Có 8 yếu tố được xác định là mối nguy
liên quan đến dịch bệnh đốm trắng ở tôm tại
các tỉnh Nghệ An, Nam Định và Quảng Ninh.
Trong đó 3 yếu tố thuộc không gian (lấy nước
vào ao không qua hệ thống ao lắng, không sử
dụng lưới lọc khi lấy nước và bổ sung nước
vào ao nuôi trong quá trình nuôi), 2 yếu tố
thuộc thời gian (ao nằm trong vùng nuôi có
ao bệnh, không kiểm tra môi trường nước ao
nuôi thường xuyên) và 3 yếu tố về đối tượng
(thả giống với cỡ nhỏ hơn post 10, không giảm
sốc khi thả tôm nuôi và xuất hiện sinh vật khác
trong ao nuôi).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 812 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu xác định một số yếu tố nguy cơ liên quan nuôi thâm canh tại một số tỉnh miền bắc bệnh đốm trắng trên tôm chân trắng (litopenaeus vannamei), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
24 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
Trương Thị Mỹ Hạnh¹, Huỳnh Thị Mỹ Lệ², Phạm Thị Yến¹, 
Trương Thị Thành Vinh³, Chu Chí Thiết¹, Phan Thị Vân¹
Ngày nhận bài: 6/5/2018; Ngày phản biện thông qua: 5/6/2018; Ngày duyệt đăng: 25/6/2018
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 6 năm 2015 đến tháng 6 năm 2017 ở 3 tỉnh Nghệ An, Nam Định và 
Quảng Ninh, tập trung thu thập các thông tin phân tích yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh đốm trắng ở tôm 
chân trắng. Phương pháp áp dụng theo nghiên cứu dịch tễ học cắt ngang. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 8 
mối nguy liên quan đến sự xuất hiện dịch bệnh đốm trắng ở tôm tại các tỉnh Nghệ An, Nam Định và Quảng 
Ninh. Trong đó 3 yếu tố thuộc không gian (lấy nước vào ao không qua hệ thống ao lắng, không sử dụng lưới lọc 
khi lấy nước và bổ sung nước vào ao nuôi trong quá trình nuôi), 2 yếu tố thuộc thời gian (ao nằm trong vùng 
nuôi có ao bệnh, không kiểm tra môi trường nước ao nuôi thường xuyên) và 3 yếu tố về đối tượng (thả giống 
với cỡ nhỏ hơn post 10, không giảm sốc khi thả tôm nuôi và xuất hiện sinh vật khác trong ao nuôi).
Từ khóa: WSSV, yếu tố nguy cơ, ao nuôi thâm canh
ABTRACT
This study was conducted from June 2016 to June 2017 in 3 provinces including Nghe An, Nam Dinh and 
Quang Ninh Province, focusing on evaluating the risk factors related to white spot disease outbreaks in white 
leg shrimp. The method applied in the study was cross-epidemiological. The results showed that there were 8 
risk factors associated with the outbreaks of white spot disease in white leg shrimp. There were three space 
factors including taking water outside sediment pond system and without fi ltering net, adding water during 
cultured cycle, two time factors (raising in endemic area, irregularly checking environmental parameters) 
and three object factors (stocking shrimp under post 10 and without stress reduction, and availability of other 
creature).
Key words: WSSV, risk factors, intensive culture
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Qua nhiều thập kỷ phát triển, nghề nuôi 
tôm nước lợ đã trở thành hoạt động ngày càng 
quan trọng và đóng vai trò chính trong nền 
kinh tế xã hội của khu vực ven biển Việt Nam. 
Diện tích nuôi tôm nước lợ trên cả nước tăng 
từ 680.000 hecta năm 2015 lên đến 721.000 
hecta năm 2017, trong đó diện tích nuôi tôm 
sú đạt 622.000 hecta, diện tích nuôi tôm chân 
trắng (TCT) đạt 98.000 hecta. Sản lượng đạt 
được tương ứng với diện tích nuôi tôm nước 
lợ năm 2017 khoảng 683,4 nghìn tấn (trong 
đó sản lượng nuôi TCT chiếm khoảng 62,5%) 
mang lại kim ngạch xuất khẩu khoảng 3,8 tỷ 
USD (VASEP, 2017). Mặc dù đã đạt được được 
những thành tựu lớn về sản lượng nuôi và kim 
ngạch xuất khẩu, song nghề nuôi tôm ở Việt 
Nam đã và đang gặp những thách thức lớn 
trong đó phải kể đến vấn đề dịch bệnh, đặc biệt 
bệnh đốm trắng do tác nhân virus đốm trắng 
¹ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
² Học Viện Nông nghiệp Việt Nam
³ Đại học Vinh
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
STUDY ON THE DETERMINATION OF SOME RISK FACTORS RELATED TO 
THE WHITE SPOT DISEASE ON WHITE LEG SHRIMP (Litopenaeus vannamei) 
INTENSIVE CULTURE IN NORTHERN PROVINCES
NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ LIÊN QUAN
NUÔI THÂM CANH TẠI MỘT SỐ TỈNH MIỀN BẮC
BỆNH ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM CHÂN TRẮNG (Litopenaeus vannamei)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 25
(white spot syndrome virus - WSSV) gây ra ở 
tôm. Năm 2016, WSSV đã gây ảnh hưởng đến 
1.861,43 hecta nuôi tôm sú và 1.782,48 hecta 
nuôi TCT. Diện tích nuôi thâm canh và bán 
thâm canh bị bệnh là 2.636,2 hecta; diện tích 
nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến bị bệnh là 
856,82 hecta; còn lại là các hình thức nuôi tôm 
khác bị bệnh là 150,89 hecta. Năm 2017 tích 
nuôi tôm bị bệnh đốm trắng tăng 36% so với 
năm 2016 (Cục Thú y, 2016; 2017). 
