Độ lỗ rỗng hữu hiệu tầng chứa nước qp là
0,280 và độ phân tán là 0,64m, tương ứng là hệ
số phân tán thuỷ động lực thay đổi rất lớn từ
D22m2/ngày sát LK hút nước xuống D3m2/ ngày
tại mép LK ép dung dịch chất chỉ thị.
Ngoài các kết luận, từ các phân tích đánh
giá tập thể tác giả đề xuất các những điều cần
quan tâm trong thí nghiệm ép dung dịch chất
chỉ thị sau đây:
- Tiến hành ép dung dịch chất chỉ thị trong
suốt quá trình thí nghiệm nhằm có được giá trị
biên trong suốt quá trình, mà không phải nội
suy có thể có sai số nhất định;
- Dọc theo tuyến giữa LK hút nước và LK
ép dung dịch chất chỉ thị nên bố trí các LK quan
trắc nồng độ chất chỉ thị;
- Cần xác định chính xác chiều dày tầng
chứa nước trên diện lớn hơn nhiều diện tích thí
nghiệm vì chiều dày hữu hiệu quyết định kết
quả tính toán độ lỗ rỗng hữu hiệu, đồng thời
phải phân tích đánh giá thấm xuyên nếu tầng
chứa nước thí nghiệm không được khẳng định
là tầng chứa nước không có thấm xuyên;
15 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 590 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu xác định độ lỗ rỗng hữu hiệu và độ phân tán tầng chứa nước Pleistocen khu vực Mộ Lao, Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15
1
Nghiên cứu xác định độ lỗ rỗng hữu hiệu và độ phân tán
tầng chứa nước Pleistocen khu vực Mộ Lao,
Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội
Nguyễn Thế Chuyên1, Vũ Ngọc Đức1, Đào Trọng Tú1, Nguyễn Văn Hoàng2,*
1Trung tâm Dữ liệu Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên nước-Trung tâm QH&ĐTTNN Quốc gia,
93/95 Vũ Xuân Thiều, Sài Đồng, Long Biên, Hà Nội, Việt Nam
2Viện Địa chất-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
84 phố Chùa Láng, Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội
Nhận ngày 16 tháng 11 năm 2016
Chỉnh sửa ngày 12 tháng 02 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 03 năm 2017
Tóm tắt: Thí nghiệm hiện trường hút nước và ép dung dịch muối được tiến hành nhằm xác định
các thông số lan truyền chất ô nhiễm trong nước dưới đất tại khu vực Mộ Lao, quận Hà Đông, TP.
Hà Nội nơi giữa tầng chứa nước Holocen và Pleistocen tồn tại cửa sổ địa chất thuỷ văn. Thí
nghiệm được tiến hành với lưu lượng hút nước là 5l/s và lưu lượng ép dung dịch muối là 0,5l/s với
nồng độ muối là 5g/l. Thời gian hút nước thí nghiệm là 170h, dung dịch muối bắt đầu được ép sau
khi đã tiến hành hút nước được 8h và thời gian ép dung dịch muối là 12h. Phân tích xác định các
thông số lan truyền chất ô nhiễm bằng số liệu thí nghiệm hiện trường là một bài toán khó khăn và
phức tạp do điều kiện thí nghiệm không cho lời giải giải tích. Kết quả thí nghiệm cho thấy mặc dù
thời gian ép dung dịch muối kéo dài tới 12h, đường nồng độ muối tại lỗ khoan hút nước vẫn có
dạng hình chuông đặc trưng cho ép dung dịch muối chỉ trong một thời gian rất ngắn. Kết quả xác
định thông số dựa trên nguyên tắc tổng hiệu bình phương bé nhất giữa nồng độ muối quan trắc và
nồng độ muối tính theo mô hình cho giá trị độ lỗ rỗng hữu hiệu bằng 0,280 và độ phân tán dọc
bằng 0,64m (cho hệ số phân tán thuỷ động lực từ D22m2/ngày sát mép lỗ khoan hút nước tới
D3m2/ngày sát mép lỗ khoan ép dung dịch chất chỉ thị), ứng với tổng hiệu bình phương trung
bình bé nhất là 0,0047, tức sai số trung bình giữa nồng độ muối quan trắc và mô hình là 0,068g/l
với nồng độ tương đối lớn nhất là 1g/l. Kết quả cũng cho thấy theo mô hình một chiều thì nồng độ
muối tại mép lỗ khoan hút nước lớn gấp khoảng 4 lần nồng độ muối trong lỗ khoan.
Từ khoá: Hút nước thí nghiệm, ép dung dịch, lan truyền chất ô nhiễm, độ lỗ rỗng hữu hiệu, độ
phân tán, tổng hiệu bình phương nhỏ nhất.
1. Mở đầu
Với sự phát triển kinh tế xã hội mạnh mẽ
của thủ đô Hà Nội và sự gia tăng dân số cơ học
tại đây, các nguồn nước mặt đã bị ô nhiễm một
cách đáng kể, trong đó các nguồn nước thuỷ lợi
_______
Tác giả liên hệ. ĐT: 84-912150785.
Email: N_V_Hoang_VDC@yahoo.com
trước đây cũng đã trở thành nguồn nước thải
sinh hoạt của thành phố, mà sông Nhuệ là một
điển hình, sau đó là sông Đáy: các đoạn sông
Nhuệ chảy qua Phúc La, quận Hà Đông trước
khi tiếp nhận nước từ sông Tô Lịch bị ô nhiễm
nặng theo các chỉ tiêu COD và BOD5 (lớn từ 3
đến 4 lần quy chuẩn quốc gia), ngay sau nơi
sông Nhuệ nhận nước từ sông Tô Lịch nước có
hàm lượng Amoni không đạt tiêu chuẩn quốc
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15
2
gia loại B theo QCVN 08 [1]. Trong khi đó
trong các tầng chứa nước khu vực Hà Nội được
khai thác phục vụ các nhu cầu kinh tế xã hội
luôn tồn tại các cửa sổ địa chất thuỷ văn
(ĐCTV) [2] tạo nên mối quan hệ thuỷ lực giữa
nước mặt và nước dưới đất (NDĐ), như tại khu
vực lòng Hồ Tây, lòng sông Hồng, sông Đuống,
sông Nhuệ... nên NDĐ luôn có nguy cơ bị
nhiễm bẩn bởi các nguồn nước mặt ô nhiễm.
