Thái Bình là một tỉnh có địa hình thấp nhất ở
đồng bằng Bắc Bộ nên ảnh hưởng của nước biển
đến xâm nhập mặn các sông trong tỉnh là rất mạnh,
đặc biệt là sông Trà Lý. Từ các kết quả trên, có thể
rút ra các nhận xét-kết luận sau:
- Chế độ xâm nhập mặn sông Trà Lý có tính
đặc thù phụ thuộc vào chế độ thủy lực hàng ngày.
Với chế độ thủy lực trung bình tháng nhiều năm,
chế độ xâm nhập mặn trong sông có thể rất khác so
với chế độ thủy lực hàng ngày của từng năm
cụ thể;
- Đối với năm 2012, xâm nhập mặn mùa khô
trong các tháng đầu năm diễn ra mạnh mẽ hơn hai
tháng cuối năm;
- Mặc dù xâm nhập mặn diễn ra mạnh mẽ vào
mùa khô, trong các tháng mùa khô đầu năm có rất
nhiều thời điểm nước sông có hàm lượng muối
thấp hơn 1ppt, có khả năng cung cấp nước cho sinh
hoạt và nông nghiệp;
- Mô hình dự báo có vai trò rất tốt trong xây
dựng chế độ bơm hút nước nhạt tại các vị trí trên
sông Trà Lý theo thời gian. Điều này có ý nghĩa
thực tế to lớn đối với việc cung cấp nước nhạt cho
khu vực hai huyện Tiền Hải và Thái Thụy là hai
huyện rất khó khăn về nguồn nước nhạt.
Ghi nhận: Bài báo được hoàn thành trong
khuôn khổ thực hiện đề tài "Nghiên cứu các hiện
tượng địa chất công trình động lực ảnh hưởng đến
ổn định của đập ngăn mặn trên sông Hóa, sông Trà
Lý tỉnh Thái Bình và hiện tượng xâm nhập mặn
nhằm đề xuất chế độ hoạt động (đóng mở cống)
phù hợp" năm 2012 - 2013.
10 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 582 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu xây dựng mô hình đánh giá dự báo xâm nhập mặn nước sông Trà Lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
21
36(1), 21-30 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2014
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ
DỰ BÁO XÂM NHẬP MẶN NƯỚC SÔNG TRÀ LÝ
NGUYỄN VĂN HOÀNG1, NGUYỄN THÀNH CÔNG2,
ỨNG QUỐC KHANG3, LÊ QUANG ĐẠO1
Email: N_V_Hoang_VDC@yahoo.com
1Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Viện Thủy công, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam
3Tổng cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Ngày nhận bài: 28 - 6 - 2013
1. Mở đầu
Thái Bình có trên 50 km đường bờ biển nên rất
nhiều sông lạch trên địa bàn tỉnh bị ảnh hưởng xâm
nhập mặn, đặc biệt sẽ mạnh mẽ hơn trong bối cảnh
biến đổi khí hậu làm gia tăng mực nước biển. Hàng
năm, tình trạng mặn xâm nhập sâu vào các cửa
sông vùng ven biển Thái Bình xảy ra mạnh mẽ tại
huyện Thái Thụy và Tiền Hải gây khó khăn cho
việc khai thác nước nhạt tại đây và nhiều vùng cao
hơn thuộc các huyện Hưng Hà, Vũ Thư, Đông
Hưng. Do tình trạng xâm nhập mặn vào sâu nội
đồng trên các sông Hồng, Trà Lý, Diêm Hộ, Thái
Bình - Hóa, nên nước các sông dẫn chính liên
huyện cung cấp nước như sông Việt Yên, sông
Hoài, Hoàng Nguyên, sông Bạch, Lâm Giang, Cốc
Giang lấy được ít nước, khi các trạm bơm tập trung
hoạt động mực nước xuống thấp, nhiều trục dẫn
vào trạm bơm không đủ nước bơm, thời gian bơm
chỉ được 3-4 giờ một ngày, nhiều trạm bơm thường
phải hoạt động ở điều kiện mực nước thấp hơn
mực nước thiết kế. Xâm nhập mặn các sông trên
địa bàn tỉnh không chỉ tác động xấu đến thủy lợi,
mà còn tác động rất tiêu cực đến công tác cấp nước
sinh hoạt do các huyện ven biển tỉnh Thái Bình chủ
yếu sử dụng nguồn nước mặt. Đặc biệt, trong bối
cảnh nước biển dâng do biến đổi khí hậu xâm nhập
mặn vào các sông sẽ kịch tính hơn [1].
