LỜI MỞ ĐẦU
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định “Phát triển
kinh tế hợp tác và hợp tác xã (HTX) là vấn đề hết sức quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội. Chuyển đổi HTX kiểu cũ theo luật HTX đạt hiệu quả thiết
thực, phát triển HTX kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để sản xuất
hoặc kinh doanh dịch vụ tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh phù
hợp với quá trình CNH – HĐH”.
Như vậy nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc rõ ràng đã làm sáng tỏ một điều
rằng: Nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ bao cấp hay đổi mới nói chung và nền
nông nghiệp Việt Nam nói riêng thì HTX vẫn là nền tảng của nền kinh tế bền vững
phát triển. Thực tế đã cho ta thấy rất rõ phong trào hợp tác hoá ở nước ta trải qua
nhiều bước thăng trầm. Tuy vậy, sau một thời gian hoạt động đặc biệt là giai đoạn
xây dựng đất nước thời bình mô hình HTX kiểu cũ đã ngày càng tỏ ra không phù
hợp với yêu cầu lịch sử phát triển kinh tế trong điêù kiện mới. Số HTX làm ăn có
hiệu quả chỉ còn chiếm tỷ lệ thấp, đa số không thích ứng được với nền kinh tế thị
trường sôi động, nhạy bén. Từ thực tế đó, vấn đề đặt ra là: làm thế nào để mô hình
kinh tế hợp tác, HTX thích ứng được với nền kinh tế thị trường, đem lại hiệu quả
cho những người trực tiếp tham gia HTX nói riêng và góp phần thúc đẩy cho nền
nông nghiệp Việt Nam phát triển nói chung đang trở thành một đề tài quan trọng,
cần thiết phải nghiên cứu, để tìm ra lời giải đáp thực sự sáng tạo và mang tính
thuyết phục nhất. Như vậy qua sự phân tích trên cho thấy: việc nghiên cứu mô hình
kinh tế hợp tác, HTX là nhiệm vụ của tất cả mọi người. Đặc biệt là đối với cán bộ
và sinh viên thuộc chuyên ngành nông nghiệp. Để phục vụ cho cho kết quả học tập
được tốt hơn, đồng thời để góp phần làm phong phú hơn cho quỹ những ý tưởng
đã được các cơ quan Nhà nước xem xét và thực hiện em xin trình bày một số ý kiến
của mình về việc phát triển kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp ở thời kỳ đổi
mới.
Vì đây là lần đầu tiên thực hiện nghiên cứu một đề tài nên không thể tránh được
những sai sót, em rất mong các thầy cô phê bình và góp ý cho em. Em xin chân
thành cám ơn T.S Vũ Thị Minh đã giúp em hoàn thành đề án này.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN MỘT : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ HỢP TÁC .2
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KINH TẾ HỢP TÁC: 2
1. Định nghĩa .2
2. Các loại hình kinh tế hợp tác. 2
2.1. Kinh tế hợp tác giản đơn. 3
2.2. Hợp tác xã .3
2.2.1. Định nghĩa .3
2.2.2.Vai trò của HTX 4
2.2.3. Những đặc trưng cơ bản của HTX kiểu mới ở Việt Nam .4
2.2.4 Các loại hình HTX. .8
II. KINH TẾ HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP .9
III. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA .10
1. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội . 11
2. Các nhân tố khác 11
PHẦN HAI: THỰC TRẠNG KINH TẾ HỢP TÁC XÃ TRONG NÔNG
NGHIỆP Ở NƯỚC TA 12
I. KINH TẾ HTX NÔNG NGHIỆP TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1954-1987) .12
II. KINH TẾ HTX SAU ĐỔI MỚI (1988-2003) 17
1. Kinh tế HTX nông nghiệp khi có Nghị quyết 10 Bộ Chính trị .17
2. Kinh tế HTX trong nông nghiệp từ khi có luật HTX (1997-2003) .21
2.1- Những thành tựu đạt được .21
2.2. Những hạn chế 27
PHẦN BA: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HTX NÔNG NGHIỆP .31
I/ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOÀN THIỆN CÁC HÌNH THỨC KINH TẾ HỢP
TÁC TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP 31
II/ NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HTX NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA 35
KẾT LUẬN 43
46 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 3079 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu về hợp tác xã, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m đủ nhu cầu tiêu dùng lương thực trong nứơc và
trở thành một trong ba nước đứng đầu thế giới về khối lượng lương thực xuất khẩu
.
Một số ngành khác cũng tạo được những bước phát triển đáng kể như ngành
chè, cà phê cao su dâu tằm hoa quả thuỷ sản chăn nuôi trồng rừng. Kim ngạch
nông sản tăng lên với tốc độ cao.
Cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp đã được tăng cường một bước chủ
yếu thông qua việc tự mua sắm của kinh tế nông hộ và kinh tế thị trường
Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ tthuật công nghệ mới vào sản xuất được
coi trọng và đã tạo đưộc bước phát triển cho việc tăng năng suất cây trồng vật nuôi
tăng hiệu quả sử dụng đất… Hiệu quả kinh tế được nâng lên rõ rệt
Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp đã có sự chuyển dịch theo xu hướng tiến
bộ. Từng bước khôi phục và hình thành các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông
thôn. Đặc biệt là sự hình thầnh sản xuất nông nghiệp hàng hoá tập trung hướng tới
mục tiêu phát triển nền nông nghiệp hàng hoá có hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Nhờ vậy đời sống kinh tế , vật chất tinh thần ở nông thôn từng bước được cải
thiện.
Từ việc nghiên cứu NQ 10Bộ chính trị và thực tiễn cho thấy một thực tế: Đó
là nhu càu bức xúc của nông dân hiện nay trong việc giải thể những HTX kiểu cũ
kém hiệu quả. Ngược lại những vùng có điều kiện thuận lợi thì người nông dân
vẫn có nhu cầu xây dựng những HTX nông nghiệp kiểu mới phù hợp .
2. Kinh tế HTX trong nông nghiệp từ khi có luật HTX (1997-2003)
2.1- Những thành tựu đạt được
Lịch sử loài người đã khẳng định; Hợp tác , giao lưu ,qua đó học hỏi kinh
nghiệm, trao đổi hàng hoá phân công lao động … là đòn bẩy thúc đẩy phát triển
kinh tế, xã hội của mọi dân tộc, mọi cộng đồng mọi cá thể. HTX nông nghiệp
không nầm ngoài quy luật này. Tuy nhiên sự hợp tác phải dựa vào tính tự nguyện
và boả đảm tính công bằng. Sự hưởng thụ phải tương xứng với mức đóng góp
công sức tiền của bỏ ra và lợi nhuận qua sự hợp tác phải cao hơn lợi nhuận do tự
thân làm ra. Phá vỡ quy luật này là phá vỡ hợp tác. Đầu những năm90 cuả thế kỷ
22
XX, vì nhiều lý do khác nhau, quy luật này không được thực hiện ở phần lớn các
HTX nông nghiệp trong cả nước. Ý thức được vấn đề này, sau đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đổi
mới hoạt động của các HTX hoạt động theo luật (Ban bí thư TW Đảng có chỉ thị
68 –1996 Quốc hội đã ban hành luật HTX chính phủ ban hành 10 Nghị định
hướng dẫn việc triển khai luật HTX )
Tính đến thời điểm 1996 cả nước có 13782 HTX nông nghiệp. Sau hơn ba
năm(1997-2000) thực hiện luật HTX các địa phương đã rà soát, phân loại, cho
phép giải thể 6222 HTX yếu kém, trên thực tế không tồn tại, số HTX thực sự
chuyển đổi là 7531 HTX. Tới tháng 6/2000 cả nước đã chuyển đổi được 5692
HTX chiếm 75% so với tổng số HTX hiện còn, trong đó có 58% HTX được cấp
giấy đăng ký kinh doanh. Đồng thời đã có 1319 HTX mới được thành lập. Những
công việc chính đã được làm trong quá trình chuyển đổi là: Kiểm kê đánh giá lại
tài sản của HTX cũ (Bình quân 1 HTX có 556 triệu đồng, 80%là TSCĐ ) bàn giao
cho chủ cụ thể, quản lý chuyển giao cho chính quyền địa phương quản lý những
tài sản, cơ sở vật chất dùng cho cả cộng đồng dân cư, làm rõ các khoản phải thu
(Bình quân 1 HTX là148 đồng ) nợ phải trả (Bình quân 1 HTX là 82,5 đồng ) xác
nhận và thu hồi được 20%- 30% công nợ trong HTX, phân bổ lại giá trị tài sản và
vốn quỹ được kế thừa từ HTX cũ thành vốn góp của xã viên trong HTX mới.
