KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
- Xử lý phân ruồi lính đen với than sinh học và
chế phẩm vi sinh vật (xạ khuẩn Streptomyces sp và
Bacillus subtilis) có tốc độ phân huỷ (lên men) hiệu
quả nhất ở NT3.
- Kết quả phân tích chất lượng cho thấy nghiệm
thức 3 đã đạt tiêu chuẩn của phân hữu cơ sinh học:
pH: 7,23; OM: 57,07 (%); Nts: 2,46 (%); Axit humic:
3,79 (%); axit fulvic: 3,55 (%); K2Ots: 6,94 (%);
P
2O5ts: 5,34 (%) và tỉ lệ C/N: 11,74. Các chỉ tiêu kim
loại nặng (Cd, Pb, As và Hg) và các tỉ tiêu vi sinh vật
gây hại (salmonella và E.coli) không phát hiện được.
- Bón phân ruồi lính đen với lượng 6.000 kg/ha
trên đất xám đã có tác động tốt đến cải thiện pH đất
và khả năng giữ ẩm trong đất so với các mức còn
lại và so với các loại phân hữu cơ khác bón cùng
liều lượng.
4.2. Kiến nghị
- Cần áp dụng phổ biến quy trình xử lý ủ hoai
phân ruồi lính đen với than sinh học theo tỉ lệ
70% : 30% và chế phẩm vi sinh (Streptomyces sp và
Bacillus subtilis).
- Cần tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của phân
ruồi lính đen đã xử lý ủ hoai với việc cải tạo đất và
cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu xử lý phân ruồi lính đen thành phân hữu cơ sinh học và đánh giá tác động của nó đến cải thiện độ pH, độ ẩm đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
54
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
NGHIÊN CỨU XỬ LÝ PHÂN RUỒI LÍNH ĐEN
THÀNH PHÂN HỮU CƠ SINH HỌC VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ ĐẾN CẢI THIỆN ĐỘ pH, ĐỘ ẨM ĐẤT
Lâm Văn Hà1, Hà Tú Vân2, Huỳnh Hoàng Giang2,
Võ Văn Ai Vy2, Nguyễn Hà Linh2, Đặng Ngô Nhật Anh2
TÓM TẮT
Quy trình xử lý phân ruồi lính đen kết hợp với than sinh học để sản xuất phân hữu cơ sinh học được tiến hành
gồm 70% phân ruồi lính đen + 30% than sinh học từ vỏ trấu và chế phẩm ví sinh vật (Bacillus subtilis, Streptomyces
sp.) tất cả các nguyên liệu trên được phối trộn đều ủ bán hiếu khí trong 21 ngày có kiểm soát nhiệt độ (65 - 750C),
độ ẩm (50%). Thành phẩm sau khi ủ được đánh giá chất lượng dựa vào Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia QCVN 01-
189:2019/BNNPTNT về Chất lượng phân bón. Phân ruồi sau xử lý ủ hoai có chất lượng như sau: pH: 7,23; OM:
57,07 (%); Nts: 2,46 (%); axit humic: 3,79 (%); axit fulvic: 3,55 (%); K2Ots: 6,94 (%); P2O5ts: 5,34 (%) và tỉ lệ C/N:
11,74. Về các chỉ tiêu kim loại nặng (Cd, Pb, As và Hg) và vi sinh vật gây hại (Salmonella và E.coli) không phát hiện.
Qua đánh giá chất lượng của phân ruồi lính đen đến cải thiện pH và khả năng giữ ẩm trên đất xám, kết quả thực
nghiệm cho thấy với lượng bón 6.000 kg/ha trong 14 ngày không tưới nước cho đất, phân ruồi lính đen đã tăng
cường khả năng giữ ẩm và cải thiện pH đất tốt hơn so với phân gà xử lý và phân trùn quế khi bón cùng liều lượng.
Từ khoá: Phân ruồi lính đen, phân hữu cơ sinh học, pH đất, độ ẩm đất
Ravindran P.N. and K. Nirmal Babu, 2005. Ginger
- The Genus Zingiber. Medicinal and Aromatic
Plants - Industrial Profiles, pp. 15-35, 250, 259-263,
265-270, 291 - 293.
Rujjanawate C., Kanjanapothi D., Amornlerdpison
D., Pojanagaroon S., 2005. Anti-gastric ulcer effect
of Keampferia parviflora. J. Ethnopharmacol., 102:
120-122.
Tewtrakul S., Subhadhirasakul S., Kummee S.,
2008. Anti - Allergic Activity of Compounds from
Keampferia parviflora. Journal of Ethnopharmacology,
116 (1): 191-193.
Trisomboon H., 2009. Keampferia parviflora: A Thai
Herbal Plant, Nerther Promote Reproductive
Function Nor Increase Lobido via Male Hormone.
Thai Journal of Physiological Sciences, 21: 83-86.
Yenjai C., Prasanphen K., Daodee S., Wongpanich
V., Kittakoop P., 2004. Bioactive flavonoids from
Keampferia parviflora. Fitoterapia, 75 (1): 89-92.
