KẾT LUẬN
Quy trình tưới kết hợp với bón phân cho cây
dứa tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
được đề xuất trên cơ sở kết hợp giữa lý thuyết
và thực tiễn, trong đó có xem xét đến các điều
kiện đặc trưng về canh tác, khí hậu, thổ
nhưỡng của vùng này.
Quy trình sẽ giúp người dân áp dụng đồng bộ
các công nghệ tiên tiến trong tưới nước, kết
hợp canh tác, bón phân tạo ra những sản
phẩm chất lượng cao, chi phí thấp hơn giúp
tăng hiệu quả sản xuất dứa một cách bền
vững.
Quy trình là công cụ hữu ích hỗ trợ ra quyết
định cho người dân, chính quyền địa phương
và các cơ quan bộ ngành trong quá trình sản
xuất, thiết kế, quy hoạch, xây dựng cơ chế
chính sách phát triển cây dứa hướng đến mục
đích xuất khẩu
Quy trình này đã được áp dụng tại các trang
trại/mô hình khu vực Đồng ĐBSCL, đã cho
hiệu quả cao như tăng năng suất, giảm được
công lao động, lượng nước tưới và lượng
phân bón. Việc áp dụng quy trình này cũng
giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi
trường, tránh rửa trôi phân xuống kênh rạch,
giảm lượng phân bón cho cây dứa.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu xây dựng quy trình tưới hợp lý kết hợp với bón phân cho cây dứa tại các vùng trồng tập trung khu vực đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 62 - 2020 1
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG QUY TRÌNH TƯỚI HỢP LÝ KẾT HỢP
VỚI BÓN PHÂN CHO CÂY DỨA TẠI CÁC VÙNG TRỒNG TẬP TRUNG
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Nguyễn Gia Vượng, Phạm Thị Phương Thảo
Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường
Tóm tắt: Dứa là cây trồng khá phổ biến tại Việt Nam, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long là khu
vực có diện tích và sản lượng lớn nhất cả nước. Trong sản xuất dứa, tưới hợp lý kết hợp với bón
phân là một giải pháp không chỉ giúp tiết kiệm nước, phân bón mà còn giúp giảm chi phí sản xuất,
giảm thiểu rủi ro, sâu bệnh và hạn hán, nâng cao năng suất và chất lượng từ đó giúp nâng cao
giá trị dứa một cách bền vững. Tuy nhiên, hiện chưa có quy trình nào được công bố nên người
dân chủ yếu dựa vào kinh nghiệm để thực hiện việc tưới nước, bón phân dẫn đến hiệu quả không
cao, thậm chí gây tác động tiêu cực đến canh tác dứa, ảnh hưởng chất lượng quả khi cung cấp
cho thị trường trong nước và quốc tế. Bài báo này giới thiệu kết quả nghiên cứu xây dựng quy
trình tưới hợp lý kết hợp với bón phân cho cây dứa tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nhằm
phục vụ tốt nhất về công tác tưới và bón phân cho cây dứa của người dân, các công việc có liên
quan của cơ quan nhà nước, các nhà khoa học,
Từ khóa: tưới nhỏ giọt, bón phân, cây dứa, Đồng bằng sông Cửu Long, quy trình.