Quảng Ninh, Nam Định và Nghệ An là 
3 trong số 5 tỉnh có sản lượng tôm lớn nhất 
các tỉnh miền Bắc, trong đó tập trung chủ yếu 
tại Hải Hòa (Quảng Ninh), Giao Thủy (Nam 
Định) và Quỳnh Lưu (Nghệ An) (Thảo Linh, 
2014). Mặc dù đạt sản lượng cao song TCT 
nuôi thâm canh bị bệnh đốm trắng do virus gây 
ra vẫn xuất hiện và diễn ra hàng năm và phức 
tạp không có dự báo tại vùng nghiên cứu Hải 
Hòa-Quảng Ninh, Quỳnh Liên-Nghệ An và 
Giao Thủy - Nam Định. 
Hiện nay đã phát triển thành công nhiều 
phương pháp chuẩn đoán mẫu nhiễm WSSV 
với độ tin cậy và tính khoa học cao như phương 
pháp mô học, TEM, PCR, LAMP (Hossain và 
cs, 2001; Ramirez-Douriet và cs, 2005). Tuy 
nhiên việc phân tích các yếu tố nguy cơ dẫn 
đến xuất hiện bệnh, phòng ngừa dịch bệnh xảy 
ra và dự báo sự xuất hiện của bệnh còn nhiều 
hạn chế, đặc biệt ở mô hình nuôi TCT thâm 
canh. Do đó “Nghiên cứu xác định một số yếu 
tố nguy cơ liên quan bệnh đốm trắng trên tôm 
chân trắng (Litopenaeus vannamei) nuôi thâm 
canh tại một số tỉnh miền Bắc” được thực hiện 
với mục tiêu nhằm xác định và đánh giá một số 
yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh đốm trắng ở 
TCT, kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học đưa 
ra giải pháp phòng, kiểm soát bệnh đốm trắng 
cũng như dự báo khả năng xuất hiện bệnh ở 
tôm nuôi, nhằm giảm bớt những khó khăn và 
đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong quá trình nuôi 
tôm tại địa phương. 
II.THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ 6/2015 đến 
6/2017
2. Địa điểm nghiên cứu
Điều tra hộ nuôi và thu mẫu tại ao nuôi TCT 
thâm canh tại xã Hải Hòa-Quảng Ninh, huyện 
Giao Thủy, Nam Định và xã Quỳnh Liên, 
huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Phân tích mẫu tại 
Trung tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh thủy 
sản miền Bắc.
3. Phương pháp điều tra
Áp dụng phương pháp nghiên cứu dịch tễ 
học cắt ngang theo không gian, thời gian và đối 
tượng sử dụng bộ câu hỏi đã chuẩn bị sẵn để 
thu thập các thông tin, số liệu liên quan đến kỹ 
thuật, tình hình nuôi và bệnh đốm trắng ở TCT. 
Bộ câu hỏi được xây dựng và điều tra thử tại 
10 hộ nuôi tôm ở Nghệ An, sau đó chỉnh sửa, 
bổ sung trước khi tiến hành điều tra chính thức 
ở các vùng nghiên cứu. Số hộ điều tra tại vùng 
nghiên cứu lần lượt là 50 hộ ở xã Quỳnh Liên, 
Quỳnh Lưu, Nghệ An, 45 ở Giao Thủy-Nam 
Định và 49 ở Hải Hòa-Quảng Ninh. Cách chọn 
hộ điều tra là ngẫu nhiên đơn, cụ thể: Bước 1, 
lập danh sách và đánh số thứ tự một cách ngẫu 
nhiên từ 1 đến n hộ tương ứng mỗi tỉnh; Bước 
2, sử dụng 1 hộp có chứa mẫu giấy nhỏ ghi số 
thứ tự, bốc thăm ngẫu nhiên 50 mẫu giấy, ký 
hiệu trên mẫu giấy tương ứng với tên hộ lựa 
chọn điều tra. 
Phương pháp thu mẫu: Sử dụng vật dụng 
chuyên dùng như vợt, sang ăn để thu mẫu tôm. 
Tại thời điểm điều tra các hộ nuôi đều được thu 
mẫu (144 hộ). 