Study on techniques of black ginger (Kaempferia parviflora)
multiplication by root buds
Dao Thuy Duong, Nguyen Thi Thu, Tran Ngoc Lan,
Nguyen Dac Binh Minh, Nguyen Viet Trung
Abstract
Black ginger is a precious and rare medicinal herbs of Vietnam, which are propagated from root buds; the root
weight of 30 g - 40 g/1 branch had high germination rate of 100%, when planting should choose the one branch
roots, do not select small and miltiplebranch roots. The substrate composition including soil + husk (1 : 1) or 100% of
sand gave germination rate of 100%; the nursery time until releasing for planting was 45 - 46 days. Supplementation
with growth regulator GA3 at the concentration of 500 ppm, N3M or ROOTS NEW had 100% germination rate; the
nursery time until releasing for planting reduced 8 - 12 days compared to the control formula. The shading regime
suitable for Kaempferia parviflora at this stage was 60 - 70%.
Keywords: Black ginger (Kaempferia parviflora), root buds, propagation technique
Ngày nhận bài: 29/4/2020
Ngày phản biện: 14/5/2020
Người phản biện: PGS. TS. Ninh Thị Phíp
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
1 Trung tâm Nghiên cứu Đất, Phân bón và Môi trường phía Nam, Viện Thổ nhưỡng Nông hoá
2 Trường Phổ thông liên cấp Vinschool Central Park
55
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, xu hướng canh tác
theo hướng hữu cơ và hữu cơ đang dần thay thế
cho canh tác truyền thống vốn hay lạm dụng phân
bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật quá nhiều dẫn
đến hiện tượng tồn dư hoá chất trong nông sản, gây
ô nhiễm môi trường đặc biệt là môi trường đất và
nước... Ngày 29 tháng 8 năm 2018, Thủ tướng Chính
phủ đã ra Nghị định số 109/2018/NĐ-CP về nông
nghiệp hữu cơ, trong đó có nói đến “Phân bón, chất
cải tạo đất, phải được sản xuất từ các nguyên liệu
và phương pháp phù hợp tiêu chuẩn nông nghiệp
hữu cơ và đáp ứng các quy định, quy chuẩn kỹ thuật
khác có liên quan”. Vậy phân bón hữu cơ phải đáp
ứng được yêu cầu của Nghị định 109/2018/NĐ-CP
về nông nghiệp hữu cơ, đồng thời cũng phải đáp
ứng được yêu cầu của nghị định 108/2017/NĐ-
CP về phân bón hữu cơ. Với diện tích đất canh tác
nông nghiệp hiện nay khoảng 11,5 triệu ha (Bộ Tài
nguyên và Môi trường, 2018), hàng năm Việt Nam
cần khoảng 50 triệu tấn phân hữu cơ, nhưng thực tế
cả sản xuất trong nước và nhập khẩu, mới đáp ứng
được khoảng 3,2 triệu tấn phân hữu cơ/năm, như
vậy lượng phân bón hữu cơ còn thiếu rất nhiều. Việc
nghiên cứu tìm các nguồn nguyên liệu mới để sản
xuất phân bón hữu cơ có chất lượng là cần thiết.
Ruồi lính đen (Hermetia illucens) là một côn
trùng bản địa sẵn có ở Việt Nam. Nó không có vòi
nên không chích hút hoa quả, không có hành vi bu
(đậu) lên thức ăn và gây hại như các loài ruồi nhà.
Ngược lại, nó có khả năng phân hủy các rác thải hữu
cơ nên ứng dụng xử lý rác thải hữu cơ rất hiệu quả
(Nguyễn Thị Bích Hảo và ctv., 2017). Sau khi phân
hủy rác hữu cơ nhộng ruồi lính đen thải ra một
lượng phân rất lớn có chứa nhiều chất dinh dưỡng
như: đạm, lân, kail, canxi và hàm lượng chất hữu
cơ cao, hoàn toàn có thể dùng làm phân bón hữu
cơ, phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, loại
phân này trước khi sử dụng cần phải qua xử lý ủ
hoai để gia tăng các chỉ số dinh dưỡng dễ tiêu và hạn
chế các vi sinh vật có hại như vi khuẩn E.Coli hay
Salmonella. Vì thế, nghiên cứu một quy trình xử lý ủ
hoai thích hợp để chuyển hoá phân ruồi lính đen thô
thành phân hữu cơ sinh học và đánh giá tác động
của chúng đến việc cải thiện độ phì nhiêu đất là điều
vô cùng cần thiết, là mắt xích quan trọng trong quy
trình chăn nuôi - trồng trọt theo hướng phát triển
nông nghiệp bền vững.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Phân ruồi lính đen được sản xuất tại nhà máy sản
xuất nhộng ruồi lính đen Entobel, tại Ấp Cây Xoài,
xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tình Đồng Nai; Chế
phẩm vi sinh vật (Bacillus subtilis, Streptomyces sp.)
của Trung tâm Nghiên cứu Đất, Phân bón và Môi
trường phía Nam, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa;
Đất xám bạc màu ở huyện Củ Chi, thành phố Hồ
Chí Minh; Than sinh học được sản xuất từ công ty
TNHH Mai Anh Đồng Tháp.