Để có thể tiến hành đánh giá dự báo quá
trình ô nhiễm NDĐ do xâm nhập các chất ô
nhiễm từ các nguồn nước mặt bị ô nhiễm, và
lan truyền các chất ô nhiễm trong các tầng chứa
nước, các thông số lan truyền chất hoà tan trong
NDĐ của các tầng chứa nước là độ lỗ rỗng hữu
hiệu và độ phân tán cần phải được xác định. Hai
thông số này có thể được xác định bằng thí nghiệm
trong phòng hoặc thí nghiệm ngoài thực địa.
Thí nghiệm trong phòng tiến hành tương
đối thuận lợi và phân tính tính toán các thông số
lan truyền không phức tạp do điều kiện thuỷ lực
dòng chảy hoàn toàn ổn định theo không gian
và thời gian cũng như điều kiện biên về nồng
độ chất hoà tan không thay đổi và được xác lập
chính xác. Tuy nhiên, đất đá thí nghiệm đã bị
phá huỷ hoàn toàn so với thực tế vì đất đá tầng
chứa nước là các loại trầm tích bở rời nên giá trị
thông số là không đúng giá trị thực của chúng.
Thí nghiệm ngoài thực địa tiến hành rất
công phu và tốn kém, điều kiện động lực dòng
chảy (vận tốc dòng chảy) thay đổi theo không
gian, điều kiện biên của chất hoà tan xác định
khó khăn hơn và rất khó có thể xác lập không
thay đổi theo thời gian... nên việc phân tính số
liệu thí nghiệm và xác định thông số lan truyền
rất phức tạp. Một đặc tính ưu việt nổi trội của
thí nghiệm hiện trường là giá trị thông số phản
ánh đúng điều kiện thực tế của tầng chứa nước.
Vì vậy, trong khuôn khổ Dự án "Bảo vệ nước
dưới đất ở các đô thị lớn (Phạm vi: Đô thị Hà
Nội)" [3] đã tiến hành thí nghiệm xác định các
thông số lan truyền chất hoà tan trong NDĐ tại
hiện trường. Bài viết trình bày phương pháp xác
định các thông số lan truyền chất ô nhiễm phù
hợp với điều kiện và số liệu thí nghiệm hiện trường.
2. Khu vực nghiên cứu và sơ đồ thí nghiệm
Tại quận Hà Đông, khu vực phía bờ phải
sông Nhuệ, nhiều nơi tầng chứa nước Holocen
và tầng chứa nước qp có quan hệ thuỷ lực chặt
chẽ do không có mặt lớp thấm nước yếu hoặc
cách nước giữa chúng (hình 2). Nhiều nơi đáy
sông Nhuệ nằm trực tiếp trong tầng chứa nước
Holocen. Vì vậy nguy cơ ô nhiễm NDĐ tầng
Holocen và tầng qp từ nước sông Nhuệ là
không thể loại trừ.
Hình 1. Bản đồ các tuyến mặt cắt ĐCTV và vị trí thí nghiệm.
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15 3
Hình 2. Các mặt cắt ĐCTV.
Nhằm xác định các thông số lan truyền chất
ô nhiễm của tầng chứa nước qp, thiết kế và lựa
chọn khu vực thí nghiệm hút nước và ép dung
dịch muối tại hiện trường đã được tiến hành.
Khoảng cách giữa các lỗ khoan (LK) thí
nghiệm, nồng độ chất chỉ thị (trong trường hợp
này là muối ăn), lưu lượng hút nước từ LK
trung tâm và lưu lượng ép dung dịch muối được
xác định trên cơ sở thời gian thí nghiệm được
phê duyệt và nồng độ muối trong nước LK hút
nước có thể đạt được giá trị lớn hơn nồng độ
muối trong nước tự nhiên khoảng 15% nhằm có
độ chính xác trong tính toán. Do điều kiện hạ
tầng cơ sở hiện có trên khu vực không cho phép
lấy bất kỳ vị trí nào để thí nghiệm nên vị trí thí
nghiệm đã được lựa chọn nằm tại cuối đường
Thanh Bình, bên bờ trái sông Nhuệ sát cầu Mỗ
Lao, quận Hà Đông, TP. Hà Nội (hình 3a). Mặt
cắt ĐCTV qua các LK theo tuyến vuông góc
với sông Nhuệ thể hiện trên hình 3b.
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15
4
(a) Sơ đồ phân bố các LK của chùm thí nghiệm
(b) mặt cắt qua cụm lỗ khoan thí nghiệm
Hình 3. Sơ đồ bố trí các LK và mặt cắt qua cụm lỗ khoan thí nghiệm.
LK trung tâm TT1qp là LK hút nước có
đường kính ngoài là 127mm và LK QSqp1 là
LK ép dung dịch chất chỉ thị có đường kính
ngoài là 90mm. Thời gian hút nước thí nghiệm
là 170h và thời gian ép dung dịch muối là 12h.
Lưu lượng hút nước là 527m3/ngày (6,1l/s) và
lưu lượng ép dung dịch chất chỉ thị là
43m3/ngày (0,5l/s). Dung dịch muối bắt đầu
được ép sau khi đã tiến hành hút nước được 8h,
là thời gian mà chế độ dòng chảy đã đạt ổn định
khá lâu theo điều kiện (Fetter, 2001) [4]:
T
rS
t
Tt
rS
u
405,0
05,0
4
2*2*
(1)
Trong đó: S* là hệ số nhả nước đàn hồi
của tầng; T là hệ số dẫn nước (m2/ngày) và r
là khoảng cách từ LK hút nước tới điểm xem
xét (m).
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15 5
Đối với tầng chứa nước Pleistocen, nếu lấy
giá trị S* rất lớn, bằng 0.01 và T rất nhỏ, bằng
200m2/ngày, thì thời gian mực nước đạt ổn định
ở vị trí LK QSqp1 chỉ là 0,564 giờ.
Nồng độ muối được xác định qua công thức
biểu diễn mối tương quan giữa nồng độ muối ăn
và độ dẫn điện được qui đổi ra ở điều kiện nhiệt
độ bằng 25 độ C. Độ tổng khoáng hoá của NDĐ
tự nhiên là 0,195g/l và nồng độ muối ăn được
hoà vào NDĐ là 5g/l. Nồng độ tổng cộng tạo
nên từ dung dịch muối thí nghiệm và các chất
khoáng hoá trong NDĐ tự nhiên sẽ được sử
dụng và từ đây về sau gọi là nồng độ muối.