Phương pháp phân tích mẫu: Hộ điều tra có 
tôm bệnh hay không có tôm bệnh do WSSV 
được xác định bằng phương pháp của Khadijah 
và cs. (2003) với cặp mồi 336 có kích thước 
160bp: 366-F: 5′–GAG ACG TCG CTC ATC 
AAA GAT GGG GAA G-3’ 366R: 5′–GAA 
ACC TGG ACC ATA TTG AAT ACG GCC 
AG-3′. Chu trình nhiệt tương ứng trong quy 
trình 94ºC (7 phút); 94ºC (30 giây); 53ºC (30 
giây), 72ºC (40 giây): lặp lại 35 chu kỳ và 72ºC 
(10 phút) và 4ºC (∞). Tôm bệnh cho kết quả + 
với kết quả điện di
Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu thu thập 
được từ các phiếu điều tra được nhập và xử lý 
bằng phần mềm SPSS 17.0 và thống kê mô tả 
Excel 2007. Các biến số chính trong bộ câu hỏi 
điều tra được phân tích cùng biến ao nuôi xuất 
26 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
hiện bệnh đốm trắng theo mô tả ở Bảng 1.
 Tính OR (Odds ratio)-Tỷ số chênh
OR = Số chênh nhóm phơi nhiễm/Số chênh 
nhóm không phơi nhiễm 
= (Oᴇ+/Oᴇ-) = (a/b)/(c/d) = (a*d)/(b*c)
Trong đó: a: phơi nhiễm có bệnh, b: phơi 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh đốm 
trắng ở tôm theo không gian
Kết quả phân tích cho thấy, ở vùng nuôi TCT 
tại Nghệ An, Nam Định và Quảng Ninh, những 
hộ nuôi lấy nước vào ao nuôi trực tiếp từ kênh 
cấp tôm nuôi có khả năng nhiễm bệnh do WSSV 
cao gấp 6,3 lần so với những hộ nuôi lấy nước 
vào ao nuôi qua hệ thống ao lắng (p = 0,007). 
Tiếp đến trong quá trình nuôi việc bổ sung nước 
vào ao nuôi cũng là nguy cơ cao hơn 3,6 lần so 
nhiễm không bệnh, c: không phơi nhiễm bị 
bệnh và d: không phơi nhiễm không bệnh
OR = 1: Không có sự khác nhau giữa nhóm 
phơi nhiễm và không phơi nhiễm
OR > 1: Yếu tố phơi nhiễm làm tăng nguy cơ bệnh
OR < 1: Yếu tố phơi nhiễm làm giảm nguy 
cơ bệnh (= yếu tố bảo vệ).
Bảng 1: Yếu tố phân tích xác định nguy cơ tiềm năng gây tôm nhiễm WSSV
với ao không áp dụng kỹ thuật này (p = 0,008). 
Bên cạnh đó, nước được lấy qua lưới lọc rất có ý 
nghĩa hạn chế tôm nhiễm bệnh do WSSV trong 
vụ nuôi, ở hộ có sử dụng lưới lọc khi lấy nước 
vào ao tôm giảm nguy cơ nhiễm WSD thấp hơn 
3,2 lần so với hộ không áp dụng kỹ thuật này 
(p = 0,016) (Bảng 2). Kết quả nghiên cứu trùng 
hợp với nghiên của Umesh và cs, (2008) khi 
chỉ ra nguồn nước được xác định là một trong 
những yếu tố nguy cơ gây tôm nuôi nhiễm bệnh 
do vi rút đốm trắng gây ra. Như vậy kết quả 
phân tích cho thấy kỹ thuật lấy nước vào ao nuôi 
Bảng 2. Mối quan hệ giữa hoạt động lấy nước vào ao nuôi tôm với bệnh đốm trắng xuất hiện trong ao nuôi
Ghi chú: (*) Sự sai khác có ý nghĩa p < 0,05, “OR” Tỷ số chênh (Odd ratio)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 27
có ý nghĩa giảm thiểu nguy cơ tôm nuôi nhiễm 
bệnh do WSSV gây ra. Kết quả nghiên cứu của 
đề tài đã khẳng định thêm một lần nữa rằng việc 
lấy nước, quản lý nguồn nước cấp vào ao nuôi 
tôm là rất quan trọng. 
Nguồn nước vào không qua xử lý là điều 
kiện thuận lợi đưa mầm bệnh vào ao nuôi, do 
WSSV có thể sống ngoài tế bào vật chủ và tồn 
tại trong môi trường nước biển ở 30ºC ít nhất 
30 ngày và trong nước ao nuôi ít nhất 3-4 ngày 
(Momoyama và cs, 1998; Nakano và cs, 1998), 
nếu nguồn nước có mang mầm bệnh là virus 
gây WSD thì việc truyền lây theo trục ngang 
sẽ xảy ra (Chou và cs, 1998; Venegas1 và cs, 
1999). Hoạt động cấp dẫn nước vào ao nuôi 
chưa xử lý tốt sẽ là con đường cung cấp bổ 
sung mầm bệnh vào ao nuôi (Momoyama và 
cs, 1998; Nakano và cs, 1998; Kongkeo 1997). 