Summary: Pineapple is a fairly common crop in Vietnam, of which, the Mekong River Delta is
the region with the largest area and production in the country. In pineapple production, proper
irrigation combined with fertilizing is a solution that not only saves water and fertilizer but also
helps reduce production costs, reduce risks, pests and drought, improve productivity and the
quality, this helps to enhance the value of pineapple in a sustainable way. However, there has not
been any published process yet so people mainly rely on their experiences to carry out irrigation
and fertilizing, resulting in low efficiency, even causing negative impacts on pineapple cultivation,
influencing the quality of fruits when supplying to domestic and international markets. This paper
introduces the results of research on drip irrigation process combined with inorganic fertilizer for
the pineapple in the Mekong River Delta to best serve the irrigation and fertilization of pineapple
of the people, the related work of state agencies, scientists,etc
Key words: drip irrigation, fertilization, pineapple plant, Mekong Delta, proces
1. ĐẶT VẤN ĐỀ *
Cây dứa tại Việt Nam được trồng từ miền Bắc
đến miền Nam, từ đồng bằng đến miền núi,
trong đó Đồng bằng sông Cửu Long (Tây Nam
Bộ) là khu vực có diện tích trồng tập trung lớn
nhất cả nước. Tuy nhiên, cây dứa Việt Nam
hiện chưa được quan tâm đúng mức trong chăm
sóc (tưới nước, bón phân,) dẫn đến năng suất,
Ngày nhận bài: 31/8/2020
Ngày thông qua phản biện: 27/9/2020
sản lượng và chất lượng không cao. Theo thống
kê từ ngân hàng dữ liệu trực tuyến của FAO
(FAOSTAT 2019), tính đến hết năm 2018, tổng
diện tích dứa của Việt Nam đứng thứ 9 thế giới
nhưng sản lượng chỉ đứng thứ 14. Thị trường
tiêu thụ dứa Việt Nam chủ yếu ở trong nước và
xuất khẩu qua Trung Quốc theo đường tiểu
ngạch, trong đó, một trong các nguyên nhân
Ngày duyệt đăng: 08/10/2020
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 62 - 2020 2
chính là chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu
của các nước nhập khẩu.
Thực tế trong canh tác dứa tại Việt Nam thì
khâu tưới chưa được chú trọng, chủ yếu dựa
vào điều kiện thiên nhiên sẵn có. Khu vực miền
núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ hầu hết người
dân không tưới mà hoàn toàn dựa vào nước
mưa. Tại Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL), người dân sử dụng xuồng để bơm
nước từ kênh rạch tưới dứa, tuy nhiên việc tưới
nước chủ yếu phục vụ thời gian bón phân, chưa
có sự quan tâm về chế độ tưới cho các giai
đoạn trong chu kỳ phát triển của cây dứa. Một
số nghiên cứu tưới tiết kiệm nước cho cây dứa
tại khu vực miền núi phía Bắc và Bắc Trung
Bộ, đã chứng minh được hiệu quả khi cung cấp
đủ nước cho các thời kỳ sinh trưởng của cây
dứa, tuy nhiên chưa có nghiên cứu về tưới kết
hợp với bón phân; riêng khu vực ĐBSCL thì
đến nay chưa có nghiên cứu nào về tưới cho
cây dứa. Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy
tưới hợp lý kết hợp với bón phân là một giải
pháp không chỉ giúp sản xuất dứa tiết kiệm
nước và phân bón mà còn giúp giảm chi phí
sản xuất, quản lý rủi ro, sâu bệnh và hạn hán,
nâng cao năng suất và chất lượng từ đó giúp
nâng cao giá trị cây dứa một cách bền vững.
Do vậy rất cần thiết có các nghiên cứu về tưới
kết hợp với bón phân cho cây dứa tại Việt Nam
nói chung và khu vực ĐBSCL nói riêng.
Nằm trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu khoa
học trọng điểm cấp Bộ “Nghiên cứu quy trình
tưới hợp lý kết hợp với bón phân cho một số cây
trồng chủ lực”, nhóm nghiên cứu thuộc Viện
Khoa học Thủy lợi Việt Nam đã tiến hành điều
tra, nghiên cứu, khảo nghiệm tại mô hình và xây
dựng quy trình tưới nhỏ giọt kết hợp với bón
phân cho cây dứa tại khu vực ĐBSCL. Kết quả
cho thấy, khi áp dụng quy trình kỹ thuật này, tất
cả các hộ trồng dứa đều giảm được lượng nước
tưới, giảm nhân công, giảm được lượng phân
bón nếu so sánh với các biện pháp tưới và bón
phân truyền thống đang áp dụng tại địa phương,
trong khi sức khỏe cây dứa được đảm bảo, năng
suất dứa được cải thiện. Quy trình này đã được
Tổng Cục Thủy lợi công nhận là tiến bộ kỹ
thuật vào tháng 6 năm 2020 để áp dụng và thực
tiễn sản xuất dứa cho khu vực ĐBSCL và những
vùng có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng tương
tự.