Xây dựng được mô hình có khả năng dự báo
xâm nhập mặn các sông trên địa bàn tỉnh Thái Bình
sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác xây dựng chế độ
hoạt động của các trạm bơm hút nước sông nhạt
khi nước mặn rút ra biển và đóng các cống điều tiết
xâm nhập mặn khi nước mặn từ biển có xu thế xâm
nhập vào nội đồng.
2. Điều kiện thủy văn nước mặt khu vực
nghiên cứu
Các sông chính trên địa bàn tỉnh Thái Bình có
tiếp giáp với biển bao gồm sông Hồng, Trà Lý,
Diêm Hộ, Hoá-Thái Bình, trong đó sông Trà Lý là
sông chảy qua giữa tỉnh gần như theo hướng tây
tây bắc - đông đông nam với một vài đoạn uốn
cong, chiều dài khoảng 67 km [2]. Điểm đầu từ ngã
ba Phạm Lỗ nơi giáp ranh của xã Phú Phúc (huyện
Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) với hai xã Hồng Minh
(huyện Hưng Hà), Hồng Lý (huyện Vũ Thư) tỉnh
Thái Bình. Điểm cuối là cửa Trà Lý đổ ra biển
Đông, ranh giới giữa hai xã Thái Đô (huyện Thái
Thụy) và xã Đông Hải (huyện Tiền Hải).
Là phân lưu cấp I của sông Hồng, sông Trà lý
nhận nước từ bờ trái của sông Hồng tại cửa Phạm
Lỗ (Hồng Lý - Vũ Thư). Sông Trà Lý nằm hoàn
toàn trong tỉnh Thái Bình, chảy từ tây sang đông
với chiều dài 63 km, độ dốc lòng sông nhỏ, hệ số
uốn khúc khá lớn (1,55).
Dòng chảy năm: Tỉnh Thái Bình có tài
nguyên nước thuộc vào loại dồi dào, chủ yếu là
nguồn nước mặt từ các con sông lớn chảy vào
trung bình với module dòng chảy trung bình nhiều
năm vào khoảng từ 23,74 đến 24,28 l/s/km2. Nhìn
chung, lượng nước trung bình hàng năm trên lưu
vực biến đổi khá lớn và tùy thuộc vào từng sông,
năm nhiều nước nhất so với năm ít nước nhất gấp
từ 4 đến 5 lần. Trên các sông nhỏ trong tỉnh biến
22
động nước trung bình năm nhiều hơn do chịu ảnh
hưởng của lượng nước các sông chính và ảnh
hưởng của mực nước triều ven biển Lượng dòng
chảy phân bố không đều theo thời gian trong năm,
tập trung chủ yếu vào các tháng mùa lũ.
Dòng chảy mùa lũ: Mùa lũ trên các sông ở
Thái Bình từ tháng VI đến X. Lượng nước mùa lũ
chiếm trên 70%, có năm chiếm tới 90% tổng lượng
nước cả năm. Các tháng lũ lớn là tháng VII và
tháng IX, lượng nước chiếm 50 - 70% tổng lượng
nước cả năm. Chênh lệch giữa các tháng lượng
nước nhiều nhất và lượng nước ít nhất tới 10 lần,
có khi tới 55 lần. Số lần lũ trong năm và hàng
tháng biến động đáng kể, có thể gấp 2,5 lần. Cường
suất lũ lên cũng biến động mạnh mẽ trên sông Trà
Lý bình quân 5 cm/h, thời gian kéo dài một trận lũ
bình quân là 5 - 20 ngày. Theo tài liệu [3] nhiều
năm trên sông Trà Lý, trung bình 4 năm có một
trận lũ vượt trung bình, nếu tính những cơn lũ đặc
biệt lớn thì khoảng 30 năm xuất hiện một lần. Về
mùa lũ, lưu lượng lớn nhất trên sông Trà Lý tại
Thái Bình là 6.630 m3/s (ứng với 5,77 m). Tần suất
xuất hiện lưu lượng lớn nhất trên sông Trà Lý
tháng VII chiếm 23%, tháng 8: 29%, tháng IX:
12%, tháng X: 6%.
Dòng chảy mùa kiệt: Mùa kiệt trên lưu vực
kéo dài từ tháng X đến tháng V năm sau. Tổng
lượng dòng chảy trong suốt thời gian mùa kiệt chỉ
chiếm khoảng 31-36% tổng lượng dòng chảy trong
năm. Lưu lượng dòng chảy kiệt thường rất nhỏ,
phát sinh trong thời kỳ ít mưa hoặc không mưa.
Module dòng chảy mùa kiệt trung bình nhiều năm
vào khoảng 11-13 l/s/km2.