Làm rõ tiêu chuẩn xã viên và củng cố lại ban quản lý. Các HTX quy định
lại tiêu chuẩn xã viên (Là hộ hay lao động trong độ tuổi ).
Lập danh sách xã viên (ở miền bắc và miền trung, số xã viên HTX chiếm tỷ
lệ 80%- 100%)
+ Tổ chức bộ máy của HTX gọn nhẹ, ban quản trị 2-3 người, bộ máy giúp việc
4- 6 người, chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận được làm rõ hơn.
+ Định lại nội dung, phương pháp hoạt động của HTX, hướng chủ yếu vào
dịch vụ điện, nước, giống, phân bón, bảo vệ thực vật, tiêu thụ sản phẩm…. Phù
hợp với điều kiện vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và khả năng quản lý của cán bộ
HTX và các biện pháp nâng cao hiệu quả dịch vụ của HTX. Nhờ vậy tỷ lệ các HTX
kinh doanh ổn định có lãi ngày càng tăng, nhiều mô hình mới điển hình tiến tiến
23
xuất hiện. Từng bước khẳng định được vai trò vị trí của mình trong đời sống kinh
tế xã hội của đất nước. Năm 1998 tổng sản phẩm trong nước do khu vực kinh tế
HTX tạo ra đạt khoảng 32979 tỷ đồng (tăng 17% so với 1997). Năm 1993 ước tính
đạt 35100 tỷ (tăng 6,6% so với 1998) chiếm 9% GDP cả nước. Giá trị sản lượng
của các HTX tiểu thủ công nghiệp tăng 10,8%, xây dựng và sản xuất vật liệu xây
dựng là 14%.
Sau quá trình chuyển đổi hầu hết các HTX đã kế thừa, tiếp nhận, quản lý sử
dụng các công trình thuỷ lợi điện, nước, đường giao thông, vốn quỹ và kinh nghiệm
tổ chức các dịch vụ tích luỹ được từ nhiều năm qua. Một số nơi ở miền núi phía
Bắc khi xoá bỏ HTX mà không có hình thức tổ chức khác phù hợp thay thế, nên đã
xảy ra tình trạng cơ sở vật chất kỹ thuật không được quản lý chặt chẽ, bị thất thoát
hư hỏng, xuống cấp nặng nề, sản xuất gặp nhiều khó khăn. Nhiều HTX chuyển đổi
đã huy động vốn và công sức lao động của xã viên kết hợp với sự hỗ trợ của HTX
đã tu bổ nâng cấp và xây dựng một số cơ sở hạ tầng nông thôn, nhất là phong trào
kiên cố hoá kênh mương số HTX là dịch vụ thuỷ nông chiếm 95%, bảo vệ thực
vật 62%, khuyến nông 48%, cung ứng giống cây trồng 41%, cung ứng vật tư
36%,điện 52%, làm đất 15%, tiêu thụ sản phẩm 10%. Một số HTX còn tổ chức chế
biến nông sản và làm ngành nghề (HTX Đông Xuân ở Sóc Sơn – Hà Nội) nhiều
HTX ở miền Trung có vốn lớn đã cho xã viên vay lại để phát triển kinh tế gia đình.
Nhiều HTX đóng vai trò tích cực trong việc tìm tòi, hướng dẫn nông dân áp dụng
tiến bộ kỹ thuật, áp dùng giống mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ… Các
HTX cũng đã rà soát lại định mức thu chi của các dịch vụ phần lớn đã giảm giá
nhưng vẫn nâng cao chất lượng dịch vụ cho xã viên. Ở Thanh Hoá nhiều HTX đã
giảm 30% phí dịch vụ thuỷ nông, phí bảo vệ thực vật đã giảm từ 0,8kg thóc/sào
xuống còn 0,5kg/sào, ở nhiều nơi giá điện giảm từ 1000-1100đ/kwh xuống còn
550-700đ/ kwh.
Đa số các HTX mới thành lập, xã viên tham gia tự nguyện nên một số có
lượng vốn lớn ( ở An Giang 800000-830000đ trên cổ phần, Hưng Yên 200000-
30000đ trên cổ phần, có nơi tử 2-3 triệu đồng trên cổ phần. Nhiều HTX làm tốt các
dịch vụ cho xã viên, ở An giang 80% HTX làm dịch vụ 1-2 khâu: Tưới tiêu làm
24
đất, hoặc cung ứng vật tư đã làm giảm giá dịch vụ về nước 80-130 kg thóc/ha/vụ,
giảm giá cày xới 25kg –30kg/ ha. Nhiều HTX liên kết với doanh nghiệp nhà nước
tiêu thụ tốt sản phẩm do nông dân làm ra: Như HTX Bình Hoà Bắc ở Long An,
cac ở khu vực gần nông trươòng sông hậu (Cần Thơ) vùng Lam Sơn( Thanh Hoá).
Một số HTX ở Nam Bộ đã thu hút nông dân không có đất sản xuất vào làm dịch
vụ, tạo việc làm và thu nhập cho họ. Ở Miền Trung HTX điển hình nổi bật là HTX
Duy Sơn 2 (Quảng Nam) đây là HTX miền núi, quy mô thôn, ngoài việc làm tốt
các dịch vụ tưới tiêu , dịch vụ điện công suất 1200 Kw để cung cấp cho xã viên,
dịch vụ bảo vệ thực vật. Dịch vụ giống,dịch vụ vật tư… HTX còn mở rộng mối
quan hệ liên kết hợp tác với các ngành , các cấp, phát triển ngành nghề, như liên
kết với nhà máy làm đế giày xuất khẩu, doanh thu trên 8 tỷ đồng/năm liên kết may
với nhà may xuất khẩu, doanh thu trên 2 tỷ đồng, dệt xuất khẩu, xưởng mây tre đan
xuất khẩu doanh thu trên 2 tỷ đôàng. Sản phẩm của HTX được xuất khẩu đi nhiều
nước trên thế giới. Hàng năm tạo thêm việc làm cho gần 100 lao động với thu nhập
ổn định từ 300-500 ngìn đồng/tháng/lao động. Doanh thu HTX năm 2000 là trên
21,5 tỷđồng.
Ở miền núi phía Bắc nổi lên có HTX Phù Nam, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên
Bái, tại HTX này đã hoạt động dịch vụ sản xuất, cung ứng giống và vật tư qua
nhiều cửa hàng ở tất cả các tụ điểm dân cư, các bản làng. HTX còn tận dụng diện
tích, tổ chức trồng cây ăn quả. Sản xuất kinh doanh, khai thác cát, sỏi vôi, kinh
doanh vận tải và tiêu thụ ngô, lúa, sắn, chè,…. Nhờ vậy mà doanh thu hàng năm
của HTX đạt 4-5 tỷ đồng. Bên cạnh việc các HTX nông nghiệp tập trung phát triển
cho nội bộ của mình, các HTX nông nghiệp còn mở rộng liên doanh, liên kết hợp
tác kinh doanh với nhau và các loại hình kinh tế HTX khác tạo ra liên minh HTX.
Liên minh HTX có tác dụng vô cùng to lớn trong việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá,
dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm trên thi trường trong và ngoài nước.