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
Để xây dựng được quy trình, nhóm thực hiện đã
thực hiện các nội dung nghiên cứu như sau:
- Nghiên cứu hiện trạng sản xuất dứa: giống, bố
trí đồng ruộng, tưới và bón phân,; điều kiện
tự nhiên; kỹ thuật canh tác dứa tại ĐBSC;
- Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng và sinh lý
nước của cây dứa;
- Kế thừa, tổng hợp, phân tích đánh giá các kết
quả nghiên cứu về tưới và bón phân đã được
thực hiện;
- Khảo sát, điều tra tổng kết kinh nghiệm của
người dân/doanh nghiệp về tưới và bón phân
cho cây dứa tại các vùng tập trung;
- Tính toán chế độ tưới cho cây dứa bằng phần
mềm CROPWAT có xét đến đặc trưng về thổ
nhưỡng, khí tượng và quy trình sản xuất;
- Nghiên cứu khảo nghiệm tưới kết hợp với bón
phân cho cây dứa chu kỳ khai thác thứ nhất tại
huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang;
- Tổng hợp, đề xuất quy trình tưới (chế độ và kỹ
thuật tưới) hợp lý kết hợp bón phân cho cây dứa
chu kỳ khai thác thứ nhất.
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu mà nhóm thực
hiện đã áp dụng bao gồm:
- Phương pháp kế thừa: Kế thừa các nghiên
cứu về tưới kết hợp bón phân cho cây trồng của
các nước trên thế giới như Trung Quốc,
Israel. Kế thừa các nghiên cứu, quy trình kỹ
thuật về tưới và bón phân cho dứa đã được các
cơ quan, tổ chức nghiên cứu trong nước ban
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 62 - 2020 3
hành hoặc công bố.
- Phương pháp điều tra khảo sát: Nhóm thự
hiện đã áp dụng phương pháp điều tra khảo sát,
thu thập tổng kết kinh nghiệm thực tế của người
dân, doanh nghiệp về bố trí đồng ruộng, tưới,
bón phân và phòng chống hạn hán cho cây dứa
tại các vùng trồng tập trung.
- Phương pháp chuyên gia: Trong quá trình
nghiên cứu, các chuyên gia được tham vấn ý
kiến thường xuyên đến từ Viện Khoa học Thủy
lợi Việt Nam, Trường Đại học Thủy lợi, Viện
Nghiên cứu Rau quả trung ương,
- Phương pháp phân tích trong phòng thí
nghiệm: Tiến hành phân tích các mẫu đất, nước
lấy tại mô hình khảo nghiệm.
- Phương pháp sử dụng phần mềm: Nhóm
thực hiện đã sử dụng phần mềm Cropwat để
tính toán nhu cầu nước cho cây dứa. Ngoài ra,
nhóm đã sử dụng phần mềm Mgreen để theo
dõi, quan trắc theo thời gian thực (realtime) các
yếu tố khí tượng và diễn biến độ ẩm trong đất
sau mỗi đợt tưới để thực hiện việc tưới một cách
chủ động, kịp thời.
- Phương pháp khảo nghiệm đồng ruộng:
Mô hình khảo nghiệm được xây dựng tại xã
Thạnh Tân, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang
- là địa điểm nằm trong vùng trọng điểm trồng
dứa trên đất phèn vùng Đồng Tháp Mười khu
vực ĐBSCL.