- Dùng cụ và hoá chất thí nghiệm của phóng
phân tích lý-hoá-sinh của của Trung tâm Nghiên
cứu Đất, Phân bón và Môi trường phía Nam, Viện
Thổ nhưỡng Nông hóa; Phòng Lab của Trung tâm
Innovation, Trường Liên cấp Vinschool.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thí nghiệm xây dựng quy trình xử lý ủ hoai
phân ruồi lính đen
a) Xây dựng nghiệm thức xử lý phân ruồi
- Nghiệm thức 1: 100% phân ruồi + 0% than sinh
học + chế phẩm vi sinh => 3 thùng, mỗi thùng chứa
5 kg phân đã trộn.
- Nghiệm thức 2: 80% phân ruồi + 20% than sinh
học + chế phẩm vi sinh => 3 thùng, mỗi thùng chứa
4 kg phân + 1 kg than sinh học.
- Nghiệm thức 3: 70% phân ruồi + 30% than sinh
học + chế phẩm vi sinh => 3 thùng, mỗi thùng chứa
3,5 kg phân + 1,5 kg than sinh học.
- Nghiệm thức 4: 60% phân ruồi + 40% than sinh
học + chế phẩm vi sinh => 3 thùng, mỗi thùng chứa
3 kg phân + 2 kg than sinh học.
b) Phương pháp theo dõi quá trình lên men của các
nghiệm thức ủ phân
Tiến hành ủ hoai, để nguyên liệu lên men theo
phương pháp ủ bán hiếu khí ở nhiệt độ phòng. Kiểm
tra định kỳ độ ẩm và thực hiện đảo trộn nguyên liệu
(định kỳ 7 ngày 1 lần) để duy trì độ ẩm hỗn hợp
nguyên liệu ở mức 50%.
c) Phương pháp phân tích chỉ tiêu đánh giá chất lượng
phân hữu cơ sinh học
Sau 21 ngày lên men tiến hành thu hồi sản phẩm
đã hoai mục và phân tích các chỉ tiêu quy định của
một loại phân bón hữu cơ sinh học dựa trên Nghị
định 108/2017/NĐ-CP của Chính phủ về phân bón.
Chỉ tiêu pHKCl; OM (%); Nts (%); P2O5 tổng số; K2O
tổng số; Acid fulvic; Acid humic; Chì (Pb); Cadimi
(Cd); Asen (As); Thủy ngân (Hg); E.Coli giả định và
Salmonella sp; Vi khuẩn Bacillus subtilis; Xạ khuẩn
Streptomyces sp được phân tích dựa vào QCVN 01-
189:2019/BNNPTNT.
56
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
2.2.2. Thí nghiệm tác động của phân ruồi lính đen
đến khả năng giữ ẩm trong đất và cải thiện pH đất
a) Bố trí thí nghiệm
Chọn nghiệm thức xử lý phân ruồi lính đen có
chất lượng tốt nhất dựa theo Nghị định 108/2017/
NĐ-CP của Chính Phủ về phân bón hữu cơ để tiến
hành thử nghiệm khả năng cải thiện pH đất và giữ
ẩm trong đất.
- Thí nghiệm 1: NT1 (Đối chứng): không bón phân
hữu cơ; NT2: 2.000 kg phân gà/ha; NT3: 4.000 kg
phân gà/ha; NT4: 6.000 kg phân gà/ha; NT5: 8.000 kg
phân gà/ha.
- Thí nghiệm 2: NT1 (Đối chứng): không bón
phân hữu cơ; NT2: 2.000 kg phân trùn quế/ha; NT3:
4.000 kg phân trùn quế/ha; NT4: 6.000 kg phân trùn
quế/ha; NT5: 8.000 kg phân trùn quế/ha.
- Thí nghiệm 3: NT1 (Đối chứng): không bón
phân hữu cơ; NT2: 2.000 kg phân ruồi/ha; NT3:
4.000 kg phân ruồi/ha; NT4: 6.000 kg phân ruồi/ha;
NT5: 8.000 kg phân ruồi/ha.
Thí nghiệm được tiến hành trong chậu với mỗi
chậu chứa 5 kg đất và tính lượng phân bón cho vào
mỗi chậu bằng công thức (dung trọng của đất xám
bạc màu (Db) x độ sâu của đất cần cải tạo (20 cm) =
khối lượng đất của 1 ha/20 cm; tính lượng phân bón
cho 1 kg đất, từ đó suy ra lượng phân bón cho mỗi
chậu. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần, đảo trộn
đều phân và đất lẫn vào nhau, tiến hành tưới 3,75 lít
nước đến khi đất trong chậu đạt độ ẩm bão hòa. Bố
trí các chậu thí nghiệm ngoài điều kiện ánh nắng
bình thường không cho nước mưa rơi vào các chậu.
b) Phương pháp xác định lượng nước cần cho thí nghiệm
Cho nước vào mỗi chậu để đất trong chậu đạt độ
ẩm bão hoà (sức chứa ẩm đồng ruồng tối đa): Theo
Sổ tay phân tích Đất, Nước, Phân bón và Cây trồng
của Viện Thổ nhưỡng Nông hóa (1998). Qua đây ta
xác định được 5 kg đất thí nghiệm ở mỗi chậu cần
3,75 lít nước để đất thí nghiệm đạt bão hoà nước.
c) Theo dõi thí nghiệm
- Xác định độ ẩm đất ở các nghiệm thức thí
nghiệm: độ ẩm của đất trước thí nghiệm và sau 14
ngày ủ đất với phân, bằng máy đo độ ẩm kế đồng
ruộng và phương pháp sấy khô trong tủ sấy (Theo Sổ
tay phân tích Đất, Nước, Phân bón và Cây trồng của
Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, 1998).