Qua một số kết quả thông kê về kinh tế nông nghiệp nông thôn nói chung và
của HTX nông nghiệp nói riêng sau thời kỳ ban hành Luật HTX đến nay. Một số
nhà nghiên cứu kinh tế đã thóng kê dược những bảng số liệu sau:
25
Bảng 1: Tổng số HTX Nông nghiệp phân theo loại hình dịchvụ
Bảng 2. Tổng số HTX nông nghiệp mới thành lập phân theo loại hình dịch vụ
Làm đất Giống cây trồng Thuỷ nông
Vùng
Số lượng % Số lượng % Số lượng %
Cả nước 131 14,03 410 43,90 557 59,60
ĐBSH 11 17,74 24 38,71 56 90,32
Đông Bắc 6 4,65 56 43,41 66 51,16
Tây Bắc 1 3,45 11 37,93 3 10,34
Bắc T.Bộ 23 9,20 197 78,80 220 88,00
Làm đất Giống cây trồng Thuỷ nông
Vùng Tổng số Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng %
Cả nước 7171 1495 20,85 4259 59,39 6284 87,63
ĐBSH 3311 846 25,55 2022 61,07 3241 97,89
Đông Bắc 802 27 3,37 464 57,86 593 73,94
Tây bắc 242 10 4,13 101 41,74 96 39,67
Bắc Tung Bộ 1388 267 19,24 1073 77,31 1298 93,52
Duyên Hải
Miền Trung
697 200 28,69 378 54,23 654 93,88
Tây Nguyên 116 19 16,38 47 40,52 64 55,17
Đông Nam Bộ 191 55 28,80 82 42,93 112 63,87
ĐBSCL 424 77 16,75 92 21,70 216 50,94
Bảo vệ thực vật Tiêu thụ sản phẩm Cung ứng vật tư
Vùng
SL % SL % SL %
Cả nước 4323 60,28 538 7,50 3457 48,21
ĐBSH 2520 76,11 191 5,77 1291 38,99
Đông Bắc 359 44,76 89 1,10 530 66,08
Tây Bắc 69 28 51 9 3,72 95 39,26
Bắc Trung Bộ 11 4 80,26 83 5,98 865 62,32
Duyên Hải Miền
Trung
168 24,10 64 9,18 275 39,45
Tây Nguyên 38 32,76 29 25 84 72,41
Đông Nam Bộ 32 16,75 39 20,42 111 58,12
ĐBSCL 23 5,42 34 8,02 206 48,58
26
DH Miền Trung 3 37,50 7 87,50
Tây Nguyên 7 25,00 13 46,43 4 14,29
Đông Nam Bộ 18 40,00 20 44,00 13 28,89
ĐBSCL 65 16,97 86 22,45 188 49,09
Bảo vệ thực vật Tiêu thụ sản phẩm Cung ứng
Vùng
Số lượng % Số lượng % Số lượng %
ĐBSH 307 32,87 135 14,46 478 51,18
Đông Bắc 36 27,91 29 22,48 63 48,84
Tây Bắc 5 17,24 9 81,03
Bắc T.Bộ 191 76,4 31 12,40 158 63,20
DH Miền Trung 1 12,50 3 37,5
Tây Nguyên 7 25,00 14 50,00 21 75,00
Đông Nam Bộ 12 26,67 21 46,67 31 68,89
ĐBSCL 21 5,48 31 8,09 179 46,74
Bảng 3. tổng số HTX nông nghiệp chuyển đổi phân theo loại hình dịch vụ
Làm đất Giống cây trồng Thuỷ nông
Vùng
Số lượng % Số lượng % Số lượng %
Cả nước 1364 21,87 3849 61,71 5727 91,82
ĐBSH 835 25,70 1998 61,50 3185 98,03
Đông Bắc 21 3,12 408 60,62 527 78,31
Tây Bắc 9 4,23 90 42,25 93 43,66
Bắc T.Bộ 244 21,44 876 76,98 1078 94,73
DH Miền Trung 200 29,03 375 54,43 647 93,90
27
Tây Nguyên 12 13,64 34 37,64 60 68,18
Đông Nam Bộ 37 25,34 62 42,47 109 74,66
ĐBSCL 6 14,63 6 14,63 28 68,29
(Trích từ: Niên giám thống kê)
2.2. Những hạn chế
Qua những bảng số liệu trên ta thấy từ khi có Luật HTX thì số lượng HTX
chuyển đổi và mới thành lập phân theo loại hình dịch vụ khá đa dạng và phong phú
nhưng bên cạnh đó còn tồn tại khá nhiều những hạn chế trong quá trình thực hiện
luật HTX:
Nhìn chung, hiện nay chúng ta vẫn còn lẫn lộn chưa rõ ràng về khái niệm
HTX. Nhiều người vẫn cho rằng HTX có chức năng như doanh nghiệp và mang
tính chất kinh doanh. Nhiều nơi còn coi việc xã viên đóng góp cổ phần và phân
chia lợi nhuận theo cổ phần như doanh nghiệp, đó là một sự tiến bộ mới nhưng điều
đó đã làm cho nhiều tư nhân đội lốt danh nghĩa HTX để kinh doanh trốn thuế Nhà
nước. Bản chất HTX không mang tính chất kinh doanh và phi lợi nhuận, HTX chỉ
Bảo vệ thực vật Tiêu thụ sản phẩm Cung ứng vật tư
Vùng
Số lượng % Số lượng % Số lượng %
Cả nước 4016 64,39 103 6,46 2979 47,76
ĐBSH 2486 76,52 182 5,60 1277 39,30
Đông Bắc 323 47,99 60 8,92 476 69,39
Tây Bắc 64 30,05 9 4,23 86 40,38
Bắc T. Bộ 923 81,11 52 5,57 747 62,13
DH Miền Trung 167 24,24 64 9,29 273 39,48
Tây Nguyên 31 35,25 15 17,05 63 71,59
Đông Nam Bộ 20 13,70 18 12,33 88 54,79
ĐBSCL 2 4,88 3 7,32 27 65,85
28
giúp các xã viên kinh doanh và theo nguyên tắc một người một phiếu. Mặc dù
chúng ta có nhiều chính sách về phát triển HTX nhưng nhìn chung phong trào HTX
vẫn chưa có sự phát triển thực sự. Nguyên nhân chủ yếu là:
- Các thể chế về HTX chưa sát thực tế. Luật HTX cũng như các quy định về
tài chính, kiểm tra thuế, về vốn, đất đai không thực sự sát thực với tình hình nông
dân quy mô nhỏ sản xuất nông nghiệp. Các quy định này hầu như chỉ phù hợp cho
tầng lớp nông dân khá giả ở nông thôn, trong khi tầng lớp này lại không có nhu cầu
thành lập HTX như tầng lớp trung bình và nghèo.
- Các ban ngành TW và địa phương chưa thực sự có các chính sách cụ thể,
các chương trình lớn cấp Nhà nước để dầu tư phát triển HTX như kiểu chương tình
giống, chương trình 135.
- Nhận thức về HTX và phát triển HTX nông nghiệp của các địa phương rất
hạn chế, đâu đó chúng ta vẫn còn mô hình HTX của tỉnh uỷ, UBND tỉnh… Nhà
nước chỉ đạo thành lập HTX mang nặng tính chỉ đạo từ trên xuống và hành chính.
Nhiều nơi chưa nhận thức được vai trò của HTX hiện nay là tập hợp hoọ gia đình
nông dân, giúp đỡ kinh tế hộ phát triển. Khi đánh giá sự phát triển của HTX, chưa
nới nào dùng chỉ tiêu đánh giá lợi ích mà các hộ gia đình nông dân được hưởng khi
tham gia HTX, hiện nay chúng ta đánh giá lãi của HTX là chính, do vậy vai trò của
HTX với kinh tế nông hộ không được coi trọng.
- HTX còn lúng túng trong điều hành, chỉ đạo sản xuất, tổ chức làm dịch vụ.
Có HTX chỉ thực hiện được 1- 2 khâu dịch vụ, tỉ lệ lãi còn thấp, một số HTX chưa
tính đúng khấu hao TSCĐ theo quy định của Nhà nước, chưa đưa công quản lý vào
đơn giá… vai trò của HTX trong điều hành vụ , tham gia dồn ô, đổi thửa, từ ô thửa
nhỏ thành ô thửa lớn. điều hành sản xuất khuyến nông ở một số nơi còn lu mờ.
- Đội ngũ cán bộ tại các địa phương hạn chế năng lực về các kiến thức HTX
cũng như thành lập HTX trong bối cảnh mới, kinh tế thị trường và sản xuất theo
hướng chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá.