3. KẾT QUẢ
3.1. Tính toán nhu cầu nước lý thuyết cho cây
dứa
Trong vòng đời từ lúc trồng đến khi hái quả, cây
dứa trải qua 5 giai đoạn phát triển. Thời gian từ
lúc trồng đến khi thu hoạch có thể chênh lệch
với nhau 2-5 tháng do phụ thuộc vào (i) giống;
(ii) nguồn chồi: lấy từ chồi ngọn hay chồi thân;
(ii) cách trồng: trồng từ khi tách chồi hay đem
giâm sau đó mới trồng và (iv) chăm sóc: trong
đó gồm tưới và bón phân. Nếu bằng phương
pháp tách chồi (phổ biến hiện nay) thì trung
bình thời gian là 18 tháng tính từ lúc tách chồi
đem trồng đến khi thu hoạch với 5 giai đoạn như
bảng sau:
Bảng 1: Các giai đoạn sinh trưởng trong
vòng đời của cây dứa
TT Giai đoạn sinh trưởng Số ngày
1. Cây non 30
2. Sinh trưởng sinh dưỡng 335
3. Ra hoa 30-35
4. Nuôi quả 120-150
5. Thu hoạch 30
Tổng 545 ngày
(18 tháng)
Sử dụng phần mềm Cropwat 8.0 do Tổ chức
Nông nghiệp và Lương thực Liên hợp quốc
(FAO) khuyến cáo để tính toán chế độ tưới cho
cây dứa khu vực này với các thông số đầu vào
như sau:
- Nhiệt độ, độ ẩm không khí, tốc độ gió, số giờ
nắng trong ngày lấy theo giá trị trung bình tháng
của nhiều năm (30 năm gần đây) của trạm Mộc
Hóa (Long An) – là trạm gần mô hình nhất;
- Xây dựng mô hình mưa thiết kế ứng với tần
suất 75%; số liệu mưa được lấy tại trạm Mộc
Hóa với liệt tài liệu là 30 năm.
- Kc: Lấy theo khuyến cáo Kc cho cây dứa
trong TCVN 9170:2012: Hệ thống tưới tiêu -
Yêu cầu kỹ thuật tưới bằng phương pháp phun
mưa; chọn Kc cho các giai đoạn như sau: Cây
non: 0,4; Sinh trưởng sinh dưỡng, Ra hoa và
Nuôi quả: 0,5; Thu hoạch: 0,45;
- Tài liệu đất được lấy theo kết quả thí nghiệm
tại mô hình.
Kết quả tính toán chế độ tưới lý thuyết các giai
đoạn trong một năm cho cây dứa chu kỳ khai
thác thứ nhất, trồng vào cuối tháng 4 đầu tháng
5 tại khu vực ĐBSCL như sau: Cây non: 356
m3/ha; Sinh trưởng sinh dưỡng: 1.382 m3/ha;
Ra hoa và Nuôi quả: 240 m3/ha; Thu hoạch: 0;
Tổng một năm là: 1.978 m3/ha.
3.2. Kết quả khảo nghiệm tại mô hình
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 62 - 2020 4
a. Bố trí khảo nghiệm
Toàn bộ khu khảo nghiệm có diện tích là 1,35ha
ấp 1 xã Thanh Tân huyện tân Phước tỉnh Tiền
Giang, được phân thành 4 khu, bao gồm 3 khu
tưới nhỏ giọt (khu A, B, C) và 1 khu tưới đối
chứng (khu ĐC). Mỗi khu tưới nhỏ giọt sẽ chia
thành 3 lô để khảo nghiệm 3 công thức tưới M1,
M2 và M3 để đảm bảo số lần lặp; khu đối chứng
sẽ tưới theo cách hiện tại của người dân địa
phương đang tưới.
Việc bố trí thiết bị tưới được lựa chọn trên cơ
sở phân tích điều kiện địa hình, đường kính tán,
chiều sâu bộ rễ, Kết qủa lựa chọn là kỹ thuật
nhỏ giọt rải dây, thiết bị của Netafim (Israel),
mỗi hàng có một dây tưới chạy dọc hàng, sát
gốc dứa (dây tưới nhỏ giọt Dripnet, khoảng
cách vòi 0,3m, lưu lượng một vòi 1,05 lít/h),
khu tưới đối chứng ĐC sẽ để người dân tự tưới
theo cách truyền thống là tưới dí gốc bằng vòi
tưới cầm tay, hút nước trực tiếp bằng bơm
thuyền từ kênh chạy dọc liếp dứa.
