho công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy nhiên dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê việc xây dựng một nhà nước chủ thế mới chỉ làm được những bước đầu tiên và chưa thực sự được đẩy mạnh, phải đợi đến thế kỷ XI với sự xác lập của vương triều Lý thì nhà nước phong kiến tập quyền mới được xây dựng một cách quy mô bề thế, với những tổ chức và thể chế trùng điệp của nó. Tiếp đó là triệu đại nhà Trần, rồi đến Lê Lợi khi đã lãnh đạo cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi đều quan tam tới việc củng cố chế độ phong kiến tập quyền và xây dựng một bộ máy nhà nước trung ương hùng mạnh không kém gì phương Bắc. Nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam ra đời là một sự phủ định chính quyền của bọn phong kiến phương Bắc kéo dài trong 1000 năm Bắc thuộc. Thế cho nên khi xây dựng nhà nước tập quyền của mình, giai cấp phong kiến Việt Nam phải tiếp thu những kinh nghiệm và nguyên tắc tổ chức của nhà nước phong kiến tập quyền phương Bắc cùng với Nho giáo là cơ sở lý luận của Nhà nước. Vả lại trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ chỉ có Nho giáo mới có thể giải đáp được những vấn đề thiết thân đến việc củng cố nhà nước như vấn đề quân quyền, quy định các chương lễ chế và cơ cấu hành chính từ triều đình đến địa phương... Đó là những vấn đề mà bản thân phật giáo cũng như Lão giáo với toàn bộ hệ thống lý thuyết của nó không hề có một sự giải đáp thích đáng nào cả. Cho nên từ thế kỷ XV trở đi Nho giáo ngày càng được giai cấp phong kiến Việt Nam trọng dụng thì đó cũng là điều dễ hiểu. Sự thực chứng tỏ rằng trong thời Lý, Trần, Nho giáo đã bắt đầu được vận dụng một cách rõ rệt vào hoạt động thực tiễn nhằm củng cố chính quyền nhà nước. Sau nữa, củng cố ở thời Lý, Trần và nhất là thời Lê sơ, tôn ti trật tự của chế độ phong kiến tập quyền cùng với sự phân biệt rạch ròi về quyền lợi và đẳng cấp của nó đã dần dần ổn định. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự khẳng định về mặt lý luận. Vả lại vào cuối triều Lý và nhất là khi nhà Trần suy vong, mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và đa số nhân dân đã lộ rõ, mầm phản kháng của nhân dân chống lại cái trật tự khắc nghiệt của chế độ phong kiến đã trở thành một sự nổi bật hơn cả những cuộc hỗn chiến giữa các tập đoàn thống trị. Trong hoàn cảnh ấy giai cấp phong kiến Việt Nam muốn tăng cường bộ máy Nhà nước và duy trì trật tự xã hội thì không thể không tìm đến cái đạo trị quốc bình thiên hạ, cái lý thuyết chính danh định phận và lễ trị của Nho giáo. Quá trình phát triển của chế độ trung ương tập quyền Việt Nam gắn liền với sự củng cố quyền sở hữu của Nhà nước và sự bành trướng của sở hữu tư nhân về ruộng đất. Hầu hết ruộng đất dù là ruộng công của làng xã hay ruộng của địa chủ đều được sử dụng trong khuôn khổ sản xuất nhờ lấy gia đình làm đơn vị. Trong mỗi gia đình không những cơ quan hôn nhân, huyết thống mà còn có cả quan hệ sở hữu, phân phối sản phẩm, phân công lao động cho đến những quan hệ tinh thần. Tất cả những quan hệ ấy chứng tỏ vai trò của người gia trưởng và tôn ti trật tự của gia đình có một ý nghĩa rất lớn. Đó chính là cơ sở để Nho giáo dễ thâm nhập vào cuộc sống bởi vì Nho giáo với các khái niệm hiếu, đễ, tiết, hạnh đã góp phần củng cố uy quyền của người gia trưởng và tôn ti trật tự trong gia đình. Cuối cùng phải kể đến nhu cầu phát triển văn hoá và giáo dục nước ta khi chế độ phong kiến tập quyền đã bắt đầu, việc bổ sung quan lại bằng hai con đường “nhiệm tử” và “thủ sĩ” không đủ mà cần phải bổ sung một phương thức đào tạo và tuyển lựa quan lại mới. Phương thức này chỉ có thể phát triển giáo dục văn hoá và thực hiện chế độ thi cử để tuyển lựa nhân tài. Lúc đương thời Phật giáo, Lão giáo không chỉ đảm nhiệm công việc đó. Cho nên Nho giáo vốn có đầy đủ lý thuyết và quy chế về giáo dục và khoa cử tất nhiên phải đảm đương nhiệm vụ lịch sử ấy. Tất nhiên những nhu cầu xã hội nói trên mới chỉ là những cơ sở khách quan cho sự phát triển Nho giáo ở nước ta mà thôi. Sự phát triển đó muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua hoạt động của những con người cụ thể, những lực lượng xã hội cụ thể. Trong thực tế từ vua cho đến các đại thần nắm quyền chính trị dưới càng triều Lý, Trần cũng như các thế hệ nho sĩ đời sau đều đã nhận thức được vai trò cần thiết của Nho giáo. Và đã tiến hành những bước truyền bá và sử dụng Nho giáo trong xã hội Việt Nam. 2.2. Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam. Sự phát triển của Nho giáo Việt Nam không tách rời những yêu cầu xã hội như trên đã nói, cho nên trong buổi thịnh tự nhất, nó không khỏi có một số tác dụng tích cực. Trước hết là cương vị độc tôn, Nho giáo đã có thêm nhiều sức mạnh và uy thế góp phần củng cố và phát triển chế độ quân chủ và những kinh nghiệm mẫu mực cho việc chấn chỉnh và mở rộng nhà nước phong kiến tập quyền theo một quy mô hoàn chỉnh có đầy đủ những thể chế và điều phạm. Mà ở thế kỷ XV, các xu thế phát triển đó đã và đang giữ vai trò thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trên các bình diện sản xuất và củng cố quốc phòng. Như đã biết, quá trình đi lên của Nho giáo Việt Nam không tách rời yêu cầu phát triển nền kinh tế tiểu nông gia trưởng dựa trên quyền sở hữu của giai cấp địa chủ của nhà nước và của một bộ phận nông dân trực tiếp tự canh về ruộng đất. Vì thế cho nên khi chiếm được vị trí chủ đạo trên vòm trời tư tưởng của chế độ phong kiến, Nho giáo càng có điều kiện xúc tiến sự phát triển này. Nó làm cho sản xuất nông nghiệp và trao đổi hàng hoá được đẩy mạnh hơn trước. Đồng thời Nho giáo đem lại một bước tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn hoá tinh thần của xã hội phong kiến nước ta từ thế kỷ XV, trước hết nó làm cho nền giáo dục phát triển hết sức mạnh mẽ nhất là dưới triều Lê Thánh Tông. Nền giáo dục ấy cùng với chế độ thi cử đã đào tạo ra một đội ngũ tri thức đông đảo chưa từng thâý trong lịch sửd chế độ phong kiến Việt Nam. Do đó khoa học và văn học nghệ thuật phát triển. Hơn nữa sự thịnh trị của Nho giáo từ thế kỷ XV cũng là một hiện tượng góp phần thúc đẩy lịch sử tư tưởng nước ta tiến lên một bước mới. Là một học thuyết tích cực nhập thể, nó cổ vũ và khuyến khích mọi người đi sâu vào tìm hiểu những quan hệ xã hội, những vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và đạo đức. Do đó, nhận thức lý luận của dân tộc ta về các vấn đề ấy cũng được nâng cao hơn. Dựa vào lịch sử của Nho giáo, nhà vua và các nho sĩ giải thích các vấn đề ấy có lập luận và có lý lẽ đầy đủ hơn. Nhưng Nho giáo Việt Nam dù có lý do để tồn tại và phát triển thì cũng vẫn gắn liền với giai cấp phong kiến địa chủ trong nước và là công cụ thống trị và tư tưởng của giai cấp đó. Mà giai cấp địa chủ đó từ thế kỷ XV trở về trước tuy có một vai trò nhất định nhưng vẫn là một giai cấp bóc lột đối với nhân dân. Và bất cứ một giai cấp bóc lột nào ngay cả khi đang lên cũng mang theo những vết bùn nhơ và bàn tay vấy máu của những người lao động. Cho nên Nho giáo với tư cách là vũ khí của giai cấp phong kiến Việt Nam dù cho có không ít tích cực thì tác dụng tích cực đó cũng còn rất hạn chế. Thực ra ngay ở thời kỳ thịnh trị của nó, Nho giáo cũng đã có những mặt tiêu cực nghiêm trọng và chứa đựng khả năng suy yếu sau này của nó. Nho giáo ở Việt Nam khi chiếm ở vị trí độc tôn thì đã làm cho chủ nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng và trong địa hạt giáo dục khoa học. Các quan lại, sĩ phu, đều lấy thánh kinh, hiền truyện của Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi người suy nghĩ và hành động của mình, lấy cái xã hội thời Nghiêu Thuấn làm khuôn mẫu cho mọi tình trạng xã hội; lấy những sự tích và điều phạm trong kinh, thư, kinh xuân thu làm tiêu chuẩn để bình giá mọi sự việc. Bệnh giáo điều và khuôn sáo này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật nhất là trong văn học và sử học khiến cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này bị dập vào những cái khuôn sẵn có. Đó là một tật bệnh đã được rèn đúc ngay từ khi người nho sĩ phải mài dũa văn chương để tiến vào con đường cử nghiệp. Sự thịnh trị của Nho giáo còn khuyến khích mọi người nhất là các phần tử tri thức đi sâu vào cải tạo “tu tề trị bình” vào việc học hành, thi đỗ, dương danh thiên hạ. Vì vậy mà trong thực tế, Nho giáo đã làm cho những người gia nhập tầng lớp Nho sĩ này xa rời sinh hoạt kinh tế và lĩnh vực sản xuất xã hội, nó chỉ biết đề cao đạo tư thân và đạo tự nước chứ không hề đếm xỉa đến các tri thức vè khoa học tự nhiên cũng như về các ngành sản xuất và lưu thông. Tính chất tiêu cực ấy của Nho giáo càng về sau càng gây tác hại không nhỏ trong việc phát triển lực lượng sản xuất của xã hội. Khi đã chiếm được địa vị thống trị trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo Việt Nam không tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất của đời sống và của vũ trụ, vì mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ chú trọng đến những quan hệ chính trị và đạo đức thực tế. Cho nên khi xã hội phong kiến rối loạn, vấn đề số phận và yêu cầu giải phóng con người được đặt ra thì Nho giáo trở thành bất lực. Nó không giải đáp được vấn đề ấy vì nó đã sớm bỏ con đường phát triển tư duy trừu tượng. Hơn nữa, một khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của nó đặc biệt phát triển mạnh. Khi đó nó bắt đầu đè nặng lên con người và bóp nghẹt nếp sống giản dị, những quan hệ xã hội trong sáng, những tình cảm tự nhiên và chân thực của suy sụp cùng với xã hội phong kiến thì nó trở nên phản động, cổ hủ và lạc hậu. Tóm lại bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng đem lại không ít tác động tiêu cực mà cho đến nay nó vẫn còn là nhân tố kìm hãm sự phát triển văn hoá tại các vùng nông thôn Việt Nam. Kết luận Không ai chối cãi được rằng Nho giáo đã tham gia một phần vào sự đúc nặn cái diện mạo tinh thần dân tộc và vào sự hình thành văn hoá dân tộc. Có nghiên cứu về Nho gia chúng ta mới hiểu vì sao qua bao nhiêu nghìn năm lịch sử mà những tư tưởng của Khổng Tử vẫn còn ảnh hưởng cho đến ngày nay. Nho giáo ra đời vào thời kỳ quá độ từ chiếm hữu nô lệ lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương đông. Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung hoa thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm Dương, Ngũ hành tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng của người trung hoa thời cổ, đã có ảnh hưởng to lớn tới thế giới quan triết học sau này không những của người Trung hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền triết học Trung hoa, điển hình là Việt Nam. Tài liệu tham khảo 1. Luận ngữ - Thánh kinh của người Trung Hoa 2. Mạnh Tử 3. Nho học ở Việt Nam 4. Hồ Chí Minh toàn tập 5. Chống Đuyrinh - Enghen 6. Các nhân vật văn hoá vĩ đại Trung Quốc 7. Giáo trình triết học Mác - Lê Nin 8. Lịch sử triết học Mục lục Trang Lời mở đầu 1 Chương 1: Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo và một số nội dung chính của nó 2 1. Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo 2 1.1. Vài nét về tiểu sử của Khổng Tử 2 1.2. Sự ra đời của Nho giáo 2 2. Một số nội dung chính của Nho giáo 4 2.1. Tư tưởng Nho giáo là gì? 4 2.2. Thái độ của Nho giáo đối với cuộc sống 5 2.3. Quan niệm về đạo đức trong Nho giáo 6 Chương 2: Nội dung tư tưởng trị nước an dân của Khổng Tử 8 Chương 3: So sánh tư tưởng trị nước an dân của Nho gia và Pháp gia 12 Chương 4: ảnh hưởng của Nho gia tới đời sống văn hoá Việt Nam 14 1. Quá trình du nhập của Nho học vào Việt Nam 14 2. ảnh hưởng của Nho giáo trong tư tưởng Việt Nam 15 2.1. Những nhu cầu xã hội giúp cho Nho giáo chiếm được vị trí độc tôn trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam 15 2.2. ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo đối với xã hội Việt nam 17 KÕt luËn 20 Tµi liÖu tham kh¶o

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35026.doc