Nước trong LK ép dung dịch muối luôn được
xáo trộn bởi ống ép dung dịch thường xuyên
nâng lên và hạ xuống trong toàn bộ chiều dày
cột nước trong LK. Đầu đo độ dẫn điện tự
động được đặt ở vị trí giữa tầng chứa nước.
Độ dẫn điện của nước trong LK hút nước
được đo quan trắc.
3. Phương pháp xác định độ lỗ rỗng hữu hiệu
và độ phân tán dọc
3.1. Cơ sở của phương pháp
Vai trò của giá trị độ lỗ rỗng hữu hiệu và
phân tán thuỷ động lực trong lan truyền chất
hoà tan trong NDĐ có thể được minh hoạ trên
hình (4) [5]. Vận tốc thực V của dòng chảy
NDĐ phụ thuộc vào độ lỗ rỗng hữu hiệu. Khi
chất hoà tan xuất hiện trong tầng chứa nước
trong một khoảng thời gian rất ngắn thì nồng độ
chất hoà tan ở một điểm phía hạ lưu dòng chảy
nằm cách nó khoảng cách L có giá trị lớn nhất
vào thời điểm (t) tính từ khi nó xuất hiện là
t=L/V (hình 4). Do cơ chế phân tán thuỷ động
lực nên nồng độ chất hoà tan phân tán theo mọi
hướng tạo nên các đường đẳng nồng độ có dạng
hình elip trong diện tích (hình 4). Hệ số phân
tán thuỷ động lực chỉ có thể xác định được bằng
phương pháp giải tích trong một số trường hợp
dòng chảy một chiều và hai chiều có các điều
kiện nhất định như vận tốc dòng NDĐ không
thay đổi, dòng chảy một hoặc hai chiều, các
thông số tầng chứa nước không thay đổi, điều
kiện biên về chất hoà tan không thay đổi....
Trong thực tế luôn luôn một hoặc thậm chí các
điều kiện này không thoả mãn, nên chỉ có thể
xác định được bằng phương pháp mô hình số.
Trong trường hợp dòng chảy một chiều, nếu
nồng độ chất hoà tan ở phía biên thượng lưu
được giữ không thay đổi thì nồng độ chất hoà
tan ở một điểm phía hạ lưu dòng chảy nằm cách
nó khoảng cách L có giá trị bằng 0,5 giá trị
nồng độ ở biên thượng lưu vào thời điểm (t)
tính từ khi nó xuất hiện là t=L/V (hình 4).
Như vậy, số liệu sử dụng để xác định các
thông số lan truyền chất chỉ thị là đường phân
bố nồng độ chất chỉ thị theo không gian vào
thời điểm nhất định hoặc đường phân bố nồng
độ chất chỉ theo thời gian tại một vị trí xác định.
Các đường phân bố nồng độ này được xác định
trong các thí nghiệm.
3.2. Đường cong phân bố nồng độ muối trong
thí nghiệm tại Mộ Lao
Đường cong nồng độ muối của nước trong
LK ép dung dịch muối thể hiện trên hình 5 và
trong LK hút nước thể hiện trên hình 6.
Độ dẫn điện của nước trong LK ép nước
được đo quan trắc từ khi bắt đầu ép dung dịch
đến hết giờ thứ 12 tính từ khi bắt đầu ép dung
dịch muối. Từ khi bắt đầu ép dung dịch vào LK,
nồng đồ chất chỉ thị trong nước LK được tăng
dần một cách gần như tuyến tính (hình 5) tới
khoảng 4h (gọi là giai đoạn I), sau đó nồng độ
chất chỉ thị đạt giá trị ổn định dao động xung
quanh giá trị khoảng 1,14g/l tới khi kết thúc ép
dung dịch muối (gọi là giai đoạn II) do có sự
xáo trộn liên tục lưu lượng nước ép vào LK và
NDĐ tự nhiên thấm vào LK. Từ đây có thể suy
ra rằng sau khi dừng ép dung dịch muối, chỉ có
NDĐ tự nhiên thấm vào LK và pha trộn với
nước có dung dịch muối trong LK và quá trình
này tương tự như trong giai đoạn I, nhưng
ngược lại là pha loãng dung dịch muối (gọi là
giai đoạn III). Nồng độ dung dịch muối giai
đoạn III này được nội suy theo số liệu ở giai
đoạn I (hình 5).
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15
6
Hình 4. Vai trò của độ lỗ rỗng hữu hiệu và hệ số phân tán thuỷ động lực lan truyền
chất hoà tan trong NDĐ: trên diện tích [5].
Nồng độ dung dịch muối của NDĐ trong
LK hút nước cũng được xác định qua độ dẫn
điện được đo tự động bằng thiết bị tự ghi đặt
trong LK hút nước. Số liệu cho thấy nồng độ
dung dịch muối của NDĐ trong LK hút nước
chỉ bắt đầu tăng ở giờ thứ 61,5h và có dạng
đường parabol đạt cực đại giờ thứ 125h, và có
xu thế đạt cực tiểu ở giờ thứ 185h (hình 6).
Như vậy với thực tế ép dung dịch muối
trong thời gian 12h là tương đối dài (nhưng
không phải là trong suốt thời gian thí nghiệm)
nên nồng độ muối của NDĐ trong LK hút nước
phải thị tương ứng với điều kiện trung gian giữa
trường hợp (a) và (b) trên hình 4, tức là đường
cong phân bố nồng độ muối của NDĐ trong LK
hút nước phải có dạng giữa hai đường cong trên
hình 4(a) và 4(b). Tuy nhiên hình 6 thể hiện
phân bố nồng độ muối lại có dạng theo đường
cong trong trường hợp (b) ở hình 4. Đây có lẽ là
một hiện tượng rất cần phải lưu ý và xem xét
trong các thí nghiệm ép chất chỉ thị trong LK vì
nó ảnh hưởng rất lớn đến phân tích tính toán
các thông số lan truyền chất hoà tan trong các
tầng chứa nước.
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15 7
0,00
0,10
0,20
0,30
0,40
0,50
0,60
0,70
0,80
0,90
1,00
1,10
1,20
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22
N
ồ
n
g
đ
ộ
m
u
ố
i (
g
/l
)
Thời gian tính từ khi bắt đầu ép dung dịch muối (h)
Giai đoạn II
Q ép>0:
Nồng độ
đạt giá trị
ổn định do
cân bằng
xáo trộn
dung dịch
ép và NDĐ
tự nhiên
thấm vào
LK
Giai đoạn III
Q ép=0:
Giảm nồng
độ ~ tuyến
tính theo
thời gian
Q ép=0:
Nồng độ
đạt giá trị
~ NDĐ tự
nhiên
...180
Giai đoạn I
Q ép>0:
Tăng nồng
độ ~ tuyến
tính theo
thời gian
Hình 5. Nồng độ muối NDĐ trong LK ép dung dịch muối.