Thực hiện khảo nghiệm 3 công thức tưới nhỏ giọt
trên cơ sở công thức tưới giữ ẩm ght-ghd, trong đó:
- ght: độ ẩm giới hạn trên, được lấy bằng độ ẩm
tối đa đồng ruộng đr (tính theo % trọng lượng
đất khô);
- ghd: độ ẩm giới hạn dưới, được lấy theo 3 giá
trị bằng 65%, 70% và 75%đr đối với giai đoạn
cây non và 60%, 70% và 80%đr đối với các
giai đoạn còn lại của cây dứa.
Tại mô hình cũng sẽ tiến hành bón phân qua hệ
thống tưới, do các cơ quan tỉnh Tiền Giang
không phát hành khuyến cáo về bón phân nên
nhóm tác giả sử dụng khuyến cáo của Trung tâm
khuyến nông tỉnh Hậu Giang (cũng là một tỉnh
có diện tích dứa lớn tại ĐBSCL). Tuy nhiên, do
bón qua hệ thống tưới sẽ làm tăng hiệu quả sử
dụng phân bón nên lượng bón các loại phân đa
lượng N, P2O5 và K2O sẽ điều chỉnh giảm so với
phương pháp truyền thống như sau: phân N giảm
15; phân K2O giảm 15%
b. Kết quả khảo nghiệm
Từ các kết quả thí nghiệm đất và kiểm tra chiều
sâu bộ rễ, đường kính tán, tiến hành tính toán
mức tưới mỗi lần của ba công thức Saccso -
Ardro như sau:
m=100*k*H*f*(ght-ghd)
Trong đó:
o k: Dung trọng khô của đất (T/m3);
o ght, ghd, đr: Độ ẩm giới hạn trên, độ ẩm giới
hạn dưới, và độ ẩm tối đa đồng ruộng, tính theo
% trọng lượng đất khô;
o H: Chiều sâu lớp đất cần làm ẩm theo kế
hoạch (m);
o B: Bề rộng làm ẩm dọc dây tưới nhỏ giọt
theo kế hoạch (m);
o f: Tỷ lệ % diện tích đất cần làm ẩm theo kế hoạch
(được xác định bằng thí nghiệm hiện trường)
Bảng 2: Mức tưới theo các công thức khác nhau tại mô hình dứa Tiền Giang
Công thức tưới
đr ghd B L H γk
f
M tưới
(%) (%) (m) (m) (m) (T/m3) m3/ha l/gốc
Giai đoạn cây non
M1 (65-100% đr) 35,37 22,99 0,3 0,3 0,2 1,08 0,365 97,2 2,4
M2 (70-100% đr) 35,37 24,76 0,3 0,3 0,2 1,08 0,365 83,3 2,1
M3 (75-100% đr) 35,37 26,53 0,3 0,3 0,2 1,08 0,365 69,5 1,7
Giai đoạn Sinh trưởng sinh dưỡng đến Thu hoạch
M1 (60-100% đr) 35,37 21,22 0,3 0,3 0,2 1,08 0,365 111,1 2,7
M2 (70-100% đr) 35,37 24,76 0,3 0,3 0,2 1,08 0,365 83,3 2,1
M3 (80-100% đr) 35,37 28,30 0,3 0,3 0,2 1,08 0,365 55,6 1,4
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 62 - 2020 5
Căn cứ mức tưới mỗi lần cho mỗi công thức
được tính toán ở trên, tiến hành tưới nhỏ giọt
cho các lô thuộc 03 khu theo 03 công thức tưới
này. Tại các lô tưới đã được lắp đặt hệ thống
quan trắc độ ẩm đất tự động bằng các cảm biến
(sensor), khi độ ẩm của lô đạt đến ghd sẽ tiến
hành tưới đợt tiếp theo để đạt được ght như
bảng 1.