 Nước lấy vào ao nuôi không qua lưới lọc 
làm tăng khả năng đưa các sinh vật nhiễm 
WSSV vào trong ao nuôi (Lo và cs, 1996), có 
rất nhiều loài động vật thủy sinh bao gồm giáp 
xác, động vật không xương sống, sinh vật phù 
du bao gồm cả động vật phù du và thực vật phù 
du được xác định là vật mang WSSV gây bệnh 
đốm trắng cho tôm nuôi (Jiang, 2012; Liu và cs, 
2007). Trong nghiên cứu này đối với mô hình 
nuôi thâm canh, việc lấy bổ sung nước vào ao 
nuôi trong vụ nuôi là yếu tố nguy cơ gây tôm 
nuôi nhiễm bệnh đốm trắng, kết quả này hoàn 
toàn trùng hợp với nghiên cứu của Takahashi và 
cs, (1995). Tác giả cho rằng khi cấp nước vào ao 
nuôi, đặc biệt với khối lượng nước lớn có thể đã 
gây sốc cho tôm nuôi và do đó bệnh đốm trắng 
dễ bùng phát, tuy nhiên điều này trái ngược với 
mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến. Ở mô 
hình nuôi quảng canh cải tiến thì việc bổ sung 
nước vào ao nuôi lại được xem là yếu tố ngăn 
ngừa (protector factor) xuất hiện dịch bệnh đốm 
trắng, nghĩa là việc điều tiết, lấy nước hợp lý chủ 
yếu là cấp nước vào ao nuôi trong tháng trước 
(mùa khô) có tác dụng hạn chế bệnh virus đốm 
trắng xảy ra trong tháng sau của ao trong vụ 
nuôi (Nguyễn Văn Hảo và cs, 2007). 
Bên cạnh đó, kết quả phân tích cũng đã chỉ 
ra ở vùng nghiên cứu diện tích ao nuôi và mực 
nước trong ao nuôi không có sự khác biệt ý 
nghĩa giữa ao tôm không mắc bệnh và ao tôm 
mắc bệnh do WSSV lần lượt có giá trị p tương 
ứng là 0,5 và 0,4 (Bảng 3).
Bảng 3: Quan hệ giữa diện tích nuôi tôm và mực nước ao nuôi 
với bệnh đốm trắng ở tôm xuất hiện trong ao nuôi
Ghi chú: (*) Sự sai khác có ý nghĩa p<0,05; “OR” Odd ratio (tỷ số chênh)
Bảng 4: Quan hệ giữa vùng nuôi xuất hiện bệnh WSSV và
hoạt động kiểm tra môi trường thường xuyên với bệnh đốm trắng ở tôm 
2. Yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh đốm 
trắng ở tôm thời gian
Trong khu vực ở thời điểm có hộ nuôi báo 
xuất hiện tôm nhiễm bệnh đốm trắng thì khả 
năng ao nuôi còn lại trong khu vực này bị 
WSSV cao hơn gấp 4,6 lần so với những ao 
nuôi ở khu vực không bị WSSV (p = 0,002). 
Hơn nữa, xác suất xuất hiện WSSV ở những ao 
nuôi được thường xuyên kiểm tra môi trường 
sẽ thấp hơn 3,7 lần so với ao nuôi không thực 
hành kỹ thuật này ( = 7,89; p = 0,005) (Bảng 
4). Môi trường kiểm tra thường xuyên được hộ 
nuôi đề cập đến bao gồm nhiệt độ, pH, độ mặn 
và oxy hòa tan
28 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
Yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh đốm trắng 
ở tôm nuôi theo thời gian được nêu trong nghiên 
cứu này (kiểm tra môi trường thường xuyên và 
WSSV xuất hiện ở vùng nuôi) hoàn toàn trùng 
hợp với các nghiên cứu đã được chỉ ra trước đây 
nhưng ở dạng mô hình nuôi kết hợp và quảng 
canh cải tiến tại huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau 
(Phạm Quốc Việt và cs, 2011). Qua đây nhận 
thấy, rõ ràng dù áp dụng mô hình nuôi tôm thâm 
canh với chi phí đầu tư cao cả về cơ sở hạ tầng 
và kỹ thuật nhưng không giảm được các yếu 
tố nguy cơ gây tôm nhiễm WSD, nguyên nhân 
được xác định do các chủ hộ nuôi chưa nghiêm 
túc thực hiện đúng các hướng dẫn kỹ thuật liên 
quan đến cả chu kỳ nuôi tôm của một vụ tương 
ứng với mô hình nuôi tôm thâm canh.
Như vậy, nghiên cứu đã chỉ ra xét về mặt 
thời gian có 2 yếu tố bao gồm thời điểm ao 
nuôi nằm trong vùng có tôm bệnh đốm trắng 
và hoạt động kiểm tra môi trường ao nuôi 
không thường xuyên là yếu tố nguy cơ gây tôm 
nuôi nhiễm bệnh do WSSV gây ra ở TCT nuôi 
thuộc vùng nghiên cứu Nghệ An, Nam Định và 
Quảng Ninh. 
3. Yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh đốm 
trắng ở tôm theo đối tượng
Nghiên cứu tại vùng nuôi ở Nghệ An, Nam 
Định và Quảng Ninh cho thấy sử dụng con 
giống có cỡ nhỏ hơn post 10 thì nguy cơ tôm 
nhiễm bệnh do WSSV cao hơn gấp 7,5 lần 
so với giống thả đạt cỡ post ≥ 10 (p = 0,002) 
(Bảng 5). Bên cạnh đó, vai trò hoạt động giảm 
sốc cho tôm giống khi thả nuôi cũng được chỉ 
rõ, ở ao nuôi không áp dụng kỹ thuật giảm sốc 
cho tôm giống thì tôm nuôi có nguy cơ nhiễm 
bệnh do WSSV gây ra cao hơn gấp 4,8 lần so 
với ao có áp dụng kỹ thuật này (p = 0,001) 
(Bảng 5). Thực tế ở vùng nuôi kỹ thuật giảm 
sốc cho tôm khi thả nuôi chưa được quan tâm, 
nhiều hộ nuôi không áp dụng đặc biệt ở Nam 
Định, Quảng Ninh và Nghệ An với tỷ lệ lần 
lượt tương ứng 75,6; 58,1 và 40% (Bảng 5). 
Ngoài ra, sự xuất hiện của sinh vật khác ngoài 
tôm nuôi trong ao nuôi tôm là dấu hiệu báo 
nguy cơ tôm nuôi nhiễm bệnh do WSSV cao 
gấp 3,9 lần so với ao nuôi không xuất hiện sinh 
vật khác (p = 0,006).
Bảng 5: Mối quan hệ giữa cỡ tôm giống, hoạt động thả tôm
và xuất hiện sinh vật khác trong ao nuôi tôm với tôm bị bệnh đốm trắng
Ghi chú: (*) Sự sai khác có ý nghĩa p < 0,05, “OR” Odd ratio (tỷ số chênh)
 Tỷ số chênh OR ở cỡ giống tôm thả nuôi 
đạt giá trị 7,5 đây là yếu tố có nguy cơ cao nhất 
so với 07 yếu tố khác đã được phân tích chỉ ra 
(Bảng 2; Bảng 4 và Bảng 5) điều đó cho thấy 
cỡ tôm giống đưa vào nuôi có vai trò hết sức 
quan trọng. Cỡ tôm giống được tính theo ngày 
tuổi của chúng sau khi qua giai đoạn biến thái, 
khi đạt giống ≥ post 10 được khuyến cáo nên 
sử dụng chuyển thả nuôi ở ao. Ở cỡ này có thể 
đem lại sức chống chịu tốt bởi hội chứng đốm 
trắng hơn đối với cỡ giống nhỏ đồng thời giúp 
tăng trọng nhiều hơn vào những ngày đầu tiên 
trong ao (BioAqua, 2014). Một kết quả nghiên 
cứu theo dõi tỷ lệ sống của cỡ tôm thả đã xác 
nhận, tỷ lệ sống đạt cao nhất 79% (thả post 
30), tỷ lệ giảm xuống 77% khi thả tôm post 
20 và 67% (cỡ post 10), tỷ lệ sống giảm tỷ lệ 
thuận với cỡ tôm giống thả nuôi (De Yta và cs, 
2004). Bên cạnh đó, những thay đổi đột ngột 
các yếu tố môi trường nước sẽ làm rối loạn các 
chức năng sinh lý trong cơ thể tôm giống, gây 
sốc, yếu, ảnh hưởng tới quá trình sinh trưởng, 
giảm sức đề kháng bệnh của tôm (Nguyễn Văn 
Thành, 2017). Vì vậy cỡ tôm thả giống và công 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 29
tác thuần môi trường nhằm giảm sốc cho tôm 
giống khi thả đóng vai trò quan trọng, giúp tôm 
giống làm quen với môi trường hoàn toàn mới.
Khi tôm giống bắt đầu thả, các chuyên gia kỹ 
thuật khuyến cáo hộ nuôi thực hành các giải pháp 
giảm sốc cho tôm giống như tạt khoáng, Vitamin 
C và cân bằng nhiệt độ môi trường ao nuôi với 
nhiệt độ nước trong túi chứa tôm. Vitamin C được 
xem như là chất kháng ôxy hóa, kích thích hệ miễn 
dịch, hỗ trợ hấp thu sắt, giúp ngăn ngừa hiện tượng 
thiếu máu thường gặp và giảm sốc cho tôm nuôi 
(Lê Cung, 2015). Lý do cần có hoạt động giảm 
sốc cho tôm do cỡ tôm thả đang ở gian đoạn 
nhỏ, đặc biệt một số hộ nuôi sử dụng cỡ tôm 
nhỏ hơn post 10, giai đoạn này chúng mới hoàn 
thiện về quá trình biến thái song chưa hoàn 
thành quá trình sinh lý, dễ bị ảnh hưởng từ các 
yếu tố môi trường nước nuôi (BioAqua, 2014), 
đồng thời ảnh hưởng sốc lên tôm (nhiệt độ, độ 
mặn, pH.) tác động mạnh hệ thống bảo vệ 
của tôm tăng nguy cơ nhiễm bệnh trong đó có 
bệnh virus đốm trắng (Tendencia và cs, 2010). 