- Xác định độ pH đất của các nghiệm thức thí
nghiệm: trước và sau 14 ngày ủ đất với phân hữu
cơ đo pH bằng điện cực thủy tinh trong dung dịch
huyền phù đất - dung dịch KCl 1M (theo TCVN
5979:2007 từ QCVN 01-189:2019/BNNPTNT).
d) Xử lý số liệu
Các số liệu thu thập được phân tích phương sai
(ANOVA) và các giá trị trung bình được trắc nghiệm
theo LSD (Least Significant differences - khác biệt có
ý nghĩa nhỏ nhất) với mức α ≤ 0,05 bằng phần mềm
IRRISTAT 5.0.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 8 đến tháng
11 năm 2019 tại Trung tâm Nghiên cứu Đất, Phân
bón và Môi trường phía Nam và Phòng Lab của
Trung tâm Innovation, Trường Liên cấp Vinschool.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả phân tích các chỉ tiêu dinh dưỡng
trong phân ruồi lính đen sau xử lý ủ hoai
- Chỉ tiêu pHKCl: Qua bảng 1 có thể thấy, độ pHKCl
của phần ruồi lính đen sau khi xử lý ủ hoai cao nhất
ở nghiệm thức 4 và thấp nhất ở nghiệm thức 1, sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Như vậy, xử lý ủ
phân ruồi với than sinh học theo tỉ lệ 60:40 đã cải
thiện pH của phân hữu cơ ở mức tốt nhất so với các
nghiệm thức còn lại. So với trước thí nghiệm thì sau
thí nghiệm pHKCl của các nghiệm thức đều được cải
thiện tốt hơn.
Bảng 1. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong phân ruồi lính đen trước và sau xử lý
NT pHKCl
Chất tổng số, %
Tỉ lệ C/N
OM Nts Axits Humic Axit Fulvic K2Ots P2O5ts
NT1 6,23 71,2 2,39 3,46 3,00 1,59 2,96 14,61
NT2 6,70 62,2 1,98 2,62 3,36 6,33 4,45 16,03
NT3 7,23 57,07 2,46 3,79 3,55 6,94 5,34 11,74
NT4 7,36 58,67 2,02 2,03 2,36 7,54 5,58 14,75
LSD0,05 0,78 10,18 ns 1,21 0,50 2,15 1,14 ns
CV (%) 5,7 8,2 12,5 12,4 8,2 19,8 12,5 19,2
TTN 5,25 75,5 2,01 1,93 4,61 1,52 2,57 18,78
Ghi chú: ns là sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở mức α = 0.05; TTN là nguyên liệu phân ruồi lính đen trước
khi xử lý ủ hoai.
57
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
- Hàm lượng chất hữu cơ tổng số (OM): Số liệu
bảng 1 cho thấy, hàm lượng OM cao nhất ở nghiệm
thức 1, tiếp theo là nghiệp thức 2 và thấp nhất ở
nghiệm thức 3. Như vậy tốc độ mùn hoá (phân huỷ
chất hữu cơ) trong quá trình ủ cao nhất ở nghiệm
thức 3, tiếp theo là nghiệm thức 4 và tốc độ mùn hoá
thấp nhất ở nghiệm thức 1 (100% nguyên liệu phân
ruồi) so với nguyên liệu đầu vào ban đầu.
- Hàm lượng đạm tổng số: Qua bảng 1 có thể thấy,
đạm tổng số cao nhất ở nghiệm thức 3 và thấp nhất
ở nghiệm thức 1, sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê, cá biệt có nghiệm thức 2 đạm tổng số giảm
so với trước thí nghiệm nhưng không đáng kể.
- Chỉ tiêu axit humic: Số liệu bảng 1 cho thấy,
hàm lượng axit humic cao nhất ở nghiệm thức 3,
tiếp theo là nghiệm thức 1 và thấp nhất ở nghiệm
thức 4, sự khác biệt này có ý nghiã thống kê. So với
trước thí nghiệm thì hàm lượng axit humic ở các
nghiệm thức sau thí nghiệm đều được cải thiện hơn.
Theo Nghị định 108/2017/NĐ-CP của Chính phủ về
phân hữu cơ sinh học phải có hàm lượng axit humic
lớn hơn 2,5%. Như vậy, các nghiệm thức 1, 2 và 3
sau khi xử lý ủ hoai đều có hàm lượng axit humic đạt
tiêu chuẩn của phân bón hữu cơ sinh học.
- Chỉ tiêu axit fulvic: Qua bảng 1 có thể thấy, hàm
lượng axit fulvic cao nhất ở nghiệm thức 3, tiếp theo
là nghiệm thức 2 và thấp nhất ở nghiệm thức 4, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Qua đây cho thấy khi
xử lý ủ 70% phân ruồi với 30% than sinh học với
men vi sinh đã giúp cho tốc độ mùn hoá hợp chất
hữu cơ được nhanh hơn.