Hình 1: Diễn biến độ ẩm đất của các công
thức khảo nghiệm tại mô hình dứa Tiền Giang
Qua một chu kỳ khai thác năm thứ nhất, từ khi
trồng đến khi thu hoạch, cho thấy số lần tưới
của các công thức theo từng tháng/giai đoạn có
sự thay đổi. Tháng thứ nhất sau trồng là giai
đoạn cây non chưa bước vào thời kỳ mưa nhiều
tại Tây Nam Bộ, số lần tưới tăng, mức tưới nhỏ
hơn các lần tưới của giai đọan sau do giai đoạn
này cần duy trì độ ẩm nhưng không lớn quá để
cây có thể ra rễ nhanh và tránh thối rễ non. Từ
tháng thứ 5 đến tháng thứ 9 sau khi trồng do
lượng mưa hiệu quả lớn hơn lượng bốc hơi mặt
ruộng, không cần tưới. Giai đoạn từ tháng 10
đến tháng 4 năm sau, là những tháng mùa khô,
cần phải tăng cường tưới theo mức tưới như trên
để tránh cây bị thiếu nước, ảnh hưởng đến sinh
trưởng và phát triển của cây. Không tưới trong
giai đoạn giai đoạn nuôi quả vì trùng vào mùa
mưa tai ĐBSCL và giai đoạn thu hoạch. Bên
cạnh các lô tưới nhỏ giọt được theo dõi ẩm bằng
sensor, lô đối chứng tưới bằng bơm thuyền
truyền thống cũng được theo dõi đầy đủ. Tổng
hợp kết quả theo dõi qua chu kỳ khai thác thứ
nhất tại mô hình khảo nghiệm như sau:
Bảng 3: Tổng hợp kết quả theo dõi tưới tại mô hình
TT Nội dung
Công thức tưới
M1 M2 M3 ĐC
1 Số lần tưới 16 24 39 21
2 Mức tưới mỗi lần - giai đoạn cây non (lít/gốc) 2,4 2,1 1,7 3,0
3 Mức tưới 1 lần quy đổi ra ha (m3/ha) - giai
đoạn cây non 97 83 69 122
4 Mức tưới mỗi lần (lít/gốc) - các giai đoạn còn
lại 2,7 2,1 1,4 4,0
5 Mức tưới 1 lần quy đổi ra ha (m3/ha) - các
giai đoạn còn lại 111 83 56 162
6 Tổng lượng tưới quy đổi ra ha (m3/ha) 1.736 2.000 2.237 3.240
Ghi chú: Trong bảng trên, quy đổi ra ha trên cơ sở mật độ 40.500 gốc/ha của mô hình.
Hình 3: Hình ảnh mô hình dứa Tiền Giang
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 62 - 2020 6
Tại mô hình, trước khi trồng tiến hành bón lót
1,5 tấn phân hữu cơ+600 kg phân lân cho 1ha.
Sau khi trồng, tiến hành bón phân trực tiếp và
qua hệ thống tưới, lượng phân bón hóa học các
lần bón được quy đổi về phân đơn N, P2O5 và
K2O; qua một năm, kết quả bón phân cho mô
hình như sau:
Bảng 4: Tổng hợp kết quả bón phân tại mô hình
Đợt
bón
Tháng
Số lần
bón
Lượng bón mỗi lần (quy đổi ra
nguyên chất-kg/ha) Ghi chú
N P2O5 K2O
1
5
2 68,9 283,5 0,0
N: bón trực tiếp vào gốc 1 lần
P2O5: bón qua hệ thống tưới
2 7 2 10,3 68,9 Bón qua hệ thống tưới
3 9 2 10,3 103,3 như trên
4 11 2 6,9 103,3 như trên
Tổng 96,4 283,5 275,4
Trong ba loại phân trên, tiến hành bón qua hệ
thống tưới với đạm ure và kali thương phẩm vì
hai loại này hòa tan rất tốt trong nước, lượng
phân bón giảm 15% so với khuyến cáo bón theo
cách truyền thống; phân lân được bón một lần
bằng tay trực tiếp vào gốc.