- Thiếu các lớp đào tạo nông dân về thành lập HTX: chúng ta vẫn chỉ coi
trọng việc đào tạo các cán bộ HTX trong cơ cấu lãnh đạo dịa phương mà không cho
rằng việc đào tạo nông dân tự thành lập các HTX có thể tổ chức cho mọi nông dân
29
có nhu cầu. 76,1% tổng số cán bộ HTX và 91,8% cán bộ ban kiểm soát chưa được
quan tâm đào tạo. Vẫn còn tính trạng vi phạm hoặc chưa thực hiện đúng luật HTX
như: dùng dấu cũ, chưa chia lãi theo tỷ lệ.
- Không có kinh phí nghiên cứu về HTX nông nghiệp trong nhiều năm qua
cả Bộ nông nghiệp- phát triển nông thôn và Bộ KHCN đều có rất ít kinh phí nghiên
cứu về lí luận cũng như xây dựng HTX. Kinh phí chưa chủ yếu tập trung vào các
chương trình công nghệ nhưng chúng ta ít có kinh phí về thể chế nông thôn để đón
nhận công nghệ mới. Còn nhiều HTX vẫn gặp khó khăn về vốn, số vốn còn lại thực
chất là số nợ phải thu, tổng số nợ HTX có chiều hướng tăng. Bên cạnh đó HTX có
hàng trăm triệu đồng tiền vốn nhưng chưa có phương án sử dụng hiệu quả nên phải
gửi ngân hàng.
Thực trạng đã cho thấy rõ một điều rằng:
- HTX chậm tham gia vào tiến trình phát triển. Nguyên nhân có nhiều mà xét
về góc độ triết lý chủ yếu là sự tác động đồng thời của 3 loại triết lý “trọng nông”
của nền kinh tế tiểu nông chậm phát triển triết lý “đóng cửa” hướng nội của mô
hình CNH cổ điển và triết lý “bình quân”, bảo đảm xã hội của mô hình kế hoạch
hoá tập trung trong một thời kỳ dài trước đây. Mặc dù nền kinh tế nước ta đang
chuyển theo mô hình phát triển hiện đại phù hớp voí cơ chế thị trường, song tiến
trình này vẫn bị trì trệ bởi 3 loại quan điểm mang tính triết lý nêu trên hiện đang chi
phối trong các chính sách và giải pháp cụ thể. Nhiều HTX và mô hình HTX nông
nghiệp hoạt động và mang tính chất áp đặt, khi thị trường và chưa thực sự bình
đẳng so với các doanh nghiệp Nhà nước.
- Trong hệ thống HTX nhất là HTX nông nghiệp tuy đã tham gia vào tiến
trình phát triển nhưng sự phát triển lại diễn ra chậm chạp về khách quan và do kinh
tế thị trường Việt Nam còn sơ khai, yếu kém có tính hệ thống. Quan hệ tiền hàng
chưa phát triển, hoạt động tài chính và ngân hàng chưa đủ sức vận hành nền kinh
tế, thể chế chưa hoàn toàn phù hợp với thể chế chung của tiến trình kinh tế hiện đại
thế giới, hệ thống doanh nghiệp còn non yếu sự quản lý của Nhà nước còn nặng
theo quan điểm và triết lý của mô hình kế hoạch hoá tập trung. Bản thân kinh tế
nông nghiệp vẫn còn là kinh tế tiểu nông chậm phát triển. Và chủ quan do năng lực
30
nội tại của HTX nông nghiệp còn quá yếu, tư tưởng của xã viên còn mang nặng
tính bao cấp, chưa rhực sự hiểu biết về hội nhập và phát triển.
- Luật HTX đã bộc lộ nhiều nhược điểm cần sửa đổi, bổ sung cho phù hớp
với tình hình mới. Hệ thống chính sách thuế, tài chính, tín dụng, vay vốn… của
Nhà nước đối với HTX còn bất cập và chưa đồng bộ. HTX hiện nay vẫn chưa được
vay vốn của ngân hàng. Nhiều nguồn đầu tư, dự án lớn chưa được giành cho kinh tế
HTX, HTX chưa có tư cách pháp nhân, xã viên chưa được hưởng chế bộ BHXH.
- Trình độ KHCN áp dụng vào sản xuất ở các HTX còn thấp so với các nước
trong khu vực, chưa thực sự thực hiện tốt quan hệ bốn nhà: nhà nông, nhà khoa
học, doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước trong việc gắn sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm.
Tóm lại, sau 50 năm xây dựng đổi mới, phát triển mô hình kinh tế HTX nói
chung và HTX nông nghiệp nói riêng đã trải qua nhiều bước thăng trầm nhưng nó
đã đóng một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân cả trtong thời chiến và
thời bình. Đó là nền tảng và cơ sở để phát triển thể chế CNXH ở nước ta. Trong
thời gian tới phát triển HTX nông nghiệp vẫn là phương châm tích cực là chiến
lược của Đảng và Nhà nước để tiến tới một mục tiêu lớn của năm 2020 trở thành
một nước công nghiệp.
31
PHẦN BA
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HTX NÔNG NGHIỆP
I/ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOÀN THIỆN CÁC HÌNH THỨC KINH TẾ HỢP
TÁC TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP.
Kinh tế HTX đã và đang là một trong những thành phần kinh tế chủ yếu của
nền kinh tế quốc dân. Một lần nữa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định
vai trò và ý nghĩa to lớn của lĩnh vực kinh tế HTX, quyết tâm tiếp tục khuyến khích
phát triển mô hình kinh tế HTX trong một nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN “kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng trong đó
HTX là nòng cốt. Các HTX dựa trên sở hữu các thành viên và sở hữu tập thể, liên
kết rộng rãi những người lao động các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp
nhỏ và vừa không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Phát triển HTX kinh doanh
tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành”.
Căn cứ vào mục tiêu của Đảng và Nhà nước đã đề ra mà đặc biệt là mục tiêu
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn để phát triển hoàn thiện kinh tế hợp tác trong
nông nghiệp nước ta giai đoạn hiện nay (2001- 2010) thì chúng ta cần hiểu rõ và
nên thực hiện tốt một số định hướng sau:
Một là, phát triển kinh tế hợp tác gắn với mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn trong điều kiện hội nhập quốc tế hoá đoì sống kinh tế thì phải không
ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả
kinh tế HTX để kinh tế HTX đủ sức cạnh tranh tỏng quá trình hội nhập kinh tế
32
quốc tế. Cụ thể là xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá phát triển bền vững dựa trên
cơ sở phát huy các lợi thế so sánh, phù hợp với nhu cầu của thị trường và điều kiện
sinh thái của từng vùng. áp dụng nhanh thành tựu KHCN vào sản xuất nông
nghiệp, đạt mức trung bình, tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ và về giá
trị gia tăng trên một đơn vị diện tích. Tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng
và sức cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và
ngoài nước, tăng thị phần của các nông sản chủ yếu trên thị trường thế giới. Nông
thôn có kết cấu kinh tế hợp lý, nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ cùng phát triển,
từng bước hình thành liên kết chặt chẽ có hiệu quả giữa nông nghiệp- công nghiệp-
dịch vụ trên từng địa bàn và trong cả nước, thực hiện đô thị hoá, bảo đảm đủ việc
làm không còn đói nghèo, xã hội nông thôn văn minh dân chủ và công bằng, đời
sống dân cư được nâng cao rõ rệt. Giai đoạn 2001- 2010 phấn đấu đạt các chỉ tiêu
cụ thể: năm 2010 tổng sản phẩm trong nước đạt gấp đôi 2000 trong đó giá trị sản
lượng nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng bình quân hàng năm khoảng 4,5%.
Duy trì khoảng 4 triệu ha đất để trồng lúa. Phấn đấu đạt nhịp độ tăng tổng sản phẩm
trong nước 7%/năm. Trong đó tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng 16- 17%.
Tỷ tọng ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên 30%.