Mực nước triều: Mực nước ở hệ thống sông
ngòi trong tỉnh Thái Bình bị ảnh hưởng bởi chế độ
thủy triều là chế độ nhật triều, chu kỳ 24 giờ 50
phút, thời gian triều lên ngắn chỉ xấp xỉ 8 giờ, thời
gian triều xuống tương đối dài khoảng 16 giờ. Mỗi
tháng có hai kỳ triều cường, mỗi kỳ kéo dài 11 - 13
ngày xen kẽ hai kỳ nước kém, mỗi kỳ 2 - 4 ngày.
Kỳ nước kém thường xảy ra 2 - 3 ngày sau ngày
mặt trăng qua mặt phẳng xích đạo, mực nước lên
xuống ít, có lúc gần như đứng; trong những ngày
này thường có hai lần nước lớn, hai lần nước ròng
trong ngày nên còn gọi là ngày con nước sinh.
Nhìn chung thủy triều ở Thái Bình thuộc loại biên
độ lớn ở nước ta, trong một ngày biên độ triều
trung bình khoảng 150 - 180 cm, lớn nhất 270 cm,
nhỏ nhất khoảng 2 - 5 cm. Trong một năm biên độ
triều lớn xuất hiện vào mùa kiệt thường vào tháng
12 đến tháng 2.
Mực nước lũ: Mực nước lũ cao nhất xảy ra
trên sông Trà Lý phụ thuộc chủ yếu vào nước lũ
sông và thủy triều. Trên sông Trà Lý mực nước lũ
cao nhất tại Quyết Chiến là 6,45m xuất hiện ngày
22/8/1971, tại Định Cư là 2,75m xuất hiện ngày
24/7/1996. Càng gần phía biển mực nước cao nhất
thường bị chi phối bởi yếu tố triều mạnh hơn.
Mực nước lũ lớn nhất trên các sông ứng với các
tần suất khác nhau được xác định như bảng 1.
Bảng 1. Mực nước (cm) lũ lớn nhất trên sông Trà Lý
ứng với các tần suất
Tên Trạm 0,01% 0,1% 0,2% 0,5% 1% 2% 5% 10%
Định Cư 539 444 416 378 349 319 283 255
Quyết
Chiến 803 712 686 647 621 590 547 516
Thái Bình 568 501 483 456 435 411 384 359
Mực nước trung bình (TB) tháng nhiều năm
1989 - 2012, mực nước ngày năm 2012,... tại các
trạm trên sông Trà Lý đã được thu thập [3], phân
tích, xử lý và thể hiện trên các bảng 2-4.
Bảng 2. Mực nước (cm) tháng lớn nhất TB nhiều năm (1989 - 2012) trên sông Trà Lý
Trạm I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
Quyết Chiến 160 147 143 152 205 274 398 366 278 280 219 184
Thái Bình 161 146 135 143 180 211 280 268 211 211 196 185
Định Cư 174 152 139 145 168 176 192 178 174 187 185 186
Bảng 3. Mực nước (cm) trung bình tháng TB nhiều năm (1989 - 2012) trên sông Trà Lý
Trạm I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
Quyết Chiến 58 51 53 62 91 157 267 249 170 141 105 73
Tại biên
thượng lưu 50,9 44,2 26,3 39,2 42,3 66,3 108,2 194,9 182,0 121,2 108,2 78,8
Thái Bình 39 17 34 35 57 90 168 157 103 96 69 52
Định Cư 14 8 8 10 16 25 45 45 38 43 33 23
23
Bảng 4. Mực nước (cm) tháng nhỏ nhất TB nhiều năm (1989 - 2012) tại các trạm đo trên sông Trà Lý
Trạm I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
Quyết Chiến -5 -7 -6 3 13 71 154 146 86 85 28 8
Thái Bình -49 -50 -50 -43 -36 0 64 59 22 4 -23 -39
Định Cư -105 -106 -102 -99 -97 -82 -60 -55 -62 -69 -88 -100
Như vậy có thể thấy mực nước trung bình tháng
trung bình nhiều năm trên sông Trà Lý tại trạm
thủy văn Thái Bình, Tp. Thái Bình thấp hơn mực
nước biển trung bình (mực nước biển TB là 1,9
3m). Vì vậy, xâm nhập mặn vào nội đồng sông Trà
Lý xảy ra ngay cả ở điều kiện mực nước sông TB
tháng TB nhiều năm, mà quy mô và mức độ phụ
thuộc nhiều vào chế độ thủy triều.