0,190
0,195
0,200
0,205
0,210
0,215
0,220
0,225
0,230
50 60 70 80 90 100 110 120 130 140 150 160 170 180 190
N
ồ
n
g
đ
ộ
m
u
ố
i (
g
/l
)
Thời gian tính từ khi bắt đầu ép dung dịch muối (h)
Hình 6. Nồng độ muối NDĐ trong LK hút nước.
3.3. Xác định độ lỗ rỗng hữu hiệu và hệ số phân
tán thuỷ động lực theo thí nghiệm hút nước và
ép chất chỉ thị
Phương trình lan truyền vật chất mô tả cơ
chế dịch chuyển (đối lưu) và phân tán thủy
động lực của NDĐ có hướng dòng chảy chính
theo phương x trong không gian một chiều (x, y)
được viết như sau (Bear và Verruijt, 1987)[5]:
2
2x x
C C C
D U R
x x t
(2)
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15
8
Trong đó: Dx,: hệ số phân tán thủy động lực
học theo hướng x (L2/T), C: nồng độ chất hoà
tan trong nước (M/L3), Ux (U=V/nhh) vận tốc
thực của dòng nước tương ứng theo hướng x và
y (M/T), V: vận tốc Đắc-xi; nhh: độ lỗ rỗng hữu
hiệu; R: hệ số chậm trễ; t: thời gian (T);.
Hệ số phân tán thuỷ động lực xác định theo
công thức sau [5]:
Dx=D’x +D
*
d ; D’x=aLU (3)
Trong đó: D’x : hệ số phân tán cơ học tương
ứng theo hướng x và y (L2/T); D*d: hệ số
khuếch tán phân tử trong môi trường rỗng
(L2/T); aL: độ phân tán dọc.
Khuếch tán phân tử tạo ra quá trình truyền
vật chất từ nơi có nồng độ cao đến nơi có nồng
độ thấp tạo nên dòng lan truyền vật chất do
khuếch tán phân tử là (Ghislain de Marsily,
1987) [6]:
cc
nF
D
R
d *d-D
R
d
nF
D
D *d (4)
Trong đó:
+ Dd là hệ số khuếch tán phân tử của chất
hoà tan trong môi trường lỏng (L2T-1), là một hệ
số đẳng hướng:
rN
TR
D LTd
6
1
(5)
+ RLT là hằng số của khí lý tưởng, N- số
Avogadro và bằng 6,0231023, T- nhiệt độ tuyệt
đối (=oC+273,15), - độ nhớt của chất lỏng, r-
bán kính trung bình của phân tử chất hoà tan.
Hệ số khuếch tán Dd dao động trong khoảng 10
-
5cm2/s210-5cm2/s đối với môi trường dung
dịch ở nhiệt độ 20oC cho đại đa số các ion, thí
dụ cho muối ăn là 1,310-5cm2/s.
+ FR: Hệ số trầm tích được các nhà địa vật
lý cho là tỷ số giữa điện trở suất của trầm tích
và điện trở suất của chất lỏng chứa trong môi
trường trầm tích. FR thay đổi từ 0,1 (đối với sét)
đến 0,7 (đối với cát) (Ghislain de Marsily,
1987) [6], và luôn bé hơn 1 (Bear, 1972) [7].
+ n: độ lỗ rỗng tổng cộng (do khuếch tán
phân tử diễn ra kể cả trong các lỗ rỗng chết).
Như vậy đối với tầng chứa nước qp có thể
lấy Fr=0,7, độ lỗ rỗng tổng cộng bằng 0,40 (độ
lỗ rỗng tổng cộng của cát cuội sỏi có độ đồng
đều cao dao động trong khoảng 0,30-0,50
(Fetter, 2001)[4]), đối với dung dịch thí nghiệm
là muối lấy Dd=1,310
-5cm2/s=0,11210-
3m2/ngày ta có hệ số khuếch tán phân tử muối
trong tầng chứa nước là D*d=0,0004m
2/ngày.
Phương trình (2) chỉ có lời giải duy nhất khi
có đầy đủ các điều kiện ban đầu và điều kiện
biên được mô tả như sau:
Điều kiện ban đầu là phân bố nồng độ của
chất hoà tan đang xem xét vào thời điểm ban
đầu tùy ý t=t0 tại mọi vị trí trong miền tính toán:
C C x yo ( , ) (6)
Các điều kiện biên có thể là một hoặc đồng
thời các dạng sau:
- Biên có nồng độ đã biết:
C=Cc trên c (7)
- Biên có gradient nồng độ pháp tuyến với
đường biên đã biết (biên Neumann):
C
q
n
trên qc (8)
- Biên có dòng chất hoà tan khuếch tánlôi
cuốn pháp tuyến với biên đã biết (biên Cauchi):
0 vn n
V CC
V C D
n n
trên biên qc (9)
ở đây: V0, Cv tương ứng là vận tốc dòng
chảy và nồng độ chất hoà tan trong nước qua
biên.
3.4. Phương pháp phần từ hữu hạn
Chia miền mô hình ra các phần tử, sử dụng
phương pháp phần tử hữu hạn (PTHH) có hàm
dáng tuyến tính đối với phương trình (2) với sơ
đồ sai phân trung tâm về thời gian (bước thời
gian là tn có thể thay đổi) ta có hệ phương
trình tuyến tính sau (Nguyễn Văn Hoàng) [8]:
1
2
1
2
1
2
1
21 1
A
B
t
C A
B
t
C F F
n
n
n
n n n
(10)
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15 9
Trong đó [A] và [B] là các ma trận hình
vuông kích thước MM, {C}; {Fn} và {Fn+1} là
ma trận cột kích thước M. Nồng độ ở bước thời
gian n+1 là{Cn+1} được xác định qua nồng độ ở
bước thời gian n trước đó {Cn}.
Để đảm bảo độ chính xác của kết quả mô
hình, bước thời gian t và bước lưới x phải
thoả mãn yêu cầu về số Peclet và số Courant
như sau (Huyakorn and Pinder, 1983) [9]:
, ,
,
Peclet: 2 ; Courant: 1x i i x i
x i i
V x V t
Pe Cr
D x
(11)
Chương trình mô hình phần tử hữu hạn lan
truyền chất hoà tan trong NDĐ được sử dụng từ
kết quả của Đề tài nghiên cứu cơ bản định
hướng ứng dụng của tác giả Nguyễn Văn
Hoàng [10]. Chương trình được liên kết với
thuật toán tổng hiệu bình phương bé nhất để xác
định thông số.