Với chế độ tưới và bón phân như trên, qua một
chu kỳ theo dõi tại mô hình, kết quả như sau:
- Xét về tổng lượng nước tưới: nếu lấy tổng
lượng tưới của khu đối chứng với công thức
tưới ĐC (tưới bằng phương pháp thủ công bơm
thuyền) là cơ sở để so sánh thì các kết quả tổng
hợp cho thấy, công thức tưới M1 chỉ tưới bằng
53,6%, công thức tưới M2 bằng 61,7% và công
thức tưới M3 bằng 69,0% so với tưới truyền
thống.
- Xét về năng suất: nếu lấy năng suất của khu
đối chứng ĐC là mốc so sánh thì năng suất của
các khu tưới nhỏ giọt đều tăng đáng kể so với
tưới đối chứng bằng xuồng, cụ thể các lô của
công thức M1 tăng 18,1%, công thức M2 tăng
20,2% và công thức M3 tăng 18,2%.
- So với các khu tưới nhỏ giọt, khu tưới thủ
công mất nhiều công tưới hơn;
- Tưới nhỏ giọt rút ngắn được thời gian sinh
trưởng của cây dứa so với tưới đối chứng, có
thể xử lý ra hoa trước 0,5-1 tháng, qua đó có thể
triển khai vụ kế tiếp sớm hơn.
Từ các kết quả khảo nghiệm tại khu mô hình
cho thấy biện pháp tưới nhỏ giọt có nhiều ưu
điểm so với truyền thống tưới xuồng tại khu vực
Tây Nam Bộ và kỹ thuật này cũng phù hợp với
tưới kết hợp với bón phân cho cây dứa. Trong
các công thức tưới nhỏ giọt thì công thức giữ
ẩm M2 (70-100%đr) cho năng suất cao nhất,
mặc dù không phải là công thức tiêu tốn lượng
nước cao nhất.
4. ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH
4.1. Cơ sở đề xuất quy trình
Để khuyến cáo chế độ tưới cho khu vực
ĐBSCL, nhóm thực hiện đề tài tiến hành xem
xét theo từng thời đoạn sinh trưởng trong chu
kỳ khai thác thứ nhất (vụ 1) của cây dứa với các
yếu tố đầu vào bao gồm:
- Kết quả tính toán nhu cầu tưới lý thuyết bằng
phần mềm Cropwat;
- Kết quả khảo nghiệm tại mô hình (theo công
thức M2 (70-100% đr);
- Kinh nghiệm thực tế của người dân
Tổng hợp các kết quả tính toán, khảo nghiệm và
đề xuất được tổng hợp như bảng sau:
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 62 - 2020 7
Bảng 5: Tổng hợp nhu cầu tưới/tổng lượng tưới khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
Giai đo nạ Tháng Ngày
Tiính toán
nhu c u ầ
tư i lý ớ
thuy tế
(t nhỉ Ti n ề
Giang làm
đ i di n)ạ ệ
(m3/ha)
Kinh
nghi m ệ
c a ủ
ngư i ờ
dân
(m3/ha)
Mô hình
(m3/ha)
Đ xu tề ấ
(m3/ha) K t qu ế ả
kh o ả
nghi mệ
Ki m ể
nghi m nhu ệ
c u tầ ư i lý ớ
thuy tế
Cây non 5 30 356 486 333 374 340-425
Sinh
trư ng ở
sinh
dư ngỡ 6-4 335 1.382
2.592
1.500
1.389
1.360-
1.530
Ra hoa và
Nuôi quả 5-8 210 240 167
177 170-255
Thu ho chạ 9-10 30 - 0
- 0
T ngổ 18 545 1.978