3. Mô hình mô phỏng xâm nhập mặn sông
Trà Lý
3.1. Phần mềm mô hình thủy động lực học và môi
trường EFDC
EFDC là một phần mềm mô hình (MH) nước
mặt tổng hợp, có khả năng tính toán, dự báo và mô
phỏng các quá trình dòng chảy, lan truyền mặn, lan
truyền có tính đến các quá trình sinh - địa - hóa
trong sông, hồ, hồ chứa, các vùng cửa sông, vùng
đất ngập mặn hoặc đới bờ... Mô hình được xây
dựng và phát triển bởi Hamrick năm 1992 [5] dựa
trên các phương trình động lượng, nguyên tắc bảo
toàn khối lượng và bảo toàn thể tích.
Mô hình EFDC lần đầu tiên được xây dựng tại
Viện Khoa học biển Virginia với mục đích ứng
dụng vào các vùng cửa sông ven biển và đới bờ.
Sau đó, mô hình được phát triển và mở rộng khả
năng áp dụng rộng rãi trong các môi trường nước
mặt như các sông, hồ, vùng đất ngập nước...
Bên cạnh các khả năng tính toán, mô phỏng các
quá trình lan truyền nhiệt, lan truyền mặn và thủy
động lực học, mô hình EFDC còn có khả năng tính
toán và mô phỏng các quá trình vận chuyển trầm
tích, quá trình pha loãng chất ô nhiễm phạm vi gần
hoặc xa bờ từ các nguồn thải gây ô nhiễm, quá
trình phú dưỡng, quá trình lan truyền và phân hủy
các chất độc trong pha nước hoặc trầm tích,... Với
sự nâng cấp và hoàn thiện đặc biệt trong phần thủy
động lực học, ví dụ như việc có tính đến sức cản
của thực vật, quá trình làm khô, làm ướt, các đặc
trưng cấu trúc thủy học, sự tương tác lớp biên dòng
chảy sóng và dòng sinh sóng,... mô hình này có khả
năng đạt độ chính xác cao trong việc mô hình hóa
các hệ thống đầm lầy, đất ngập nước; kiểm soát
dòng chảy, các dòng sinh sóng gần bờ và các quá
trình vận chuyển trầm tích.
Kể từ khi xây dựng, phát triển cho đến nay, mô
hình EFDC đã và đang được kiểm nghiệm, ứng
dụng rộng rãi. Hiện nay, mô hình đang được sử
dụng ở nhiều cơ quan, tổ chức trên Thế giới như
các Viện nghiên cứu, các cơ quan nhà nước (Cục
môi trường Mỹ), các trường đại học và các tổ chức
tư vấn trong lĩnh vực mô hình hóa môi trường,
[6, 7].
3.2. Miền mô hình
Miền mô hình kéo dài từ thôn Thượng Đạt (xã
Đông Dương, huyện Đông Hưng) đến cửa Trà Lý
(hình 1). Một thông số đầu vào cần thiết là địa hình
miền mô hình. Các mặt cắt địa hình lòng sông đã
được thu thập [4] và được thể hiện trên hình 1.
Đối với mô hình dòng chảy sông lưới phù hợp
nhất là lưới cong. Để xây dựng được mô hình hình
học lưới cong miền mô hình đoạn sông đã lựa chọn
ta cần có các tệp số liệu đường bao miền mô hình,
đường chủ lưu (lạch chảy sâu nhất) và các đường
mặt cắt ngang sông (kích thước lưới theo chiều
lòng sông bằng đúng khoảng cách giữa các đường
mặt cắt này). Đồng thời, để nội suy địa hình lòng
sông cho tất cả các ô lưới miền mô hình, cần phải
nội suy thêm các mặt cắt lòng sông cho các khoảng
giữa các mặt cắt đã được đo. Đã sử dụng phần
mềm HEC-RAS để nội suy thêm các mặt cắt cách
nhau từng 150m (là các đường mặt cắt không có ký
hiệu trên hình 1). Sau đó sử dụng modul xử lý số
liệu và xây dựng mô hình hình học trong EFDC ta
xây dựng được mô hình lưới cong và sử dụng công
cụ nội suy cũng trong EFDC ta có được cốt cao địa
hình của tất cả các ô phần tử trong lưới mô hình
(hình 2). Mô hình gồm 2.840 ô và 7 lớp theo chiều
sâu (hình 3).