3.5. Phương pháp mô hình hoá xác định các
thông số lan truyền
Đối với trường hợp hút nước từ LK trung
tâm và ép dung dịch vào LK ở gần miền lan
truyền có các cơ chế lan truyền chính theo
Zlotnik và David (1996) [11] thể hiện trên hình 8.
Chiều rộng W của đới thu nước từ phía
thượng lưu dòng chảy vào LK ép nước và đới
cấp nước từ LK ép nước cho đới hạ lưu dòng
chảy theo Drost và nnk, 1968 [12] có giá trị
Hình 7. Hai đới cơ chế lan truyền chính
trong thí nghiệm hút-ép [11].
Hình 8. Hai đới cơ chế lan truyền chính
trong thí nghiệm hút-ép [11].
W4rI nếu hệ số thấm phần ống lọc của LK
nhỏ hơn hệ số thấm của tầng chứa nước. Điều
này là phù hợp với phương pháp khoan xây
dựng kết cấu các LK quan trắc ở nước ta. Như
vậy trong thí nghiệm tại Mộ Lao chiều rộng lớn
nhất của đới lan truyền W = 4 × rI = 4 × 0,045m
= 0,18m, nhỏ hơn rất nhiều khoảng cách giữa
LK hút nước và ép dung dịch muối. Vì vậy có
thể sử dụng mô hình một chiều có chiều dài
miền mô hình bằng khoảng cách giữa hai mép
LK hút nước và ép dung dịch chất chỉ thị để
tiến hành xác định các thông số lan truyền.
Thí nghiệm cho chúng ta nồng độ chất chỉ
thị trong NDĐ trong LK hút nước, trong khi đó
mô hình một chiều theo tuyến đi qua LK hút
nước và ép nước lại chỉ cho kết quả nồng độ
chất chỉ thị tại rìa LK hút nước. Vì vậy có thể
sử dụng nồng độ tương đối có dạng thể hiện
trên hình 9(b) đối với nồng độ chất chỉ thị quan
trắc được trong LK hút nước và nồng độ chất
chỉ thị xác định theo mô hình một chiều. Như
vậy hai đường cong phân bố nồng độ chất chỉ
thị tương đối này của nước trong LK hút nước
và của nước tại mép LK hút nước của mô hình
một chiều về mặt lý thuyết là trùng nhau. Nếu
ký hiệu nồng độ chất chỉ thị của nước trong LK
hút nước là CLK với giá trị cực đại là CLKmax và
cực tiểu CLKmin (hình 9(a)) và nồng độ xác định
theo mô hình một chiều tại mép LK hút nước là
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15
10
N
ồ
n
g
đ
ộ
t
u
y
ệ
t
đ
ố
i
Thời gian
CLKmax
CLKmin
C1Dmax
(a)
N
ồ
n
g
đ
ộ
t
ư
ơ
n
g
đ
ố
i
Thời gian
C=1
C=0
1
0
(b)
Hình 9. Nồng độ tuyệt đối và tương đối của chất chỉ thị trong NDĐ trong LK hút nước, mép LK hút nước.
C1D với giá trị cực đại là C1Dmax và cực tiểu
C1Dmin ta có nồng độ tương đối nước LK hút
nước và mép LK hút nước của mô hình một
chiều như sau:
min 1 1 min
ax min 1 max 1 min
; LK LK D D
LKm LK D D
C C C C
C C
C C C C
(12)
3.6. Kết quả xác định thông số
Do tầng chứa nước qp có thành phần thạch
học là cát cuội sỏi và chất lỏng thấm là dung
dịch muối ăn nên khả năng hấp phụ muối ăn là
vô cùng nhỏ, không đáng kể nên hệ số chậm
chễ R trong phương trình (1) được lấy bằng 1.
Từ đồ thị hình 9 xác định được thời gian
nước chuyển động từ LK ép chất chỉ thị tới LK
hút nước. Độ lỗ rỗng hữu hiệu có thể được xác
định theo công thức sau (Nguyễn Văn Hoàng,
2016) [8]:
2
2
0,3179
0,3179
lklk
r r
hh
hh
rr
mn Qt
t r n
Q mr
(13)
Thay các số liệu vào ta có nhh=0,526 là rất
lớn so với thực tế rằng độ lỗ rỗng tổng cộng của
cát cuội sỏi có độ đồng đều cao dao động trong
khoảng 0,30-0,50 (Fetter, 2001)[4].
Theo kết quả phân tích tính toán thông số
thuỷ văn tầng chứa nước qp của cụm thí nghiệm
thì trong khoảng thời gian từ 10 phút đến 660
phút (11h) hệ số dẫn nước tính được là
1699m2/ngày (ứng với hệ số thấm là
92,14m/ngày), nhưng trong thời gian 10 phút
đầu chỉ bằng 823m2/ngày (ứng với hệ số thấm
là 45,7m/ngày) (Nguyễn Văn Chuyên, 2016)
[13]. Giá trị hệ số thấm bằng 92,14m/ngày là
quá lớn so với các số liệu về hệ số thấm của
tầng chứa nước qp trong khu vực, giá trị hệ số
thấm 45,7m/ngày phù hợp hơn. Như vậy tầng
Neogen bên dưới tầng chứa nước qp là tầng
chứa nước và trong quá trình hút nước từ tầng
qp có sự cung cấp từ tầng Neogen. Như vậy về
mặt thuỷ lực tầng chứa nước qp và tầng chứa
nước Neogen tạo nên một "tầng chứa nước" có
hệ số dẫn nước bằng 1699m2/ngày với chiều
dày lớn hơn nhiều chiều dày tầng qp bằng 18m.
Rất đáng tiếc là chiều dày tầng chứa nước
Neogen tại đây không được xác định. Vì vậy độ
lỗ rỗng hữu hiệu sẽ nhỏ hơn nhiều và sẽ được
làm chính xác hoá trong quá trình xác định độ
phân tán dọc dưới đây:
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15 11
s = 0,0253lnt + 1,5176
R² = 0,9836
1,4
1,5
1,6
1,7
1,8
0
,0
1
,0
2
,0
3
,0
4
,0
5
,0
6
,0
Đ
ộ
h
ạ
t
h
ấ
p
m
ự
c
n
ư
ớ
c
s
(m
)
Loga cơ số tự nhiên thời gian - lnt (t - phút)
Hình 10. Đồ thị hạ thấp mực nước theo thời gian.