- Hàm lượng kali tổng số (K2Ots): Số liệu bảng 1
cho thấy, hàm lượng K2Ots cao nhất ở nghiệm thức
4 và thấp nhất ở nghiệm thức 1, sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê. So sánh với nguyên liệu trước
khi ủ thì hàm lượng kali tổng số ở nghiệm thức 1
không thay đổi nhiều, các nghiệm thức còn lại cao
hơn chứng tỏ kali tổng số được bổ sung chủ yếu từ
than sinh học.
- Hàm lượng lân tổng số (P2O5 ts): Số liệu bảng 1
cho thấy, hàm lượng lân tổng số cao nhất ở nghiệm
thức 4, tiếp theo là nghiệm thức 3 và thấp nhất ở
nghiệm thức 1, sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê. So sánh với nguyên liệu đầu vào nghiệm thức
một hàm lượng lân tổng số không khác nhiều, các
nghiệm thức còn lại hàm lượng lân tổng số tăng dần
theo hàm lượng than sinh học phối trộn, chứng tỏ
việc bổ sung than sinh học vào trong khi xử lý ủ
phân ruồi đã cải thiện hàm lượng lân trong phân.
- Tỉ lệ C/N, đây là một trong các chỉ tiêu quan
trọng để đánh giá chất lượng phân hữu cơ có đạt
QCVN 01-189:2019/BNNPTNT theo Nghị định
108/2017/NĐ-CP của Chính phủ hay không. Theo
QCVN 01-189:2019/BNNPTNT, phân hữu cơ hay
hữu cơ sinh học phải có tỉ lệ C/N nhỏ hơn 12, như
vậy chỉ có nghiệm thức 3 là đạt.
3.2. Kết quả phân tích các chỉ tiêu vi sinh vật và
kim loại nặng trong phân ruồi lính đen
- Chỉ tiêu ví khuẩn Bacillus subtilis và xạ khuẩn
Streptomyces sp là các chủng vi sinh vật vừa có vai
trò phân giải chất hữu cơ vừa có vai trò đối kháng
nấm bênh gây hại cho cây trồng. Qua bảng 2 có
thể thấy mật độ của hai chủng vi sinh vật này ở các
nghiệm thức là không có sự khác biệt thống kê. So
với nguyên liệu đầu vào (trước thí nghiệm) thì mật
độ ở của chúng tất cả các nghiệm thức đều được cải
thiện hơn rất nhiều.
Bảng 2. Kết quả phân tích các chỉ tiêu vi sinh và kim loại nặng
trong phân ruồi lính đen trước và sau xử lý
NT Bacillus subtilis, (cfu/g)
Streptomyces
sp (cfu/g)
Salmonella
(cfu/g)
E.coli
(cfu/g)
Pb
(mg/kg)
Cd
(mg/kg)
As
(mg/kg)
Hg
(mg/kg)
NT1 2,7 ˟ 109 3,7 x 108 KPH KPH KPH KPH KPH KPH
NT2 3,8 ˟ 109 4,2 x 108 KPH KPH KPH KPH KPH KPH
NT3 3,5 ˟ 109 5,1 x 108 KPH KPH KPH KPH KPH KPH
NT4 2,2 ˟ 109 3,4 x 108 KPH KPH KPH KPH KPH KPH
LSD0,05 ns ns ns ns ns ns ns ns
TTN 1,9 ˟ 106 1,3˟ 105 KPH 7,5˟ 106 KPH KPH KPH KPH
Ghi chú: Ký hiệu KPH là không có phát hiện khi phân tích.
- Chỉ tiêu vi khuẩn Salmonella và vi khuẩn E. coli
là chủng vi sinh vật gậy bệnh cho người và động
vật, theo tiêu chuẩn của phân bón hữu cơ (QCVN
01-189:2019/BNNPTNT) trong phân bón hữu cơ
nói chung và hữu cơ sinh học nói riêng yêu cầu đều
không có phát hiện các chủng vi sinh vật này. Kết quả
58
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
xử lý phân ruồi lính đen ở các nghiệm thức ở bảng
2 cho thấy vi khuẩn Salmonella và vi khuẩn E. coli
ở tất cả các nghiệm thức đều không phát hiện, nhưng
nguyên liệu phân ruồi trước khi xử lý ủ là có phát
hiện vi khuẩn E. coli với mật độ là 7,5 ˟ 106 CFU/g.
- Về các chỉ tiêu kim loại nặng (Pb, Cd, As và Hg):
Qua bảng 2 cho thấy kể cả nguyên liệu đầu vào để
ủ là phân ruồi lính đen và sản phẩm đầu ra là phân
hữu cơ sinh học của các nghiệm thức đều không có
phát hiện.
Tóm lại, kết quả phân tích các chỉ tiêu chất lượng
của phân bón hữu cơ dựa theo tiêu chuẩn của Nghị
định 108/2017 NĐ-CP của Chính phủ về quản lý
phân bón cho thấy nghiệm thức 3 là đạt tiêu chuẩn
của phân bón hữu cơ sinh học.