Thuỷ sản đạt sản lượng 2,5- 3 triệu tấn. Bảo vệ tốt 10 triệu ha rừng tự nhiên, hoàn
thành trồng 5 triệu ha rừng kim ngạch xuất khẩu nông lâm, thuỷ sản đạt khoảng 8-
9 tỷ USD trong đó thuỷ sản khoảng 3 tỷ USD. Với những yêu cầu nói trên đòi hỏi
kinh tế nông hộ và trang trại sản xuất hàng hoá phải được khuyến khích phát triển
mạnh mẽ: kinh tế hợp tác, HTX cần được phát triển để nhân thêm sức mạnh của
kinh tế hộ, kinh tế trang trại. Kinh tế Nhà nước hướng dẫn, hỗ trợ kinh tế hộ, trang
trại, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Hai là, kinh tế hợp tác với nhiều hình htức hợp tác mà nòng cốt là HTX dựa
trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao
động, các hộ sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành
phần kinh tế không giới hạn về quy mô, về địa bàn, về phân phối theo lao động,
theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu
trách nhiệm. Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả người ít vốn và nhiều vốn,
33
cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện bình đẳng,
cùng có lợi và quản lý dân chủ. Đồng thời phát triển kinh tế HTX phải theo định
hướng XHCN dưới sự quản lý của Nhà nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vận động theo yêu cầu và các quy
luật khách quna vốn có của nó. Một mặt kinh tế thị trường tạo điều kiện phát huy
mọi nguồn lực, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế mặt khác kinh tế thị trường còn
mặt trái của nó như tạo nên sự phân hoá giàu nghèo, những hiện tượng như trốn lậu
thuế, làm hàng giả, cạnh tranh phi kinh tế… bởi vậy mục tiêu định hướng XHCN
nền kinh tế thị trường đặt ra những yêu cầu đối với mọi vấn đề như cơ chế, chính
sách, luật pháp. lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện các quá trình kinh tế xã hội, các
thành phần kinh tế nói chung, trong đó có khu vực kinh tế nông thôn và kinh tế hợp
tác. Cho nên phát triển và hoàn thiện các hình thức kinh tế hợp tác cần phải đặt
trong yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
để khắc phục tư tưởng ỷ lại, chờ đợi cho rằng vào HTX để được sự trợ giúp, được
bao cấp… đồng thời cân fthấy rõ vai trò, trách nhiệm giúp đỡ của Nhà nước đối với
kinh tế hợp tác, trước hết đối với đối tượng đồng đảo nông hộ nghèo có nhu cầu
hợp tác, cũng như các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với các
thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế hợp tác, HTX. Những việc làm nói trên
nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho kinh tế hợp tác, HTX phát triển với tư cách là một
bộ phận không tách rời của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần thoe đúng chủ trương,
đường lối của Đảng.
Ba là, kinh tế hợp tác và HTX lấy lợi ích kinh tế làm chính bao gồm lợi ích
kinh tế của các thành viên và lợi ích tập thể. đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của
thành viên, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên,
phát triển cộng đồng. Đánh giá hiệu quả kinh tế hợp tác và HTX phải trên cơ sở
quan điểm toàn diện cả về kinh tế- chính trị- xã hội cả hiệu quả tập thể và của các
thành viên. Phải tôn trọng các mục tiêu nguyên tắc của quá trình hợp tác theo đúng
luật HTX năm 1996.
Bốn là, trong quá trình phát triển kinh tế hợp tác và HTX nông nghiệp cần
pahỉ đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho khu vực kinh tế này. Vấn đề
34
có tầm chiến lược hàng đầu là đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế hợp tác và
HTX có chất lượng, có tinh thần cộng đồng cao, biết tin vào người lao động trong
HTX, biết tiếp thu ý kiến và nguyện vọng sâu sa nhất của họ. Người quản lý pahỉ
luôn quan tâm và biết chuyển giao kỹ thuật cồng nghệ sản xuất, kinh doanh để cho
người lao động biết vận động và thuyết phục quần chúng xã viên áp dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới nhất.
Năm là, tăng cướng sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, nâng cao vai trò quản
lý của Nhà nước trong việc tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế
hợp tác và HTX nông nghiệp Nhà nước ban hành các chính sách trợ giúp kinh tế
tập thể trong quá tình xây dựng và phát triển, thông qua việc giúp đỡ và đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, ứng dụng KHCN, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây
dựng các quỹ hỗ trợ và phát triển, giải quyết nợ tồn đọng trước đây. khuyến khích
việc tích luỹ và sự dụng có hiệu quả vốn tập thể trong HTX. Phát huy vai trò liên
minh HTX Việt Nam của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc
tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia kinh tế tập thể, thực hiện tốt quy chế
dân chủ cơ sở, bảo đảm công tác kiểm tra, kiểm soát của các thành viên, ngăn ngừa
tham nhũng, quan liêu.
Sáu là, phát triển kinh tế heo phương châm tích cực nhưng vững chắc. xuất
phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ bậc thấp đến cao, đạt hiệu quả tích cự, vì sự phát
triển của sản xuất, tránh duy ý trí, nóng vội gò ép, áp đặt, đồng thời không buông
lỏng lãnh đạo để mặc cho tình hình phát triển tự phát, chậm nắm bắt và đáp ứng
nhu cầu về phát triển kinh tế hợp tác của nhân dân.
Bảy là, cùng với sự phát triển hoàn thiện kinh tế hợp tác, HTX trong lĩnh vực
nông nghiệp cần coi trọng phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn:
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, dịch vụ…
Tám là, phát triển các mối quan hệ liên kết, hợp tác các vùng, địa phương,
toàn quốc quan hệ với các nước trong khu vực và quan hệ quốc tế thông qua hệ
thống tổ chức liên minh HTX Việt Nam và tổ chức liên minh HTX quốc tế nhằm
nâng cao nhận thức về kinh tế hợp tác học hỏi kinh nghiệm, tăng cường quan hệ hỗ
35
trợ giúp đỡ, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác và bảo vệ quyền lợi của người
lao động để áp dụng vào Việt Nam.
II/ NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HTX NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA
Sau khi có luật HTX 2003 ra đời thì chúng ta đều thấy con đường để phát
triển mô hình kinh tế hợp tác, HTX nông nghiệp đã cso phần thông thoáng hơn và
đã tiếp cận được với nền kinh tế thị trường một cách trực tiếp. Nhưng qua phân tích
thực trạng của các HTX nông nghiệp ở nước ta đã cho thấy thực tế còn nhiều bất
cập. Hơn nữa, qua những phương hướng đã đề ra, để thực hiện được những phương
hướng ấy thì chúng ta cần phải quán triệt tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần đẩy mạnh quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hoá,
CNH HĐH nông nghiệp nông thôn tạo điều kiện phát triển kinh tế nông hộ và trang
trại sản xuất hàng hoá.
Kinh nghiệm thực tế của một số nước trên thế giới đã cho thấy: trình độ phát
triển nền nông nghiệp hàng hoá là tiền đề vật chất cho sự ra đời của các tổ chức
HTX, trước hết ở khâu chế biến, bảo quản và tiêu thụ nông sản, rồi đến cung ứng
vật tư, tiếp thu KHCN… đến lượt mình sự phát triển có hiệu quả các hình thức kinh
tế hợp tác sẽ tạo điều kiện thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hoá phát triển. Như vậy,
các giải pháp phát triển kinh tế hợp tác không thể tách rời giải pháp phát triển nền
nông nghiệp hàng hoá, bởi vì phát triển kinh tế nông hộ, trang trại gia đình vừa là
mục tiêu, vừa là giải pháp để thúc đẩy sự ra đời và phát triển của HTX kiểu mới
trong nông nghiệp.
Thứ hai, mặc dù lợi nhuận không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện để
HTX tồn tại, phát triển và từ đó mới có thể hỗ trợ được thành viên trong các hoạt
động kinh tế riêng của họ lâu dài, bền vững và ngày một tốt hơn nên việc đảm bảo
lợi nhuận cho HTX nông nghiệp là mục tiêu hàng đầu trong quá tình hoạt động sản
xuất kinh doanh. Muốn đảm bảo và tăng nguồn lợi nhuận thì HTX ngoài việc thu
lợi nhuận từ cung ứng dịch vụ với giá rẻ hơn thị trường cho các hộ xã viên thì HTX
phải tích cự tổ chức các công tác nghiên cứu thị trường để tìm đầu ra cho các sản
phẩm nông nghiệp sản xuất được từ đó vừa đáp ứng được nhu cầu thị trường vừa
tăng được nguồn vốn của HTX.