3.078 2.000 1.940
1.900-
2.200
4.2. Nội dung quy trình đề xuất
Chế độ tưới nhỏ giọt rải dây kết hợp với bón
phân cho cây dứa chu kỳ khai thác thứ nhất
được đề xuất như bảng sau: (thời điểm bắt bắt
đầu trồng vào tháng 5÷6 hàng năm)
Bảng 6: Chế độ tưới kết hợp với bón phân dứa khu vực Tây Nam Bộ
sử dụng kỹ thuật tưới nhỏ giọt, không tủ gốc
Giai đo n ạ
sinh
trư ngở
Ch ế đ tộ ư iớ Bón phân
Th i ờ
gian
(ngày
)
Kho ng ả
th i ờ
gian
(ngày
th )ứ
M c ứ
tư iớ
(m3/ha
/
l n)ầ
Th i gian gi aờ ữ
2 l n tầ ư iớ
(ngày/l n)ầ
S ố
l n ầ
tư iớ
(l n)ầ
T ng ổ
lư ng ợ
tư iớ
(m3/ha)
Th i ờ
đi m ể
bón
S ố
l n ầ
bón
(l n)ầ
Lo i ạ
phân
bón
Cây non 30 0 ÷30 80÷90 6÷7 4÷ 5
340÷
425
Thán
g
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 62 - 2020 8
5÷6
Sinh
trư ng ở
sinh
dư ngỡ
335
30 ÷365
80÷90
Mùa khô: 10÷15
ngày tư i 1 l n; ớ ầ
Mùa m a: không ư
tư i ho c ch ớ ặ ỉ
tư i khi bón ớ
phân qua h ệ
th ng tố ư i;ớ
Trư c khi x lý ớ ử
ra hoa tư i 1 l n.ớ ầ
16÷18
1.360÷
1.530
Thán
g
6÷7
4 N,P,K
Thán
g
8÷9
4 N,P,K
Thán
g
10÷11
4 N,P,K
Thán
g
12÷1
4 N,P,K
Ra hoa và
nuôi quả
150
365
÷515
80÷90
Mùa khô: 15÷20
ngày tư i 1 l n;ớ ầ
Mùa m a: không ư
tư i ho c ch ớ ặ ỉ
tư i khi bón phân ớ
qua h th ng ệ ố
tư i.ớ
2÷3
170 ÷
255
Thu ho chạ 30
515
÷545
T ng trung ổ
bình c v ả ụ
(làm tròn)
545
22 ÷
26
1.900 ÷
2.200 16
5. KẾT LUẬN
Quy trình tưới kết hợp với bón phân cho cây
dứa tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
được đề xuất trên cơ sở kết hợp giữa lý thuyết
và thực tiễn, trong đó có xem xét đến các điều
kiện đặc trưng về canh tác, khí hậu, thổ
nhưỡng của vùng này.
Quy trình sẽ giúp người dân áp dụng đồng bộ
các công nghệ tiên tiến trong tưới nước, kết
hợp canh tác, bón phân tạo ra những sản
phẩm chất lượng cao, chi phí thấp hơn giúp
tăng hiệu quả sản xuất dứa một cách bền
vững.
Quy trình là công cụ hữu ích hỗ trợ ra quyết
định cho người dân, chính quyền địa phương
và các cơ quan bộ ngành trong quá trình sản
xuất, thiết kế, quy hoạch, xây dựng cơ chế
chính sách phát triển cây dứa hướng đến mục
đích xuất khẩu
Quy trình này đã được áp dụng tại các trang
trại/mô hình khu vực Đồng ĐBSCL, đã cho
hiệu quả cao như tăng năng suất, giảm được
công lao động, lượng nước tưới và lượng
phân bón. Việc áp dụng quy trình này cũng
giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi
trường, tránh rửa trôi phân xuống kênh rạch,
giảm lượng phân bón cho cây dứa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_xay_dung_quy_trinh_tuoi_hop_ly_ket_hop_voi_bon_ph.pdf