 Xét về yếu tố nguy cơ là sinh vật khác ngoài 
tôm chân trắng, kết quả nghiên cứu cho thấy có 
11 loài động vật “hoang dã”ghi nhận xuất hiện 
trong vùng nuôi tôm (Bảng 6). Trong số 11 loài 
được chỉ ra, có đến 10, 11 loài lần lượt có mặt 
tại vùng nuôi Nghệ An và Quảng Ninh, trong 
khi đó tại Nam Định chỉ với 6 loài được phát 
hiện có mặt trong vùng nuôi (Bảng 6).
Cáy đỏ, tôm gai, tôm càng, tôm rảo và ốc 
đinh là 5 loài sinh vật bắt gặp ở cả 3 vùng nghiên 
cứu, đồng thời chiếm tỷ lệ xuất hiện cao hơn so 
với các loài sinh vật khác, đặc biệt ốc đinh xuất 
hiện phổ biến và tỷ lệ cao ở Nam Định (86,7%), 
Nghệ An (40%) và Quảng Ninh (34,9%) (Bảng 
6). Ngoài ra, cá bống xuất hiện khá phổ biến ở 
Nghệ An (54%) và Quảng Ninh (18,6%) bên 
cạnh 1 số loài vẹm, nghêu và giun nhiều tơ hiện 
diện với tỷ lệ thấp lần lượt tương ứng 6,0%, 
4,0%, 2,0% và 2,0-2,3% (Bảng 6). 
Bảng 6. Thành phần các loài sinh vật xuất hiện trong vùng nuôi tôm.
 Ghi chú: (-) không xuất hiện ở vùng nuôi
Trong vụ nuôi thông thường có bổ sung 
nước vào ao nuôi, đây là hoạt động tạo điều 
kiện các sinh vật xâm nhập vào ao nếu chủ 
hộ không nghiêm túc thực hiện kiểm soát tốt 
nguồn nước vào ao (sử dụng lưới lọc, khử trùng 
nước trong ao lắng). Tuy vậy, một số hộ nuôi 
không sử dụng ao lắng, đặc biệt Quảng Ninh 
có đến 60,5%, Nghệ An (12%), số hộ nuôi này 
áp dụng biện pháp xử lý nước ngay trong ao 
nuôi tôm. Bên cạnh đó, tỷ lệ số hộ sử dụng 
lưới lọc ở cả 3 tỉnh đều thấp dao động trong 
khoảng 16,3-33,3%. Đây có thể là một trong 
những yếu tố quan trọng, lý giải tại sao các ao 
nuôi áp dụng mô hình nuôi thâm canh với quy 
mô đầu tư cao (con giống, thức ăn, ao đầm.) 
song tôm nuôi vẫn nhiễm bệnh, đặc biệt bệnh 
đốm trắng và hoại tử gan tụy cấp. Thực tế trong 
quá trình nuôi, nghiên cứu đã xác nhận có hiện 
diện của 11 loài sinh vật (Bảng 6), trong số đó 
nhiều loài thuộc phân ngành đã xác định mang 
30 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
và lan truyền bệnh virus đốm trắng cho tôm 
nuôi như giáp xác (The World Bank, 2014), 
nhuyễn thể (Vazquez-Boucard và cs, 2010) và 
giun nhiều tơ (Haryadi và cs, 2015). Chúng là 
mối nguy tiềm ẩn, do đó khi xuất hiện trong 
ao nuôi, tôm nuôi có nguy cơ nhiễm bệnh đốm 
trắng, đặc biệt giáp xác là loài mẫn cảm cao đối 
với virus đốm trắng từ loài có kích thước nhỏ 
copepod (Chou Hsin-Yiu và cs, 1995; Yan và 
cs, 2007) cho đến các loài cua cỡ lớn (Pradeep 
và cs, 2012; Sahul Hameed và cs, 2003). Cá 
(cá bống, rô phi và cá đối) xuất hiện ở ao các 
hộ nuôi không nhiều ngoại trừ cá bống (ở Nghệ 
An và Quảng Ninh với tỷ lệ lần lượt tương ứng 
là 50 và 18,6%), các loài cá nói chung chưa 
có nghiên cứu chỉ ra là vật mang và lan truyền 
virus đốm trắng lên tôm nuôi, song chúng sẽ 
ảnh hưởng đến tôm nuôi do cạnh tranh thức ăn 
trong ao. Như vậy có thể thấy, tất cả các thao 
tác kỹ thuật cả trước và trong quá trình nuôi có 
vai trò quan trọng như nhau, một trong số đó 
không thực hiện nghiêm ngặt là kết quả xuất 
hiện sinh vật mang mầm bệnh, gây sốc tôm 
nuôi, tăng nguy cơ tôm nhiễm bệnh.