36
Nhưng trước hết ta phải phân tích kỹ vấn đề lợi nhuận trong HTX nông
nghiệp.
Có ý kiến cho rằng HTX kiểu mới ra đời trước tiên là vì nhu cầu và mục tiêu
phát triển kinh tế của mỗi hộ nông dân, chứ không phải để thay thế kinh tế hộ, đồng
thời nó không coi lợi nhuận là mục tiêu tối thượng, mà sự phát triển và hiệu quả
của kinh tế nông hộ mới là mục tiêu chính. Nhưng cũng vó không ít ý kiến quan
điểm của các nhà khoa học các nhà quản lý và ngay cả của rất nhiều cán bộ HTX
nông nghiệp đã cho rằng, mục tiêu của HTX nông nghiệp là lợi nhuận, vì nếu
không vì lợi nhuận, không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của HTX thì hợp tác
để làm gì? bình thường nếu không có HTX thì mọi hoạt động dịch vụ giữa nông
dân và những người cung cấp dịch vụ diễn ra theo quan hệ trực tiếp, tay đôi. Chính
quan hệ trao đổi trực tiếp như vậy đã làm cho thị trường dịch vụ ở đây trở thành thị
trường của người bán. Lợi thế thuộc về người bán. hộ nông dân với tư cách là
người mua dịch vụ sẽ bị chèn ép về giá cả và chất lượng. Việc hộ nông dân tự mình
đảm bảo các hoạt động dịch vụ cho sản xuất trong cơ chế thị trường như vậy đã
không mang lại hiệu quả. Để chống lại sự chèn ép của nhưũng người cung cấp dịch
vụ và nâng ao chất lượng của hoạt động dịch vụ các hộ gia định bắt buộc phải liên
kết với nhau cùng làm dịch vụ thay vì từng gia đình tự làm trước đây. Hình thành
nên HTX, khi đó HTX sẽ trở thành một hộ nông dân lớn, một hộ nông dân chung
đứng ra làm dịch vụ cho mọi nhà. HTX như vậy chính là HTX của những hộ nông
dân nó khác với HTX dịch vụ của những người kinh doanh dịch vụ. Rõ ràng với
vai trò một HTX nông nghiệp dịch vụ mục tiêu của HTX không phải là lợi nhuận
mà là hỗ trợ cho kinh tế gia đình. Nếu nói mục tiêu của HTX là lợi nhuận thì đó là
lưọi nhuận của các hộ gia đình xã viên, chứ không phải lưọi nhuận chung được tạo
ra bởi HTX.
Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của chính mình, HTX cũng cần phải
có nguồn lựu tài chính. Do vậy HTX cũng cần tìm kiếm lợi nhuận, dù chỉ chút ít.
Nhưng vì HTX là tổ chức kinh tế của chính những hộ nông dân lập ra, nên HTX
không thể kiếm lời bằng cách kinh doanh đối với các hộ xã viên “kinh doanh trên
lưng mình” để có lợi nhuận HTX phải tìm cách mua dịch vụ với giá rẻ để rồi bán
37
lại cho hộ xã viên với giá cao hơn, nhưng không được cao hơn giá thị trường tự do,
hoặc giá dịch vụ mà từng hộ nông dân tự mình mua trong trường hợp không HTX.
Điều gì sẽ xảy ra nếu HTX nông nghiệp coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu?
Khi đó HTX nông nghiệp không những sẽ tìm cách cạnh tranh dịch vụ đối với các
tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ trên thị trường mà còn kinh doanh đối với hộ
xã viên. Và như vậy hộ nông dân đã tự mình “đẻ ra” tổ chức kinh tế để rồi chính tổ
chức đó quay lai bóc lột mình. Họ đã biến HTX thành một tổ chức tín dụng chứ
không còn là HTX nông nghiệp làm dịch vụ tín dụng cho hộ xã viên nữa. Sâu thêm
nữa khi HTX nông nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận đương nhiên nguồn tài chính (đặc
biệt là các quỹ không chia) của HTX sẽ có điều kiện được tăng cường Sự gia tăng
nguồn tài chính đó nhìn bề ngoài là kết quả của hoạt động kinh doanh dịch vụ, điều
đó sẽ làm cho những người nắm giữ kinh tế HTX lầm tưởng rằng kết quả đó cso
được là do công sức lao động của xã viên của chính mình. Đây chính là những
nguy cơ tiềm ẩn cho những bất công trong phân phối cho tham ô công quỹ và là
động lực thúc đẩy ban quản trị HTX kinh doanh dịch vụ kiếm lời từ các hộ xã viên
của mình ngày càng nhiều hơn. Ngược lại, nếu không coi lợi nhuận là một yếu tố
quan trọng của kinh tế tập thể thì rất dễ dẫn đến sự thờ ơ của xã viên đối với HTX,
vì họ cho rằng vào HTX làm gì khi không có lợi nhuận? Hoặc là sự ỷ lại của xã
viên HTX, vì họ lại cho rằng HTX phải có trách nhiệm hỗ trợ bao cấp cho họ. đây
là một mối quan hệ cực kỳ phức tạp và không có quan đúng về lợ nhuận của HTX
nông nghiệp. Chính vì vậy, việc tìm kiếm lợi nhuận để phát triển kinh tế tập thể,
trên cơ sở kinh tế tập thể phát triển mà hỗ trợ nhiều hơn tốt hơn cho kinh tế hộ gia
đình xã viên là một quá trình vận động liên tục, không ngừng song song với nhau.
Chính vì quan niệm như vậy, nên mặc dù không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng
đầu, song những quy định về phân phối lãi vẫn là yếu tố quan trọng của kinh tế
HTX nông nghiệp.
Muốn có lợi nhuận thì con đường cơ bản là HTX phải mở rộng các hình thức
hoạt động dịch vụ (bao gồm dịch vụ sản xuất, đời sống, dịch vụ nông nghiệp và phi
nông nghiệp) đặc biệt là phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh tập trung mà
cụ thể hơn nữa là các HTX nông nghiệp nên đi vào chuyên môn hoá để phát triển
38
các HTX chuyên ngành nhằm phát huy lợi thế so sánh của địa phương nơi đã thành
lập HTX nông nghiệp. Con đường phát triển này có vẻ như dễ dàng song đó là cả
một thử thách lớn để nhằm phát triển đổi mới HTX vì nếu thành công htì không
những đem lai nguồn lưọi nhuận tương đối lớn cho các HTX nông nghiệp mà còn
tạo công ăn việc làm cho từng xã viên. Quá trình hội nhập đang diễn ra trên thị
trường quốc tế và cả thị trường trong nước, sản xuất nông nghiệp đang đứng trước
thử thách về giảm giá thành, chất lượng phù hợp với thị trường và ổn định… chính
những yêu cầu này đòi hỏi sự liên kết nông dân theo cùng ngành nghề cùng lĩnh
vực sản xuất để hợp tác nhằm trả lời các đòi hỏi của thị trường.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, tổng kết rút kinh nghiệm,
nhân rộng các mô hình kinh tế hợp tác có hiệu quả nhằm:
Giúp cho mọi người nắm được sự cần thiết khách quan để phát triển các hình
thức kinh tế hợp tác trong quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hoá. Mối quan
hệ biện chứng giữa trình độ phát triển sản xuất hàng hoá nông nghiệp với quá trình
hình thành, phát triển kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp, những bài học kinh
nghiệm của các nước trên thế giới về kinh tế hợp tác HTX trong nông nghiệp. Việc
tuyên truyền phổ biến về luật HTX và các văn bản hướng dẫn của Nhà nước giúp
mọi người phân biệt đưọc sự khác nhau cơ bản giữa hai mô hình HTX kiểu cũ và
HTX kiểu mới. Mục đích yêu cầu, tác dụng và các bước tiến hành cần thiết của quá
tình chuyển đổi xây dựng HTX kiểu mới. Đồng thời góp phần nâng cao ý thức
trách nhiệm của cán bộ trong việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, Nhà
nước đối với kinh tế hợp tác, HTX. Tránh lặp lại những sai lầm cũ như: chuyển đổi
hình thức, chạy theo phong trào “HTX cả làng”…ngược lại, không thể vì nhưũng
sai lầm trong quá trình hợp tác hoá trước đây mà kì thị với hình thức kinh tế HTX.