24
MC_325
MC_324
MC_323
MC_321
MC_319
MC_318
MC_317
MC_316
MC_315
MC_314
MC_313
MC_312 MC_311
MC_310
MC_309
MC_308
MC_307
MC_306
MC_305
MC_304
MC_303
MC_302
MC_320
MC_322
tr¹m TV §Þnh C−
tr¹m TV Th¸i B×nh 2500 Meters
Hình 1. Miền mô hình sông Trà Lý và vị trí mặt cắt địa hình
Hình 2. Địa hình lòng sông Trà Lý miền mô hình và lưới mô hình minh họa
Hình 3. Mực nước tại biên thượng lưu
25
3.3. Các điều kiện ban đầu và biên mô hình
Điều kiện ban đầu và điều kiện biên được xác
định cho khoảng thời gian mô hình như sau:
- Điều kiện ban đầu về mực nước trên miền mô
hình được xác định bằng cách sau. Tại cửa Trà Lý
có mực nước lấy bằng mực nước biển trung bình
trong khoảng thời gian mô hình. Mực nước tại
thượng lưu miền mô hình được nội suy theo mực
nước tại trạm thủy văn Thái Bình, trạm thủy văn
Quyết Chiến và khoảng cách giữa hai trạm thủy
văn này và vị trí thượng lưu miền mô hình. Mực
nước sông Trà Lý trên toàn bộ đoạn sông mô hình
được nội suy từ 3 giá trị mực nước tại trạm Định
Cư, Trà Lý (hình 1) và trạm Quyết Chiến (nằm
cách trạm Thái Bình 19,8 km về phía thượng lưu)
sẽ cho mực nước ban đầu.
- Điều kiện biên thủy lực: thượng lưu có dòng
chảy vào đã biết hoặc mực nước đã biết và mực
nước hạ lưu ứng với mực nước biển trong thời gian
mô hình.
Như vậy, mô hình số theo không gian hai chiều
theo x và y được xây dựng đã chứa cả thông tin về
độ cao đáy lòng sông miền mô hình. Về không
gian theo chiều thẳng đứng, đã chia ra 7 lớp nước
theo chiều sâu, có chiều dày bằng nhau trên mọi
phần tử (tức là chiều dày lớp nước trên phần tử
bằng 1/7 chiều dày cột nước tổng cộng trên phần tử
đó). Điều kiện ban đầu về mực nước (và chiều dày
cột nước) trên từng phần tử được nội suy bằng
modul nội suy trong EFDC explorer. Mọi phần tử
ở biên thượng lưu được gán cho điều kiện biên có
lưu lượng vào đã biết tỷ lệ theo diện tích thẳng
đứng của từng phần tử theo hướng vuông góc với
dòng chảy (thực hiện tự động bằng EFDC
explorer). Nồng độ muối ban đầu trên toàn miền
mô hình là 0,1g/l. Các phần từ biên hạ lưu có mực
nước đã biết đúng bằng mực nước tại biển và có
nồng độ muối bằng 33g/l. Bước thời gian mô hình
được lựa chọn theo yêu cầu độ chính xác của mô
hình số mà EFDC explorer đã được chọn là 2s.
4. Kết quả đánh giá dự báo xâm nhập mặn
4.1. Các trường hợp mô hình
Để đánh giá xâm nhập mặn sông Trà Lý nhằm
nghiên cứu quy mô xâm nhập mặn theo không gian
và thời gian một cách tổng quát ở các chế độ thủy
văn khác nhau, chúng ta xem xét các trường hợp
đặc trưng sau:
- Mùa lũ: xâm nhập mặn không là vấn đề do tại
Định Cư (cách cửa Trà Lý khoảng 4 km) có mực
nước lũ tần suất 10% là 2,55m (bảng 1) và mực
nước lũ lớn nhất trung bình nhiều năm các tháng
mùa mưa là 1,76m đến 1,92m, là các giá trị cao
hơn hẳn mực nước biển trung bình.
- Mực nước trung bình các tháng mùa mưa: tại
trạm Định Cư mực nước này có giá trị 0,25m đến
0,48m (bảng 2) cao hơn mực nước biển TB, nhưng
khi thủy triều lên xâm nhập mặn vào nội đồng là
hoàn toàn hiện thực.
- Mùa khô: mực nước tại trạm thủy văn Định
Cư và Thái Bình, thậm chí cả trạm Quyết Chiến
cũng thấp hơn mực nước biển TB nên xâm nhập
mặn vào sâu trong nội đồng thường xuyên xảy ra.
Sẽ tiến hành mô hình (MH) đánh giá xâm nhập
mặn trong vòng 1 năm đối với 02 trường hợp mực
nước: Mực nước trung bình tháng nhiều năm
(198902012) và mực nước hàng ngày năm 2012
(hình 3). Trong cả 2 trường hợp mô hình này, mực
nước biển tại biên hạ lưu mô hình được sử dụng là
mực nước biển theo giờ năm 2012 (hình 4).