3.3. Đánh giá tác động của phân ruồi lính đen đến
cải thiện độ pH và khả năng giữ ẩm của đất xám
- Ở thí nghiệm 1 bón phân gà xử lý: Số liệu bảng
3 cho thấy sự khác biệt giữa các nghiệm thức là có
ý nghĩa thống kê và độ pH được cải thiện tốt nhất ở
NT5 (với mức bón 8.000 kg/ha) và thấp nhất ở NT1
không có bón phân hữu cơ; Ở thí nghiệm 2 bón phân
trùn quế: Số liệu bảng 3 cho thấy sự khác biệt giữa
các nghiệm thức là có ý nghĩa thống kê và độ pH đất
được cải thiện cao nhất ở NT5 (với mức bón 8.000
kg/ha) và thấp nhất ở NT1 không có bón phân hữu
cơ trùn quế; Ở thí nghiệm 3 bón phân ruồi lính đen:
Số liệu bảng 3 cho thấy sự khác biệt giữa các nghiệm
thức là có ý nghĩa thống kê và độ pH đất được cải
thiện cao nhất ở NT4 (với mức bón 6.000 kg/ha) và
thấp nhất ở NT1 không có bón phân ruồi lính đen.
Qua đây có thể thấy pH đất tăng lên theo liều lượng
phân hữu cơ bón vào trong đất, điều này chứng tỏ
phân hữu cơ có khả năng cải tạo pH đất đặc biệt là
phân ruồi lính đen được xử lý hoai với than sinh học
từ vỏ trấu lúa.
Bảng 3. Ảnh hưởng của phân ruồi lính đen,
phân trùn quế và phân gà xử lý đến pH
và khả năng giữ ẩm của đất xám trong 14 ngày
14 ngày Thí nghiệm 1 Thí nghiệm 2 Thí nghiệm 3
Nghiệm
thức
pH
KCl
Độ
ẩm
(%)
pH
KCl
Độ
ẩm
(%)
pH
KCl
Độ
ẩm
(%)
NT1 3,88 8,58 3,92 7,26 3,86 7,00
NT2 5,50 19,59 5,12 17,42 5,56 18,69
NT3 6,40 18,04 6,12 22,71 6,76 22,29
NT4 6,22 20,32 6,05 23,04 7,35 24,27
NT5 6,80 23,27 6,26 20,11 7,19 24,12
LSD0,05 0,52 2,28 1,16 1,83 0,50 1,30
CV (%) 4,8 6,6 11,2 5,8 4,3 3,6
- So sánh mức độ cải thiện pH ở đất xám của 3
loại phân bón hữu cơ (ở thí nghiệm 1 phân gà xử lý;
ở thí nghiệm 2 phân trùn quế và ở thí nghiệm 3 phân
ruồi): Hình 1 cho thấy ở NT1 không bón phân hữu
cơ thì độ pH của 3 thí nghiệm hầu như không có sự
khác biệt và ở mức rất chua. Ở NT2 (mức bón 2.000
kg/ha) pH đất được cải thiện cao nhất ở thí nghiệm 3
bón phân ruồi lính đen, tiếp đến là thí nghiệm 1
bón phân gà xử lý và thấp nhất ở thí nghiệm 2 bón
phân trùn quế. Ở NT3 (với mức bón 4.000 kg/ha)
pH đất cũng được cải thiện cao nhất ở thí nghiệm 3
bón phân ruồi lính đen, tiếp đến là thí nghiệm 1 bón
phân gà xử lý và thấp nhất ở thí nghiệm 2 bón phân
trùn quế. Ở NT4 (với mức bón 6.000 kg/ha) pH đất
được cải thiện cao hơn hẳn ở thí nghiệm 3 bón phân
ruồi lính đen tiếp đến là thí nghiệm 1 bón phân gà
xử lý và thấp nhất ở thí nghiệm 2 bón phân trùn quế.
Ở NT5 (với mức bón 8.000 kg/ha) pH đất cũng được
cải thiện cao nhất ở thí nghiệm 3 bón phân ruồi lính
đen tiếp đến là thí nghiệm 1 bón phân gà xử lý và
thấp nhất ở thí nghiệm 2 bón phân trùn quế.
Hình 1. So sánh ảnh hưởng của phân ruồi lính đen, phân trùn quế
và phân gà xử lý đến pH và độ ẩm của đất xám
Ảnh hưởng của các loại phân hữu cơ khác nhau đến pH đất Ảnh hưởng của bón các loại phân hữu cơ khác nhau đến độ ẩm đất xám
NT1
3.88
5.5
6.4
pH KCl (TN1) pH KCl (TN2) pH KCl (TN3)
3.92
5.12
6.12
3.86
5.56
6.76
6.22
6.8
6.26
7.19
6.05
7.35
NT1NT2 NT2NT3 NT3NT4 NT4NT5 NT5
7.26 7
8.58
19.59
18.04
22.7122.29
20.32
23.04
24.27
23.27 24.12
20.11
18.69
17.42
Độ ẩm (TN1) Độ ẩm (TN2) Độ ẩm (TN3)
59
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Như vậy, phân hữu cơ được sản xuất từ phân
ruồi lính đen có kết hợp với than sinh học từ vỏ trấu
trong quy trình sản xuất đã có tác dụng cải thiện pH
đất xám cao hơn phân gà xử lý và phân trùn quế. Với
mức bón 6.000 kg phân ruồi lính đen/ha đã có tác
động cải thiện pH đất xám cao hơn nhất so với các
mức bón còn lại.