Tiếp tục thực hiện chủ trương chuyển đổi, xây dựng HTX kiểu mới theo
đúng luật HTX. Đồng thời phải coi trọng việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và
nhân rộng mô hình có hiệu quả… công việc này trước hết phải do cơ sở, địa
phương thực hiện, kết hợp với sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng và cơ sở
nghiên cứu. Cùng với việc làm trên , cần chú ý tổ chức cho đại diện cán bộ HTX ,
39
nông dân vùng sâu, vùng xa đi tham quan thực tế các mô hoạt động có hiệu quả ở
các địa phương khác học tập rút kinh nghiệm.
Thứ tư, xây dựng và lựa chọn các mô hình kinh tế hợp tác, HTX phù hợp với
từng lĩnh vực hoạt động, từng địa phương. Việc làm này có tác dụng phát huy hiệu
quả thực sự của các hình thức kinh tế hợp tác đối với sự phát triển của sản xuất
nông nghiệp, CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Khuyến khích hình thức tổ, hội
nghề nghiệp, các tổ nhóm hợp tác ví dụ như ở những vùng sản xuất cây công
nghiệp, hàng hoá tập trung trồng chè, hoặc cà phê, mía, cây ăn quả, cây dược liệu,
gỗ nguyên liệu… những tổ kinh tế hợp tác hoạt động tốt có hiệu quả thực sự cần
hướng dẫn tạo điều kiện để hình thành HTX kiểu mới. Tuy nhiên hoàn toàn không
được gò ép chuyển thành HTX khi hình thúc tổ kinh tế hợp tác không còn phù hợp
voí yếu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Đối với loại hình HTX nhất thiết phải phát
triển và mở rộng mô hình HTX chuyên ngành ví dụ đối với những vùng trung du áp
dụng những mô hình này ở những nơi trồng chè cà phê, trồng rừng làm nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến và các yêu cầu khác… bên cạnh việc phát triển HTX
chuyên ngành nên phát triển HTX dịch vụ đa chức năng kết hợp với sản xuất mở
mang ngành nghề phù hợp với cả trong lĩnh vực nông nghiệp và một số ngành nghề
khác trên địa bàn thị trấn, thành phố nói chung.
Thứ năm, liên quan đến mức góp vốn của các thành viên, xã viên HTX.
Theo nghiên cứu và kinh nghiệm thực tế ở nhiều nước về mô hình kinh tế HTX thì
cần hạn chế các thành viên HTX góp vốn quá lớn nhằm tránh cho HTX hoặc bị lợi
dụng là cái vỏ pháp nhân HTX cho một vài cá nhân hoặc HTX sẽ bị lệ thuộc vào
một số ít người. Như vây mặc dù có tính chất dân chủ, bình đẳng, không phụ thuộc
vào số vốn góp nhưng thực tế lại bị lệ thuôc vào số vốn của một số người HTX sẽ
dễ bị họ gây sức ép chạy theo mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận tối đa bằng cách các
hoạt động kinh doanh với đối tượng ngoài thành viên và tìm cách chia cổ tức với tỷ
lệ lớn nhất dẫn đến mâu thuẫn quyền lợi. Trong điều kiện hiện nay cần đảm bảo
cho các thành viên góp vốn lớn không bị thua thiệt nhưng vẫn phải đảm bảo lưọi
ích tập thể.
40
Thứ sáu, tăng cường mối liên kết hợp tác giữa HTX với các thành phần kinh
tế hợp tác trước hết là kinh tế Nhà nước.
Trong điều kiện hiện nay, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng có
tính quyết định đến sự phát triển của toàn ngành nông nghiệp. Sự tác động đó chủ
yếu thông qua các hệ thống thuỷ nông giao thông cung cấp điện, cung cấp tín dụng,
khuyến nông, khuyến lâm bảo vệ thực vật…trong mối quan hệ này, HTX phải đóng
vai trò người đại diện là cầu nối giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế hộ. Một mặt,
HTX thực hiện việc tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước, triển khai chương trình dự
án có liên quan đến kinh tế hộ ở địa phương. Mặt khác HTX giúp doanh nghiệp
nông nghiệp mở rộng phạm vi hoạt động, phục vụ trực tiếp có hiệu quả đến nông
dân. còn doanh nghiệp Nhà nước tạo điều kiện cho HTX mở rộng và nâng cao hiệu
quả hoạt động dịch vụ sản xuất kinh doanh như HTX làm đại lý, ký hợp đồng bao
tiêu sản phẩm.
Thứ bảy, tăng cường hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước đối với kinh tế hợp
tác, HTX bằng cách:
- Thường xuyên nâng cao trình độ cán bộ quản lý Nhà nước đối với kinh tế
hợp tác, HTX thông qua đào tạo bồi dưỡng trong hệ thống các trường từ tỉnh đến
TW, kết hợp việc tham quan học hỏi kinh nghiệm trong và ngoài nước.
- Nhà nước cần cấp một khoản kinh phí cần thiết cho hệ thống quản lý Nhà
nước đối với kinh tế hợp tác, HTX.
Cùng với hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước đối với kinh tế hợp, HTX. Cần
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp trách nhiệm của các tổ chức xã
hội như: hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, liên minh HTX trong việc
tuyên truyền vận động giúp đỡ phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, HTX, phù
hợp voí điều kiện thực tiên và nhu cầu của nông dân ở từng địa phương.
Thứ tám, xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả giữa tổ chức Đảng, chính
quyền và HTX ttrên từng địa bàn.
Để giải quyết tốt mối quan hệ này cần có cơ chế phối hợp hoạt động có hiệu
quả. Tổ chức Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chung thông qua chủ trương, Nghị
quyết và vai trò gương mẫu của người Đảng viên. Chính quyền địa phương có
41
quyền, có trách nhiệm kiểm tra giám sát HTX trong việc tuân thủ pháp luật và các
chủ trương chính sách của đảng Nhà nước. Nhưng tuyệt đối không được can thiệp
trực tiếp vào công việc nội bộ của HTX, không làm thay chức năng của HTX, song
phải tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ cho HTX hoạt động theo pháp luật.
Thứ chín, đối với liên minh HTX: kiện toàn tổ chức liên minh HTX từ TW
đến các tỉnh, thành phố thực sự vững mạnh, khắc phục mọi biểu hiện hành chính
hoá trong tổ chức và hoạt động bảo đảm thực hiện tốt vai trò đại diện và hỗ trợ cho
khu vực kinh tế hợp tác và HTX. Từng bước hiện đại hoá mạng lưới thông tin trong
ngành giúp cho hoạt động của liên minh HTX Việt Nam được thông suốt kịp thời
nâng cao chất lượng các hoạt động tư vấn về thị trường và KHCN đào tạo bảo lãnh
tín dụng… để liên minh HTX Việt Nam thực sự là tổ chức đại diện và hỗ trợ thúc
đẩy kinh tế hợp tác và HTX phát triển.
Thứ mười, cần có những chính sách vĩ mô cơ bản để phát triển kinh tế hợp
tác và HTX từ nay đến năm 2010:
- Nên có chính sách xoá nợ với các HTX nông nghiệp gặp thiên tai, lũ lụt,
gây thiệt hại tài sản và một số HTX nông nghiệp tự giải thể hoặc tồn tại chỉ là hình
thức. Xoá nợ thuế cho các HTX trước thời điểm thực hiện thu thuế trực tiếp đến hộ.
Ngân sách Nhà nước sẽ cấp bù cho địa phưưong được Chính phủ cho xoá nợ số
HTX còn nợ Nhà nước.
- Chính sách đầu tư tài chính đối với kinh tế hợp tác trong nông nghiệp: Quỹ
tín dụng nông thôn theo tinh thần chỉ thị Bộ chính trị ngày 13/10/2000 là tăng
cường hình thức tín chấp thông qua các đoàn thể quần chúng và chính quyền cấp xã
để các hộ khó khăn vay vốn sản xuất. Nên cho phép HTX nông nghiệp huy động
cho vay nội bộ tăng cường kiểm soát, chấm dứt tình trạng cho vay nặng lãi ở nông
thôn. Nhà nước cần giành một tỷ lệ chính đáng ngân sách Nhà nước đầu tư cho
kinh tế HTX như: đầu tư cho công tác đào tạo cán bộ HTX và lao động nông thôn,
đổi mới kỹ thuật công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn.