Hình 4. Dao động triều theo giờ năm 2012 tại biên hạ lưu
26
4.2. Kết quả mô hình diễn biến xâm nhập mặn
4.2.1. Về vấn đề hiệu chỉnh kiểm định mô hình
Về việc hiệu chỉnh và kiểm định mô hình lan
truyền mặn có thể trình bày một số khía cạnh sau:
- Mô hình quan tâm đến phân bố nồng độ muối
ở dải tương đối thô (lớn hơn 1ppt và nhỏ hơn
1ppt). Trong khi đó nồng độ muối lớn hơn 1ppt có
thể đạt tới giá trị trên dưới 30ppt. Vì vậy, việc hiệu
chỉnh mô hình để đáp ứng yêu cầu sai số nồng độ
muối nhỏ, chẳng hạn 0,2ppt, có thể nói là không
cần thiết cho các bài toán thực tế lan truyền mặn từ
biển. Nếu hiệu chỉnh mô hình để đạt sai số nồng độ
muối khoảng 0,5ppt chẳng hạn, thì lại là sai số
tương đối lớn trong việc chỉnh lý MH.
- Xâm nhập mặn nước sông chủ yếu do cơ chế
chênh lệch tỷ trọng và chênh lệch mực nước, trong
MH ở đây là mực nước thượng lưu và mực nước
triều hạ lưu. Hai đại lượng này là giá trị thực tế nên
hầu như khó có lý do hiệu chỉnh MH qua hai giá
trị này.
- Thành phần phân tán trong lan truyền mặn
phụ thuộc vào vận tốc dòng chảy và là đại lượng
rất nhỏ so với thành phần đối lưu, hơn nữa trường
vận tốc phụ thuộc đáng kể vào biến đổi địa hình
lòng sông, trong khi địa hình lòng sông cũng rất
khó để thực hiện hiệu chỉnh.
Vì vậy, công tác hiệu chỉnh mô hình là một
khía cạnh rất bài bản khoa học, song đối với bài
toán thực tế này đóng góp không lớn. Hơn nữa, đo
mặn nước sông Trà Lý tại trạm thủy văn Định Cư
rất rời rạc, chỉ đo khi triều lên cao, trạm lại gần
biên phía biển, và đã dừng đo năm 2006 nên
hiệu chỉnh khó đạt yêu cầu. Do đó, trong khuôn
khổ bài báo chỉ tiến hành MH mô phỏng dự báo
diễn biến với các số liệu đầu vào về địa hình và
thủy lực là dữ liệu chính thống và có tính quyết
định chủ yếu diễn biến xâm nhập mặn, và với xâm
nhập mặn vào xa trong nội đồng hàng vài chục km
thì kết quả MH là rất tin cậy về mặt thực tiễn.
4.2.2. Đánh giá so sánh diễn biến xâm nhập mặn
theo 2 mô hình
Theo diễn biến mực nước hạ lưu mô hình thì
vào các tháng đầu mùa khô (tháng 11 và 12) mực
nước ngày năm 2012 cao hơn hẳn mực nước trung
bình tháng thời kỳ 1989 - 2012 nên xâm nhập mặn
theo mô hình mực nước năm 2012 sẽ yếu hơn hẳn
so với mô hình mực nước TB tháng thời kỳ 1989 -
2012. Vì vậy, sẽ so sánh đối với các tháng mùa khô
đầu năm.
Theo diễn biến mực nước sông Trà Lý thì mực
nước sông hàng năm thấp nhất vào các tháng 1-4
và 11-12. Trong các tháng 1-4 năm 2012 thì đợt có
triều cao nhất vào 21/1 và các tháng 11-12 năm
2012 đợt thủy triều cao nhất vào 14/12. Nồng đồ
muối trung bình theo chiều sâu của sông vào 2 thời
điểm xâm nhập mặn sâu nhất theo 2 mô hình nêu
trên thể hiện trên hình 5 và 6.
Hình 5. Xâm nhập mặn xa nhất (33,7 km) vào đầu năm - MH mực nước TB tháng nhiều năm 1989 - 2012
27
Hình 6. Xâm nhập mặn xa nhất (24 km) vào đầu năm - MH mực nước năm 2012
Như vậy có thể nhận thấy rằng:
- Đánh giá xâm nhập mặn theo số liệu mực
nước trung bình tháng cho diễn biến không sát với
thực tế;
- Ở cùng chế độ thủy triều, những dao động
dâng cao mực nước phía thượng lưu sẽ dẫn đến quá
trình đẩy lùi mặn về phía biển;
- Để đánh giá dự báo xâm nhập mặn, có lẽ tốt
hơn nên sử dụng số liệu mực nước ngày của các
năm đặc trưng (năm thủy văn trung bình, năm thủy
văn thấp, năm thủy văn cao,).