IV. KẾT LUẬN
Có 8 yếu tố được xác định là mối nguy 
liên quan đến dịch bệnh đốm trắng ở tôm tại 
các tỉnh Nghệ An, Nam Định và Quảng Ninh. 
Trong đó 3 yếu tố thuộc không gian (lấy nước 
vào ao không qua hệ thống ao lắng, không sử 
dụng lưới lọc khi lấy nước và bổ sung nước 
vào ao nuôi trong quá trình nuôi), 2 yếu tố 
thuộc thời gian (ao nằm trong vùng nuôi có 
ao bệnh, không kiểm tra môi trường nước ao 
nuôi thường xuyên) và 3 yếu tố về đối tượng 
(thả giống với cỡ nhỏ hơn post 10, không giảm 
sốc khi thả tôm nuôi và xuất hiện sinh vật khác 
trong ao nuôi).
V. KIẾN NGHỊ
Hộ nuôi thuộc 3 tỉnh Quảnh Ninh, Nghệ 
An và Nam Định cần nghiêm túc thưc hiện các 
bước kỹ thuật trong quá trình nuôi tôm, đặc 
biệt kỹ thuật lấy, cấp nước vào ao nuôi và cỡ 
tôm giống thả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng việt
1.BioAqua, 2014. Chọn tôm giống post / hậu ấu trùng ở kích cỡ nào? BioAqua, 
giong-postlarvae-hau-au-trung-o-kich-co-nao/.
2. Cục Thú y., 2016. Công tác Thú Y năm 2016 và Kế hoạch công tác Thú Y năm 2017. Báo cáo chuyên đề. 
tr. 1–14
3. Cục Thú y., 2017. Công tác Thú Y năm 2017 và Kế hoạch công tác Thú Y năm 2018. Báo cáo chuyên đề. 
tr. 1–18
4. Lê Cung., 2015. Sử dụng Vitamin C trong nuôi trồng thủy sản. Tạp chí Thủy sản Việt Nam http//thuysanviet-
nam.com.vn/su-dung-vitamin-c-trong-nuoi-trong-thuy-san-article-13284.tsvn 24.9.
5. Nguyễn Văn Hảo., Tuyến, N.X., Hoàng, Đ.V., Dũng, N.C., 2007. Dịch tễ học bệnh đốm trắng trên tôm sú 
(Penaeus monodon) ở mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến tại đồng bằng sông Cửu Long. Hội nghị khoa học 
Quốc gia “Biển Đông -2007”. Nha Trang, p 59.
6. Thảo Linh., 2014. Năm tỉnh nuôi tôm lớn nhất miền Bắc. Tạp chí Thủy sản, http//thuysanvietnam.com.vn/5-
dia-phuong-nuoi-tom-lon-nhat-mien-bac-article-8206.tsvn.
7. Nguyễn Văn Thành., 2017. Hướng dẫn thả tôm an toàn và đạt tỷ lệ sống cao. 
vi/tin-tuc/huong-dan-cach-tha-tom-giong-an-toan-dat-ty-le-song-cao-517.html 24.9.
8. Phạm Quốc Việt., Hảo, N.V., Đức, N.M., 2011. Đánh giá một số yếu tố nguy cơ liên quan bệnh đốm trắng 
trên tôm sú (Penaeus monodon) Cà Mau. Hội nghị khoa học Thủy sản Toàn Quốc 188–197.
9. VASEP, 2016. Tổng quan ngành Thủy sản Việt Nam. Báo cáo năm 1–14.
Tài liệu tiếng anh
10. Chou, H.Y., Huang, C.Y., Lo, C.F., Kou, G.H., 1998. Studies on transmission of white spot syndrome as-
sociated baculovirus (WSBV) in Penaeus monodon and P. japonicus via waterborne contact and oral ingestion, 
in: Aquaculture. pp. 263–276. 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 31
11. Chou Hsin-Yiu, Huang Chang-Yi, Wang Chung-Hsiung, Chiang Hsien-Choung, Lo Chu-Fang, 1995. 
Pathogenicity of a baculovirus infection causing white spot syndrome in cultured penaeid shrimp in Taiwan. 
Dis. Aquat. Organ. 23, 165–173. 
12. De Yta, A.G., Rouse, D.B., Davis, Da., 2004. Infl uence of Nursery Period on the Growth and Survival of 
Litopenaeus vannamei Under Pond Production Conditions. J. World Aquac. Soc. 35, 357–365. 
13. Haryadi, D., Verreth, J.A.J., Verdegem, M.C.J., Vlak, J.M., 2015. Transmission of white spot syndrome 
virus (WSSV) from Dendronereis spp. (Peters) (Nereididae) to penaeid shrimp. J. Fish Dis. 38, 419–428. 
14. Hossain, M.S., Otta, S.K., Karunasagar, I., Karunasagar, I., 2001. Detection of white spot syndrome virus 
(WSSV) in wild captured shrimp and in non-cultured crustaceans from shrimp ponds in Bangladesh by poly-
merase chain reaction. Fish Pathol. 36.