- Xét ảnh hưởng của việc bón phân gà xử lý, phân
trùn quế và phân ruồi lính đen đến độ giữ ẩm của đất
xám: Ở thí nghiệm 1 bón phân gà xử lý: bảng 3 cho
thấy sự khác biệt giữa các nghiệm thức là có ý nghĩa
thống kê và độ ẩm đất cao nhất ở NT5 (bón 8.000
kg/ha) và thấp nhất ở NT1 không bón phân hữu cơ;
Ở thí nghiệm 2 bón phân trùn quế: Qua bảng 3 cho
thấy sự khác biệt giữa các nghiệm thức là có ý nghĩa
thống kê và độ ẩm đất cao nhất ở NT4 (bón 6.000
kg/ha) và thấp nhất ở NT1 không bón phân hữu cơ;
Ở thí nghiệm 3 bón phân ruồi lính đen: Qua bảng 3
cho thấy sự khác biệt giữa các nghiệm thức là có ý
nghĩa thống kê và độ ẩm đất cao nhất ở NT4 (bón
6.000 kg/ha), tiếp đến là NT5 (bón 8.000 kg/ha) và
thấp nhất ở NT1 không bón phân hữu cơ.
- So sánh ảnh hưởng của 3 loại phân hữu cơ
(phân gà xử lý, phân trùn quế và phân ruồi lính đen)
đến việc cải thiện độ ẩm của đất xám. Hình 1 cho
thấy: Ở NT1 của cả 3 thí nghiệm không có bón phân
hữu cơ là không có sự khác biệt và độ ẩm đất sau 14
ngày phơi nắng không tưới nước là rất thấp. Ở NT2
bón 2.000 kg/ha, độ ẩm đất được cải thiện cao nhất
ở thí nghiệm 1 (bón phân gà xử lý) và thấp nhất
ở thí nghiệm 2 (bón phân trùn quế). Ở NT3 bón
4.000 kg/ha, độ ẩm đất được cải thiện là thí nghiệm
2 (bón phân trùn quế) và thấp nhất ở thí nghiệm
1 (bón phân gà xử lý). Ở NT4 bón 6.000 kg/ha, độ
ẩm đất cao nhất là thí nghiệm 3 (bón phân ruồi lính
đen) và thấp nhất là thí nghiệm 1 (bón phân gà xử
lý). Ở NT6 bón 8.000 kg/ha, độ ẩm đất được cải
thiện cao nhất ở thí nghiệm 3 (bón phân ruồi lính
đen) và thấp nhất ở thí nghiệm 2 (bón phân trùn
quế). Như vậy, trong 3 loại phân thử nghiệm trên
thì phân ruồi lính đen và phân gà xử lý có khả năng
giữ ẩm cho đất tốt hơn phân trùn quế, trong đó đặc
biệt là phân ruồi.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
- Xử lý phân ruồi lính đen với than sinh học và
chế phẩm vi sinh vật (xạ khuẩn Streptomyces sp và
Bacillus subtilis) có tốc độ phân huỷ (lên men) hiệu
quả nhất ở NT3.
- Kết quả phân tích chất lượng cho thấy nghiệm
thức 3 đã đạt tiêu chuẩn của phân hữu cơ sinh học:
pH: 7,23; OM: 57,07 (%); Nts: 2,46 (%); Axit humic:
3,79 (%); axit fulvic: 3,55 (%); K2Ots: 6,94 (%);
P2O5ts: 5,34 (%) và tỉ lệ C/N: 11,74. Các chỉ tiêu kim
loại nặng (Cd, Pb, As và Hg) và các tỉ tiêu vi sinh vật
gây hại (salmonella và E.coli) không phát hiện được.
- Bón phân ruồi lính đen với lượng 6.000 kg/ha
trên đất xám đã có tác động tốt đến cải thiện pH đất
và khả năng giữ ẩm trong đất so với các mức còn
lại và so với các loại phân hữu cơ khác bón cùng
liều lượng.
4.2. Kiến nghị
- Cần áp dụng phổ biến quy trình xử lý ủ hoai
phân ruồi lính đen với than sinh học theo tỉ lệ
70% : 30% và chế phẩm vi sinh (Streptomyces sp và
Bacillus subtilis).
- Cần tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của phân
ruồi lính đen đã xử lý ủ hoai với việc cải tạo đất và
cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2018. Thông tư
27/2018/TT-BTNMT ngày 14 tháng 12 năm 2018
về Thống kê, kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng
sử dụng đất.
Chính phủ, 2017. Nghị định 108/2017/NĐ-CP ngày 20
tháng 9 năm 2017 về Quản lý phân bón.
Chính phủ, 2018. Nghị định số 109/2018/NĐ-CP ngày
29 tháng 8 năm 2018 về Nông nghiệp hữu cơ.
Nguyễn Thị Bích Hảo, Phạm Thị Thuỳ, Nguyễn Hải Hoà,
2017. Nhân nuôi ruồi lính đen (Hermetia illucens)
trên các hệ chất nền khác nhau để xử lý chất thải rắn
sinh hoạt hữu cơ. Tạp chí Khoa học và Công nghệ
Lâm nghiệp, (10): 89 - 93.
QCVN 01-189:2019/BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về Chất lượng phân bón; Ban hành ngày
29/9/2019.
Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, 1998. Sổ tay phân tích
đất, nước, phân bón và cây trồng. NXB Nông nghiệp,
Hà Nội.
60
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
NGHIÊN CỨU HOẠT TÍNH KHÁNG MỘT SỐ VI KHUẨN GÂY BỆNH THỰC VẬT
CỦA CÁC CHỦNG XẠ KHUẨN PHÂN LẬP Ở VIỆT NAM
Phạm Thị Huệ1, Đinh Thị Ngọc Mai1, Nguyễn Thị Vân1,
Nguyễn Hồng Minh1, Nguyễn Kim Nữ Thảo1
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành trên 500 chủng xạ khuẩn được phân lập ở Việt Nam, hiện đang được bảo quản tại Bảo
tàng Giống chuẩn Vi sinh vật (VTCC) với mục tiêu chọn lọc được các chủng xạ khuẩn có khả năng đối kháng với
một số vi khuẩn gây bệnh thực vật. Kết quả tuyển chọn được 18 chủng có khả năng kháng Xanthomonas oryzae pv.
oryzae gây bệnh bạc lá lúa, 4 chủng kháng Dickyea zeae gây bệnh thối gốc và 7 chủng kháng Pseudomonas syringae
gây bệnh đốm lá. Đặc biệt, hai chủng Streptomyces manipurensis VTCC 40895 và Streptomyces griseus VTCC 41724
có hoạt tính đối kháng với đồng thời 3 loài vi khuẩn gây bệnh đã được nghiên cứu sâu hơn. Kết quả khảo sát
ảnh hưởng của thời gian và môi trường nuôi cấy đến khả năng sinh tổng hợp chất kháng khuẩn cho thấy chủng
VTCC 40895 sinh chất kháng khuẩn cao nhất sau 6 ngày nuôi cấy trong môi trường SKS, trong khi đó, chủng VTCC
41724 sinh chất kháng khuẩn tốt nhất trong môi trường ISP4 sau 6 ngày nuôi. Ngoài ra, các đặc tính sinh lý, sinh hóa
của hai chủng VTCC 40895 và VTCC 41724 cũng được xác định.
Từ khóa: Dickyea zeae, Pseudomonas syringae, Xanthomonas oryzae pv. oryzae, xạ khuẩn, kháng vi khuẩn gây
bệnh thực vật
Study on treating of black soldier fly feces for bio-organic fertilizer
and its impact on improving pH, soil humidity
Lam Van Ha, Ha Tu Van, Huynh Hoang Giang,
Vo Van Ai Vy, Nguyen Ha Linh, Dang Ngo Nhat Anh
Abstract
The process of treating black soldier fly feces in combination with biochar to produce bio-organic fertilizer was
carried by mixing 70% of black soldier fly feces with 30% biochar from rice husk and Bacillus subtilis, Streptomyces
sp. All of the above ingredients were mixed and semi-aerobic incubation for 21 days with temperature controlling
at (65 - 750C), humidity (50%). The final products after incubating were assessed for quality based on QCVN 01-
189:2019/BNN&PTNT for fertilizer quality. Black soldier fly feces after composting had the following qualities: pH:
7.23; OM: 57.07 (%); Nts: 2.46 (%); Humic acid: 3.79 (%); fulvic acid: 3.55 (%); K2Ots: 6.94 (%); P2O5ts: 5.34 (%) and
C/N ratio: 11.74. The heavy metals (Cd, Pb, As and Hg) and harmful microorganisms (salmonella and E.coli) were
not detected. By assessing quality of black soldier fly feces for improving pH and moisture retention on gray soil, the
experimental results showed that the black soldier fly feces when applying 6,000 kg/ha in 14 days without watering
the soil enhanced moisture retention and improved soil pH better than treated chicken and worm feces with the
same amount.
Keywords: Black soldier fly feces, bio-organic fertilizer, soil pH, soil moisture
Ngày nhận bài: 15/4/2020
Ngày phản biện: 23/4/2020
Người phản biện: PGS. TS. Hồ Quang Đức
Ngày duyệt đăng: 29/4/2020
1 Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học, Đại học Quốc gia Hà Nội
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các bệnh do vi sinh vật gây ra trên cây trồng là
một mối đe dọa rất lớn đối với sản xuất nông nghiệp.
Trong công tác bảo vệ thực vật hiện nay, phòng trị
bệnh bằng biện pháp hóa học là phổ biến, nhưng các
chất hóa học lại thường có hại cho con người, vật
nuôi cũng như các vi sinh vật có lợi khác, dẫn đến
nguy cơ ô nhiễm môi trường, đe dọa sức khỏe con
người và gây thiệt hại kinh tế do phát sinh chi phí
liên quan đến xử lý môi trường. Để kiểm soát được
dịch bệnh do vi sinh vật gây ra trên cây trồng, tiềm
năng sử dụng vi khuẩn, xạ khuẩn và vi nấm tự nhiên
đối kháng để thay thế hoặc bổ sung kết hợp với các
thuốc trừ sâu hóa học được đề cập đến trong nhiều
nghiên cứu (Medeiros et al., 2012).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_xu_ly_phan_ruoi_linh_den_thanh_phan_huu_co_sinh_h.pdf