Hai thông số là độ lỗ rỗng hữu hiệu và độ
phân tán dọc được xác định bằng phương pháp
thử loại sao cho tổng hiệu bình phương giữa
nồng độ tương đối quan trắc được và nồng độ
tương đối xác định theo mô hình nhỏ nhất. Phần
mềm xác định được hỗ trợ từ đề tài nghiên cứu
cơ bản định hướng ứng dụng do Quỹ NAFOSTED
- Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ (Nguyễn
Văn Hoàng, 2014-2017) [10].
Đ
ộ
p
h
â
n
t
á
n
d
ọ
c
(
m
)
Hình 11. Tổng hiệu bình phương trung bình theo
các giá trị độ lỗ rỗng hữu hiệu và độ phân tán.
Bảng 1. Tổng hiệu bình phương trung bình (THBP) theo các giá trị độ lỗ rỗng hữu hiệu và độ phân tán
nhh al (m) THBP nhh al (m) THBP nhh al (m) THBP
0,265 0,40 0,0088 0,275 0,74 0,0099 0,290 0,58 0,0093
0,265 0,42 0,0075 0,275 0,76 0,0113 0,290 0,60 0,0082
0,265 0,44 0,0067 0,275 0,78 0,0130 0,290 0,62 0,0073
0,265 0,46 0,0061 0,275 0,80 0,0149 0,290 0,64 0,0066
0,265 0,48 0,0057 0,275 0,82 0,0171 0,290 0,66 0,0060
0,265 0,50 0,0057 0,275 0,84 0,0196 0,290 0,68 0,0055
0,265 0,52 0,0058 0,275 0,86 0,0223 0,290 0,70 0,0052
0,265 0,54 0,0062 0,275 0,88 0,0254 0,290 0,72 0,0051
0,265 0,56 0,0067 0,280 0,40 0,0191 0,290 0,74 0,0050
0,265 0,58 0,0075 0,280 0,42 0,0164 0,290 0,76 0,0051
0,265 0,60 0,0085 0,280 0,44 0,0140 0,290 0,78 0,0053
0,265 0,62 0,0097 0,280 0,46 0,0120 0,290 0,80 0,0057
0,265 0,64 0,0111 0,280 0,48 0,0102 0,290 0,82 0,0062
0,265 0,66 0,0128 0,280 0,50 0,0088 0,290 0,84 0,0069
0,265 0,68 0,0146 0,280 0,52 0,0076 0,290 0,86 0,0077
0,265 0,70 0,0168 0,280 0,54 0,0067 0,290 0,88 0,0087
0,265 0,72 0,0192 0,280 0,56 0,0059 0,295 0,40 0,0375
0,265 0,74 0,0219 0,280 0,58 0,0054 0,295 0,42 0,0332
0,265 0,76 0,0249 0,280 0,60 0,0050 0,295 0,44 0,0294
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15
12
nhh al (m) THBP nhh al (m) THBP nhh al (m) THBP
0,265 0,78 0,0283 0,280 0,62 0,0048 0,295 0,46 0,0260
0,265 0,80 0,0320 0,280 0,64 0,0047 0,295 0,48 0,0229
0,265 0,82 0,0362 0,280 0,66 0,0049 0,295 0,50 0,0203
0,265 0,84 0,0408 0,280 0,68 0,0051 0,295 0,52 0,0179
0,265 0,86 0,0459 0,280 0,70 0,0055 0,295 0,54 0,0158
0,265 0,88 0,0516 0,280 0,72 0,0061 0,295 0,56 0,0140
0,270 0,40 0,0111 0,280 0,74 0,0069 0,295 0,58 0,0124
0,270 0,42 0,0093 0,280 0,76 0,0078 0,295 0,60 0,0110
0,270 0,44 0,0079 0,280 0,78 0,0089 0,295 0,62 0,0097
0,270 0,46 0,0069 0,280 0,80 0,0102 0,295 0,64 0,0087
0,270 0,48 0,0061 0,280 0,82 0,0117 0,295 0,66 0,0078
0,270 0,50 0,0055 0,280 0,84 0,0134 0,295 0,68 0,0070
0,270 0,52 0,0052 0,280 0,86 0,0153 0,295 0,70 0,0064
0,270 0,54 0,0051 0,280 0,88 0,0175 0,295 0,72 0,0059
0,270 0,56 0,0051 0,285 0,40 0,0246 0,295 0,74 0,0056
0,270 0,58 0,0054 0,285 0,42 0,0213 0,295 0,76 0,0054
0,270 0,60 0,0059 0,285 0,44 0,0184 0,295 0,78 0,0053
0,270 0,62 0,0066 0,285 0,46 0,0159 0,295 0,80 0,0053
0,270 0,64 0,0074 0,285 0,48 0,0138 0,295 0,82 0,0054
0,270 0,66 0,0084 0,285 0,50 0,0119 0,295 0,84 0,0057
0,270 0,68 0,0097 0,285 0,52 0,0103 0,295 0,86 0,0061
0,270 0,70 0,0111 0,285 0,54 0,0090 0,295 0,88 0,0066
0,270 0,72 0,0128 0,285 0,56 0,0079 0,300 0,40 0,0448
0,270 0,74 0,0147 0,285 0,58 0,0069 0,300 0,42 0,0400
0,270 0,76 0,0168 0,285 0,60 0,0062 0,300 0,44 0,0357
0,270 0,78 0,0193 0,285 0,62 0,0056 0,300 0,46 0,0318
0,270 0,80 0,0220 0,285 0,64 0,0052 0,300 0,48 0,0284
0,270 0,82 0,0250 0,285 0,66 0,0049 0,300 0,50 0,0253
0,270 0,84 0,0284 0,285 0,68 0,0048 0,300 0,52 0,0226
0,270 0,86 0,0322 0,285 0,70 0,0049 0,300 0,54 0,0201
0,270 0,88 0,0364 0,285 0,72 0,0050 0,300 0,56 0,0179
0,275 0,40 0,0146 0,285 0,74 0,0054 0,300 0,58 0,0160
0,275 0,42 0,0123 0,285 0,76 0,0058 0,300 0,60 0,0143
0,275 0,44 0,0104 0,285 0,78 0,0065 0,300 0,62 0,0127
0,275 0,46 0,0089 0,285 0,80 0,0072 0,300 0,64 0,0114
0,275 0,48 0,0076 0,285 0,82 0,0082 0,300 0,66 0,0102
0,275 0,50 0,0066 0,285 0,84 0,0093 0,300 0,68 0,0092
0,275 0,52 0,0059 0,285 0,86 0,0106 0,300 0,70 0,0083
0,275 0,54 0,0053 0,285 0,88 0,0121 0,300 0,72 0,0076
0,275 0,56 0,0050 0,290 0,40 0,0307 0,300 0,74 0,0069
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15 13