4.2.3. Đánh giá diễn biến xâm nhập mặn mô hình
năm 2012
Mô hình cho kết quả phân bố nồng độ muối
trong nước sông trên toàn bộ miền mô hình tại bất
kỳ thời điểm nào dưới dạng video hình ảnh (các
hình 5 và 7 trên đây chỉ là hình được trích từ video
hình ảnh đó). Người sử dụng có thể dùng nó để xác
định các thời điểm nước sông nhạt để khai thác. Để
minh họa, các đồ thị nồng độ muối trong nước theo
thời gian tại một số vị trí trên sông (hình 7) đã
được trích xuất và thể hiện trên các đồ thị trên
hình 8.
¸i Quèc-§«ng Trµ-TiÒn H¶i
Lîi Thµnh-§«ng Quý-TiÒn H¶i
L−¬ng Phó-T©y L−¬ng-TiÒn H¶i
Vò L¨ng-TiÒn H¶i
Lª Lîi-KiÕn X−¬ng
Hång TH¸i-KiÕn X−¬ng
Xãm 2-Trµ Giang-KiÕn X−¬ng
Xãm 1-Trµ Giang-KiÕn X−¬ng
Quèc TuÊn-KiÕn X−¬ng
Xãm 1-An B×nh-KiÕn X−¬ng
Hång H¶i-Vò T©y-KiÕn X−¬ng
2500 Meters
Hình 7. Vị trí các điểm thể hiện diễn biến mặn theo thời gian tháng 1 - 4 năm 2012
28
Hình 8. Dao động nồng độ muối trong nước sông Trà Lý mùa khô đầu năm 2012
Từ đây có thể rút ra một số nhận xét:
- Tại vị trí thôn Ái Quốc - Đông Trà - Tiền Hải
cách cửa sông khoảng 3 km, hầu hết thời gian nước
có hàm lượng muối cao trên 1ppt. Tuy nhiên, có rất
nhiều thời điểm (được cho bằng khoảng thời gian
ghi kết quả mô hình là 1h) hàm lượng muối tại đây
dưới 1ppt (tháng 1 có 47 thời điểm, tháng 2 có 160
thời điểm, tháng 3 có khoảng 152 thời điểm, tháng
4 có 155 thời điểm, trung bình mỗi tháng có 29
thời điểm, tức là trung bình mỗi ngày có 1
thời điểm);
- Tại vị trí thôn Lợi Thành - Đông Quý - Tiền
Hải cách cửa sông khoảng 5,2 km, hình thái dao
động hàm lượng muối trong nước sông tại đây
tương tự như điểm tại thôn Ái Quốc - Đông Trà -
Tiền Hải, với sự khác biệt nhỏ là thời gian nước
sông có hàm lượng muối dưới 1ppt trong các thời
điểm kéo dài hơn: tổng số thời điểm nước sông có
hàm lượng muối dưới 1ppt là 1235, tương đương
51,5 ngày, trung bình mỗi tháng có thời gian tương
đương 13 ngày nước sông có hàm lượng muối dưới
1ppt (hình 8).
0
20
40
60
80
100
120
140
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
T
ổn
g
th
ời
g
ia
n
tư
ơn
g
đư
ơn
g
(n
gà
y)
Vị trí
Hình 9. Thời gian nước sông có hàm lượng muối
nhỏ hơn 1ppt tại các vị trí (như ghi trong bảng 5: 1-Ái
Quốc; 2-Lợi Thành; 3-Lương Phú....)
Phân tích và tính toán tương tự cho các điểm
khác đã được tiến hành và kết quả thể hiện trong
bảng 5.
29
Bảng 5. Thời gian nước sông Trà Lý có hàm lượng muối dưới 1ppt tại các vị trí
Số thời điểm
Vị trí
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tổng
Tổng thời gian
tương đương (ngày)
1 Ái Quốc-Đông Trà-Tiền Hải 47 160 152 155 514 21,4
2 Lợi Thành-Đông Quý-Tiền Hải 226 333 368 477 1235 51,5
3 Lương Phú-Tây Lương-Tiền Hải 375 460 551 477 1863 77,6
4 Vũ Lăng-Tiền Hải 437 514 657 477 2180 90,8
5 Lê Lợi-Kiến Xương 571 565 723 477 2533 105,5
6 Hồng Thái-Kiến Xương 654 602 744 477 2707 112,8
7 Xóm 2-Trà Giang-Kiến Xương 681 624 744 477 2768 115,3
8 Xóm 1-Trà Giang-Kiến Xương 743 669 744 477 2876 119,8
9 Quốc Tuấn-Kiến Xương 743 696 744 477 2903 121,0
10 Xóm 1-An Bình-Kiên Xương 743 696 744 477 2903 121,0
11 Hồng Hải-Vũ Tây-Kiến Xương 743 696 744 477 2903 121,0
5. Nhận xét-kết luận
Thái Bình là một tỉnh có địa hình thấp nhất ở
đồng bằng Bắc Bộ nên ảnh hưởng của nước biển
đến xâm nhập mặn các sông trong tỉnh là rất mạnh,
đặc biệt là sông Trà Lý. Từ các kết quả trên, có thể
rút ra các nhận xét-kết luận sau:
- Chế độ xâm nhập mặn sông Trà Lý có tính
đặc thù phụ thuộc vào chế độ thủy lực hàng ngày.