- Chính sách thuế: Nên miễn thuế cho các hoạt động dịch vụ của HTX nông
nghiệp gồm cung ứng vật tư sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
42
- Chính sách ruộng đất: Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra đôn đốc các địa
phương khẩn trương thực hiện chính sách giao đất giao rừng cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đến hộ nông dân. Cần thể chế hoá năm quyền trong luật đất đai.
Khuyến khích quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất (trong phạm vi cho phép) tới
các hộ, trang trại phát triển sản xuất hàng hoá đồng thời cần tuyên truyền áp dụng
kinh nghiệm của một số địa phương về việc dồn điền đổi thửa để hạn chế tình trạng
manh mún ruộng đất, tạo điều kiện cơ giới hoá cho sản xuất nông nghiệp.
Đối với các tỉnh miền núi vùng sâu, vùng xa, biên giới cần miễn không thời
hạn tiền thuê đất mà HTX sử dụng để làm các công trình dịch vụ phục vụ sản xuất.
đồng thời phải có cơ chế quản lý chặt chẽ để tránh tình trạng sử dụng đất lãng phí
và các hiện tượng tiêu cực khác.
- Chính sách thị trường: Cần phải cung cấp thông tin kịp thời cho các chủ thể
sản xuất nông nghiệp đó là những thông tin về thị trường như: nhu câù tiêu thụ
nông sản, tình hình sản xuất cạnh tranh, sự biến động giá cả.. trên thị trường trong
nước và quốc tế. Cung cấp những thông tin về phương thức, về điều kiện, yêu cầu
đảm bảo tính thống suốt tính toán kỹ hiệu quả kinh tế trước khi quyết định phương
án đầu tư tổ chức sản xuất.
- Chính sách đào tạo sử dụng cán bộ HTX và đào tạo nghề cho lao động
nông nghiệp nông thôn: Nhà nước cần pahỉ có nhiều đề án cụ thể về công tác đào
tạo cán bộ HTX trước hết đó là Chủ nhiệm HTX, kế toán… rà soát củng cố hệ
thống các trường đào toạ và tài liệu giáo trình, chương trình giảng dạy về HTX
nông nghiệp theo tiêu chuẩn chung của cả nước và phù hợp với từng địa phương.
- Chính sách khuyến nông, KHCN: cần tăng cường nghiên cứu áp dụng các
thành quả mới nhất của KHCN nâng cao dân trí đào tạo bồi dưoững nhân lực tại
chỗ, cung cấp kịp thời các tri thức khoa học công nghệ hiện đại vào các quy trình
sản xuất của nông nghiệp.
Đối với các chủ thể sản xuất chế biến và tiêu thụ nông sản được hỗ trợ kinh
phí, hoặc trợ giá một phần cho việc đầu tư ứng dụng tiến bộ KHCN cho sản xuất
nông nghiệp.
43
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường ồ ạt như hiện nay đâu đâu cũng chỉ thấy mọc
lên những công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hay doanh nghiệp tư
nhân… liệu có ai đặt ra câu hỏi rằng: đến khi nào đó mô hình kinh tế HTX hoàn
toàn bị biến đổi hay bị thay thế bởi một mô hình kinh tế khác hay không? Bởi lẽ
rằng ngay trước mắt kinh tế HTX đã mang trong mình nó bao bất cập, khó khăn: sự
ràng buộc quá lớn giữa người với người gây ra sự trì trệ ỷ lại làm giảm đi tính năng
44
động, mờ đi tính sáng tạo của con người dẫn đến sự không thể thích nghi được với
nền kinh tế thị trường quá sôi động, quá nhạy bén. Phải chăng đến một lúc nào đó
mô hình kinh tế HTX sẽ bị lãng quên?
Lại có một vấn đề nữa đặt ra rằng trong thời đại đổi mới, xu thế toàn cầu hoá
đưa các quốc gia xích lại gần nhau theo hướng hợp tác hoá liên hiệp hoá (tiêu biểu
như tổ chức WTO mà sắp tới Việt Nam có thể sẽ gia nhập, tổ chức ASEM…) có
như vậy thế giới mới phát triển ổn định trong hoà bình. Rõ ràng hợp tác hoá là điều
kiện không thể thiếu được trong việc phát triển lâu dài và ổn định từ đó chúng ta lại
càng khẳng định một điều rằng:
Nền kinh tế Việt Nam- nền kinh tế đang trên đà phát triển sẽ không thể và
không bao giờ xoá bỏ một cách sạch trơn mô hình kinh tế HTX. CNXH muốn phát
triển phải dựa trên sức mạnh cộng đồng- hay đó chính là sức mạnh dân tộc. Chính
vì vậy mô hình kinh tế HTX kiểu mới đã được sửa đổi để thích nghi với nền kinh tế
thị trường là nền tảng của nền kinh tế bền vững và phát triển đó là kinh tế Việt Nam
XHCN trong tương lai, cho ngày mai và cho cả mai sau…
Bản thân em là một cử nhân tương lai nguyện sẽ cống hiến cho sự nghiệp đổi
mới của đất nước sức khoẻ và kiến thức của tuổi thanh xuân bất kể khi nào đất
nước cần. Bởi lẽ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh không
phải chỉ là khẩu hiệu mà là ước mơ của toàn Đảng, toàn dân mà còn là ước mơ
cháy bỏng trong mỗi trái tim của mỗi một sinh viên như chúng em.
45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn Số 2 năm 2004
Số 5 năm 2004
Số 2 năm 2001
2. Tạp chí phát triển kinh tế T3/2004
3. Tạp chí Kinh tế và dự báo T6/2001
4. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 280 - T9/2001
5. Tạp chí lý luận chính trị số 12/2001
6. Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 6/2000
7. Giáo trình quản trị doanh nghiệp nông nghiệp - NXB Thống kê
8. Những bài học kinh nghiệm từ các mô hình kinh tế HTX Nông nghiệp ở nước
ta
9. Cuốn Nông nghiệp Châu Âu, những kinh nghiệm phát triển
10. Cuốn Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay
11. Cuốn lý luận về kinh tế hợp tác, HTX và sự vận dụng ở nước ta.
46
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................1
PHẦN MỘT : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ HỢP TÁC ...........2
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KINH TẾ HỢP TÁC: ........................................2
1. Định nghĩa ...................................................................................................2
2. Các loại hình kinh tế hợp tác. ....................................................................2
2.1. Kinh tế hợp tác giản đơn. ......................................................................3
2.2. Hợp tác xã .............................................................................................3
2.2.1. Định nghĩa .......................................................................................3
2.2.2.Vai trò của HTX ................................................................................4
2.2.3. Những đặc trưng cơ bản của HTX kiểu mới ở Việt Nam ...................4
2.2.4.. Các loại hình HTX. .........................................................................8
II. KINH TẾ HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP .....................................9
III. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỢP TÁC TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA...................10
1. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội . ................................11
2. Các nhân tố khác ......................................................................................11
PHẦN HAI: THỰC TRẠNG KINH TẾ HỢP TÁC XÃ TRONG NÔNG
NGHIỆP Ở NƯỚC TA........................................................................................12
I. KINH TẾ HTX NÔNG NGHIỆP TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1954-1987).............12
II. KINH TẾ HTX SAU ĐỔI MỚI (1988-2003)......................................................17
1. Kinh tế HTX nông nghiệp khi có Nghị quyết 10 Bộ Chính trị ...............17
2. Kinh tế HTX trong nông nghiệp từ khi có luật HTX (1997-2003) .........21
2.1- Những thành tựu đạt được .................................................................21
2.2. Những hạn chế....................................................................................27
PHẦN BA: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HTX NÔNG NGHIỆP .......................................................................31
I/ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOÀN THIỆN CÁC HÌNH THỨC KINH TẾ HỢP
TÁC TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP................................................................31
II/ NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HTX NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA......35
KẾT LUẬN..........................................................................................................43
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- da064_5242.pdf