nhh al (m) THBP nhh al (m) THBP nhh al (m) THBP
0,275 0,58 0,0048 0,290 0,42 0,0269 0,300 0,76 0,0064
0,275 0,60 0,0048 0,290 0,44 0,0236 0,300 0,78 0,0060
0,275 0,62 0,0050 0,290 0,46 0,0206 0,300 0,80 0,0057
0,275 0,64 0,0054 0,290 0,48 0,0180 0,300 0,82 0,0056
0,275 0,66 0,0059 0,290 0,50 0,0158 0,300 0,84 0,0055
0,275 0,68 0,0066 0,290 0,52 0,0138 0,300 0,86 0,0056
0,275 0,70 0,0075 0,290 0,54 0,0121 0,300 0,88 0,0058
0,275 0,72 0,0086 0,290 0,56 0,0106
0,15
0,20
0,25
0,30
0,35
0,40
0
1
0
2
0
3
0
4
0
5
0
6
0
7
0
8
0
9
0
1
0
0
1
1
0
1
2
0
1
3
0
1
4
0
1
5
0
1
6
0
1
7
0
1
8
0
N
ồ
n
g
đ
ộ
t
u
y
ệ
t
đ
ố
i
(g
/l
)
c
ủ
a
n
ư
ớ
c
L
K
h
ú
t
n
ư
ớ
c
Thời gian tính từ khi bắt đầu hút nước (h)
Nồng độ tuyệt đối quan trắc
Nồng độ tuyệt đối theo mô hình
Hình 12. Nồng độ tuyệt đối quan trắc trong LK hút
nước và tại mép LK theo mô hình có độ tổng bình
phương nhỏ nhất.
0,0
0,2
0,4
0,6
0,8
1,0
0
1
0
2
0
3
0
4
0
5
0
6
0
7
0
8
0
9
0
1
0
0
1
1
0
1
2
0
1
3
0
1
4
0
1
5
0
1
6
0
1
7
0
1
8
0
N
ồ
n
g
đ
ộ
t
ư
ơ
n
g
đ
ố
i
c
ủ
a
n
ư
ớ
c
L
K
h
ú
t
n
ư
ớ
c
Thời gian tính từ khi bắt đầu hút nước (h)
Nồng độ tương đối quan trắc
Nồng độ tương đối theo mô hình
Hình 13. Nồng độ tương đối quan trắc trong LK hút
nước và tại mép LK theo mô hình có độ tổng bình
phương nhỏ nhất.
Như vậy giá trị độ lỗ rỗng hữu hiệu bằng
nhh=0,280 và độ phân tán dọc bằng aL=0,64m
được xác định cho tổng hiệu bình phương trung
bình có giá trị nhỏ nhất bằng 0,0047 (bằng tổng
hiệu bình phương chia cho tổng số cặp là 520).
Giá trị hệ số phân tán thuỷ động học xác định
theo công thức (3) là D=D’ +D*d với hệ số
phân tán cơ học là D’=aLU và hệ số khuếch tán
phân tử trong tầng chứa nước
D*d=0,0004m
2/ngày.
Với vận tốc thực của dòng chảy NDĐ sát
LK hút nước là 34m/ngày có hệ số phân tán
thuỷ động lực là D22m2/ngày và tại mép LK
ép dung dịch chất chỉ thị là 4m/ngày có hệ số
phân tán thuỷ động lực là D3m2/ngày, và vai
trò phân tán phân tử trong môi trường rỗng
trong thí nghiệm hút và ép dung dịch muối hầu
như không có.
4. Kết luận và kiến nghị
Qua các phân tích số liệu thí nghiệm và
phân tích tính toán thông số lan truyền các chất
ô nhiễm của tầng chứa nước qp khu vực thí
nghiệm có chú ý đến khả năng thấm xuyên vào
tầng chứa nước được thí nghiệm, có thể rút ra
một số kết luận sau:
- Với việc quan trắc nồng độ chất chỉ thị
trong LK hút nước, chỉ có thể tiến hành so sánh
nồng độ tương đối chất chỉ thị trong LK hút
nước và nồng độ tương đối theo mô hình tại rìa
LK hút nước;
- Chỉ có thể áp dụng mô hình số mới xác
định được nồng độ tại rìa LK hút nước và mới
có thể xác định được độ lỗ rỗng hữu hiệu và độ
phân tán dọc của tầng chứa nước;
- Phương pháp mô hình số lan truyền chất
hoà tan trong NDĐ và xác định thông số theo
phương pháp tổng hiệu bình phương là rất hiệu
quả trong các bài toán này;
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15
14
- Độ lỗ rỗng hữu hiệu tầng chứa nước qp là
0,280 và độ phân tán là 0,64m, tương ứng là hệ
số phân tán thuỷ động lực thay đổi rất lớn từ
D22m2/ngày sát LK hút nước xuống D3m2/ ngày
tại mép LK ép dung dịch chất chỉ thị.
Ngoài các kết luận, từ các phân tích đánh
giá tập thể tác giả đề xuất các những điều cần
quan tâm trong thí nghiệm ép dung dịch chất
chỉ thị sau đây:
- Tiến hành ép dung dịch chất chỉ thị trong
suốt quá trình thí nghiệm nhằm có được giá trị
biên trong suốt quá trình, mà không phải nội
suy có thể có sai số nhất định;
- Dọc theo tuyến giữa LK hút nước và LK
ép dung dịch chất chỉ thị nên bố trí các LK quan
trắc nồng độ chất chỉ thị;
- Cần xác định chính xác chiều dày tầng
chứa nước trên diện lớn hơn nhiều diện tích thí
nghiệm vì chiều dày hữu hiệu quyết định kết
quả tính toán độ lỗ rỗng hữu hiệu, đồng thời
phải phân tích đánh giá thấm xuyên nếu tầng
chứa nước thí nghiệm không được khẳng định
là tầng chứa nước không có thấm xuyên;
- Tuyệt đối đảm bảo lưu lượng hút nước
không thay đổi trong suốt thời gian thí nghiệm
và phải được đo xác định lưu lượng thường
xuyên vì giá trị lưu lượng quyết định giá trị độ
lỗ rỗng hữu hiệu trong công thức tính toán.