Với chế độ thủy lực trung bình tháng nhiều năm,
chế độ xâm nhập mặn trong sông có thể rất khác so
với chế độ thủy lực hàng ngày của từng năm
cụ thể;
- Đối với năm 2012, xâm nhập mặn mùa khô
trong các tháng đầu năm diễn ra mạnh mẽ hơn hai
tháng cuối năm;
- Mặc dù xâm nhập mặn diễn ra mạnh mẽ vào
mùa khô, trong các tháng mùa khô đầu năm có rất
nhiều thời điểm nước sông có hàm lượng muối
thấp hơn 1ppt, có khả năng cung cấp nước cho sinh
hoạt và nông nghiệp;
- Mô hình dự báo có vai trò rất tốt trong xây
dựng chế độ bơm hút nước nhạt tại các vị trí trên
sông Trà Lý theo thời gian. Điều này có ý nghĩa
thực tế to lớn đối với việc cung cấp nước nhạt cho
khu vực hai huyện Tiền Hải và Thái Thụy là hai
huyện rất khó khăn về nguồn nước nhạt.
Ghi nhận: Bài báo được hoàn thành trong
khuôn khổ thực hiện đề tài "Nghiên cứu các hiện
tượng địa chất công trình động lực ảnh hưởng đến
ổn định của đập ngăn mặn trên sông Hóa, sông Trà
Lý tỉnh Thái Bình và hiện tượng xâm nhập mặn
nhằm đề xuất chế độ hoạt động (đóng mở cống)
phù hợp" năm 2012 - 2013.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Nguyễn Văn Hoàng, Lê Quang Đạo,
Nguyễn Thị Thu Vân, Ứng Quốc Khang, 2011: Ảnh
hưởng của nước biển dâng đến xâm nhập mặn
nước sông Hồng. Tuyển tập báo cáo Hội nghị
Khoa học và Công nghệ biển lần thứ V-20-
22/10/2011. Quyển 5: Sinh thái, Môi trường và
Quản lý biển, tr.465-474.
[2] Nguyễn Văn Hoàng, 2012: Báo cáo tổng kết
Đề tài: Nghiên cứu, đánh giá tác động của biến đổi
khí hậu tới tỉnh Thái Bình, đề xuất các giải pháp
thích ứng, giảm thiểu thiệt hại. Viện Địa chất-Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
[3] Các tài liệu khí tượng thủy văn lưu trữ tại
Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương
năm 2013.
[4] Địa hình lòng sông Trà Lý, 2006: Tài liệu
điều tra cơ bản Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn.
[5] Hamrick, J. M., 1992: A three-dimensional
environmental fluid dynamics computer code:
Theoretical and computational aspects. The
College of William and Mary, Virginia Institute of
Marine Science, Special Report 317, 63 pp.
[6] Craig, Paul M., 2009: User’s Manual for
EFDC_Explorer: A Pre/Post Processor for the
Environmental Fluid Dynamics Code, Dynamic
Solutions-International, LLC, Knoxville, TN,
November, 2009.
[7] EFDC-explorer web version.
30
SUMMARY
Study of Tra Ly river salt intrusion modeling for assessment of salt intrusion prediction
Thai Binh province has the lowest ground surface among the Bac Bo plain provinces so sea water intrusion into its
rivers is strong, including Tra Ly river flowing through he province's central region. The paper presents study of sea
water intrusion into Tra Ly river by numerical modeling. The results have shown that sea waster intrusion into Tra Ly
river is specific and dependent upon the daily hydraulic conditions of the river along with tidal regime. For long period
average monthly hydraulic conditions of the river, the sea water intrusion scenario may be very much different from the
actual specific daily hydraulic conditions. For 2012 year, sea water intrusion into Tra Ly river during January to April is
more severe than November and December. Although sea water intrusion strongly occurs during dry season, there are
many time intervals during January-April when the river water has salt concentration lower than 1ppt, which is well to
serve domestic and agricultural water demand. The prediction model would have good role in construction of fresh water
pumping schedule from different locations of Tra Ly river in future.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4134_34299_1_pb_0445_2100703.pdf