15. Jiang, G., 2012. Can white spot syndrome virus be transmitted through the phytoplankton→rotifer 
→artemia→shrimp pathway? African J. Biotechnol. 11, 1277–1282.
16. Kongkeo, H., 1997. Comparison of intensive shrimp farming systems in Indonesia, Philippines, Taiwan and 
Thailand. Aquac. Res. 28, 789–796.
17. Liu, B., Yu, Z., Song, X., Guan, Y., 2007. Studies on the transmission of WSSV (white spot syndrome virus) 
in juvenile Marsupenaeus japonicus via marine microalgae. J. Invertebr. Pathol. 95, 87–92. 
18. Lo, C.F., Ho, C.H., Peng, S.E., Chen, C.H., Hsu, H.C., Chiu, Y.L., Chang, C.F., Liu, K.F., Su, M. Sen, 
Wang, C.H., Kou, G.H., 1996. White spot syndrome baculovirus (WSBV) detected in cultured and captured 
shrimp, crabs and other arthropods. Dis. Aquat. Org. 27, 215–225. 
19. Momoyama, K., Hiraoka, M., Nakano, H., Sameshima, M., 1998. Cryopreservation of penaeid rod-shaped 
DNA virus (PRDV) and its survival in sea water at different temperatures. Fish Pathol. 33, 95–96.
20. Nakano, H., Hiraoka, M., Sameshima, M., Kimura, T., Momoyama, K., 1998. Inactivation of penaeid rod-
shaped DNA virus (PRDV), the causative agent of penaeid acute viremia (PAV), by some chemical and physi-
cal treatments. Fish Pathol. 33, 65–71.
21. Pradeep, B., Rai, P., Mohan, S.A., Shekhar, M.S., Karunasagar, I., 2012. Biology, Host Range, Pathogenesis 
and Diagnosis of White spot syndrome virus. Indian J. Virol. 23, 161–74. 
22. Ramirez-Douriet, C., Silva-Davila, R. De, Mendez-Lozana, J., Escobedo-Urias, D., Arana, I.L.-, Lopez-
Meyer, M., 2005. White spot syndrome virus detection in zooplankton of coastal lagoons and shrimp com-
mercial ponds in Sinaloa, Mexico 135th Annual Meeting of the merican Fisheries Society, Anchorage, Alaska.
23. Sahul Hameed, A.S., Balasubramanian, G., Syed Musthaq, S., Yoganandhan, K., 2003. Experimental infection 
of twenty species of Indian marine crabs with white spot syndrome virus (WSSV). Dis. Aquat. Organ. 57, 157–161. 
24. Siti Khadijah, Soek Ying Neo, M. S. Hossain, Lance D. Miller, S. Mathavan, Kwang, and J., 2003. Identi-
fi cation of White Spot Syndrome Virus Latency-Related Genes in Specifi c-Pathogen-Free Shrimps by Use of a 
Microarray. J. Virol. 77, 10162–10167.
25. Takahashi, Y., Itami, M., Kondo, T., 1995. Immunodefense system of crustacea. Fish Pathol. 30, 141–150. 
26. Tendencia, E.A., Bosma, R.H., Verreth, J.A.J., 2010. WSSV risk factors related to water physico-chemical 
properties and microfl ora in semi-intensive Penaeus monodon culture ponds in the Philippines. Aquaculture 
302, 164–168. 
27. The World Bank, 2014. Reducing Disease Risk In Aquaculture. World Bank. Agric. Environ. Serv. 119.
28. Umesh, N.R., Mohan, C. V, Phillips, M.J., Bhat, B. V, Ravi Babu, G., Chandra Mohan, A.B., Padiyar, P.A., 
2008. Risk analysis in aquaculture - experiences from small-scale shrimp farmers of India., Understanding and 
applying risk analysis in aquaculture.
29. Vazquez-Boucard, C., Alvarez-Ruiz, P., Escobedo-Fregoso, C., Anguiano-Vega, G., Duran-Avelar, M. de 
J., Pinto, V.S., Escobedo-Bonilla, C.M., 2010. Detection of white spot syndrome virus (WSSV) in the Pacifi c 
oyster Crassostrea gigas. J. Invertebr. Pathol. 104, 245–247. doi:10.1016/j.jip.2010.04.004
30. Venegas1, C.A., Nonaka1, L., Mushiake2, K., Shimizu2, K., Nishizawa1, T., Muroga1, K., 1999. Pathoge-
nicity of Penaeid Rod-shaped DNA Virus (PRDV) to Kuruma Prawn in Different Developmental Stages. Fish 
Pathol. 34, 19–23. 
31. Yan, D.-C., Feng, S.-Y., Huang, J., Dong, S.-L., 2007. Rotifer cellular membranes bind to white spot syn-
drome virus (WSSV). Aquaculture 273, 423–426. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nghien_cuu_xac_dinh_mot_so_yeu_to_nguy_co_lien_quan_nuoi_tha.pdf nghien_cuu_xac_dinh_mot_so_yeu_to_nguy_co_lien_quan_nuoi_tha.pdf