Lời cảm ơn
Bài báo được hoàn thành trong khuôn khổ
thực hiện Đề tài cấp nhà nước: "Nghiên cứu xây
dựng phần mềm mô hình phần tử hữu hạn mô
phỏng chuyển động và lan truyền các chất ô
nhiễm và nhiễm mặn trong môi trường nước
dưới đất-ứng dụng cho khu vực ven biển miền
Trung" mã số ĐT.NCCB-ĐHƯD.2012-G/04
được Quỹ nghiên cứu Cơ bản NAFOSTED-Bộ
Khoa học công nghệ tài trợ và Dự án "Bảo vệ
nước dưới đất ở các đô thị lớn (Phạm vi: Đô thị
Hà Nội)".
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam-Bộ Ngoại
Giao Đanh Mạch, 2011. Cơ chế phối hợp trong
đầu tư cho lĩnh vực môi trường nhằm đạt hiệu
quả liên vùng và liên ngành Đáy. Báo cáo Hợp
tác phát triển trong lĩnh vực môi trường (DCE)
2005 - 2010.
[2] Lê Văn Hiển, Bùi Học, Đặng Hữu Ơn và nnk,
2000. Nước dưới đất Đồng bằng Bắc Bộ. Cục
Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.
[3] Triệu Đức Huy (chủ nhiệm Dự án), 2015. Dự án
"Bảo vệ nước dưới đất ở các đô thị lớn (Phạm vi:
Đô thị Hà Nội)". Liên đoàn tâm Điều tra và Quy
hoạch Tài nguyên Nước Miền Bắc - Trung tâm
Điều tra và Quy hoạch Tài nguyên Nước - Bộ
Tài nguyên và Môi trường.
[4] Fetter C.W., 2001. Applied Hydrogeology.
Prentice Hall Inc. New Jersey 07458.
[5] Bear J. and Verruijt A., 1987. Modeling
groundwater flow and pollution, D. Reidel
Publishing Company, Dordrecht, Holand. 414pp.
[6] Ghislain de Marsily, 1987. Quantitative
hydrogeology - groundwater hydrology for
engineers. Academic Press. 440pp.
[7] Bear J., 1972. Dynamics of Fluids in Porous
Media. Courier Corporation. 764pp.
[8] Nguyễn Văn Hoàng, 2016. Giáo trình "Mô hình
lan truyền chất ô nhiễm trong môi trường nước".
Nhà xuất bản Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam. 202 trang.
[9] Huyakorn, P.S., and G. F. Pinder: 1983,
Computational Methods in Subsurface Flow.
Academic Press, New York, 473 pp.
[10] Nguyễn Văn Hoàng (chủ nhiệm đề tài) (2014-
2016). "Nghiên cứu xây dựng phần mềm mô
hình phần tử hữu hạn mô phỏng chuyển động và
lan truyền các chất ô nhiễm và nhiễm mặn trong
môi trường nước dưới đất-ứng dụng cho khu vực
ven biển miền Trung" mã số ĐT.NCCB-
ĐHƯD.2012-G/04.
[11] Vitaly A. Zlotnik and John David Logan, 1996.
Boundary Conditions for Convergent Radial
Tracer Tests and Effect of Well Bore Mixing
Volume. Papers in the Earth and Atmospheric
Sciences. Paper 159.
[12] Drost, W., D. Klotz, A. Koch, H. Moser, F.
Neumaier, and W. Rauert, 1968. Point dilution
methods of investigating ground water flow by
means of radioisotopes. Water Resour. Res., 4(1)
125-146.
[13] Nguyễn Văn Chuyên, 2016. Báo cáo chuyên:
phân tích tính toán các thông số địa chất thuỷ
văn theo số liệu thí nghiệm hút nước thí
nghiệm chùm tại Mỗ Lao-Hà Đông-Hà Nội.
Dự án "Bảo vệ nước dưới đất ở các đô thị lớn
(Phạm vi: Đô thị Hà Nội)". Trung tâm Điều
tra và Quy hoạch Tài nguyên Nước - Bộ Tài
nguyên và Môi trường.
N.T. Chuyên và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 (2017) 1-15 15
Study on Determintation of Effective Porosity
and Dispersivity of Pleistocene Aquifer in Mo Lao,
Ha Dong District, Hanoi, Vietnam
Nguyen The Chuyen1, Vu Ngoc Duc1, Dao Trong Tu1, Nguyen Van Hoang2
1Center for Water Resources Database and Information-National Center for Water Resources ,
Planning and Investigation, 93/95 Vu Xuan Thieu, Sai Dong, Long Bien, Hanoi, Vietnam
2Institute of Geological Sciences-Vietnam Academy of Science and Technology,
84 Chua Lang, Lang Thuong, Dong Da, Hanoi, Vietnam
Abstract: Field pumping and tracer injection testing had been carried out for determination of
groundwater solute transport parameter in Mo Lao, Ha Dong district, Hanoi city, where
hydrogeological windows exist between Pleistocene and Holocene aquifers. The testing was done
under pumping rate of 5l/sec and injection rate of 0,5l/sec with the injected water having salt
concentration of 5g/l. The pumping time was 170 hours, tracer injection started 8 hours after the
pumping begining and the injection time was 12 hours. The determination of the transport parameters
by the filed pumping and injection testing is complicated and rather difficult since the testing
conditions do not allow to have analytical solution. The testing data have shown that although the
injection was hold for 12 hours, the salt concentration of the pumped water still have parabolic shape
which is characteristic for a snap-shot injection. The parameter determination had been carried out by
the method of least squares between the observed and modelled salt concentration determined by the
finite element method. The aquifer has effective porosity of 0.28 and longitudinal dispersivity of
0.64m (which is corresponding to hydrodynamic dispersion from D22m2/day outside the pumping
well screen to D3m2/day outside the injection well screen) with the minimal average sum of squares
of 0.0047, i.e. the absolute difference between the observed and modelled concentration is 0.068g/l for
the relative concentration range 0÷1g/l. The modelling results have also shown that the one-
dimensional model concentration at the outside of the pumping well screen is four time greater than
the salt concentration of the pumped out water.
Keywords: Groundwater, pumping test, tracer injection test, solute transport, effective porosity,
dispersivity, method of least squares.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4048_49_7478_2_10_20170428_9599.pdf