Currently, the pollution in rural areas is alarming, not only by the widespread use of plant protection drug,
chemical fertilizers, but also a significant contribution from the irrational use of byproducts agriculture. After
the harvest, most products from straw, roots, stems etc. are dried and burned or thrown into the street, into the
pond, river and stream, leading to an increase of pollutants and congestion flow. In the environmental aspect,
the agricultural byproduct is a resource. The use of agricultural by product as compost is considered as one of
the best solutions because the waste may be used to make organic fertilizers. This study has conducted the
experiment of agricultural byproduct incubated with selected bio-products (Anvi-Tricho) and other mixtures as
yeast, ash and water for the control samples. Experimental results showed that the nutritional components, such
as N, P, K in the used sample (Anvi-Tricho) are higher than the control samples, especially after 28 days, the
samples incubated in Anvi-Tricho become porous, black gray and ready to take away as fertilizer. This study
also proposes adding manure into compost ingredients to increase the quality of compost later.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 761 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu xử lý phụ phẩm nông nghiệp thành phần hữu cơ sử dụng chế phẩm vi sinh tại xã Phúc Thuận–Phổ Yên–Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
 101TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016 
NGHIÊN CỨU XỬ LÝ PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP THÀNH PHẦN HỮU CƠ 
SỬ DỤNG CHẾ PHẨM VI SINH 
TẠI XÃ PHÚC THUẬN – PHỔ YÊN – THÁI NGUYÊN 
Lê Phú Tuấn1, Vũ Thị Kim Oanh2, Nguyễn Thị Thu Phương3 
1,2,3Trường Đại học Lâm nghiệp 
TÓM TẮT 
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm ở vùng nông thôn đang mức đáng báo động, không chỉ từ việc sử dụng tràn lan thuốc 
bảo vệ thực vât, phân bón hóa học, mà còn một phần đóng góp không nhỏ từ việc sử dụng phụ phẩm nông 
nghiệp chưa hợp lý. Sau mùa thu hoạch, hầu hết phụ phẩm từ rơm, rạ, rể cây, thân cây được người dân phơi 
khô rồi đốt hoặc vứt ra đường, ra bờ ao, sông, suối gây ô nhiễm môi trường và tắt dòng chảy. Trên phương diện 
tầm nhìn môi trường thì phụ phẩm nông nghiệp là một nguồn tài nguyên.Việc sử dụng phụ phẩm nông nghiệp 
làm phân compost là giải pháp tối ưu hiện nay vì vừa giảm thiểu chất thải lại vừa tận dụng để làm phân hữu 
cơ.Đề tài này đã tiến hành các thí nghiệm ủ phụ gia nông nghiệp bằng chế phẩm sinh học được lựa chọn là 
Anvi-Tricho và bằng các hỗn hợp khác như men rượu, tro và nước để làm mẫu đối chứng. Kết quả thí nghiệm 
cho thấy rằng các thành phần dinh dưỡng như N, P, K trong mẫu sử dụng Anvi-Tricho cao hơn các mẫu đối 
chứng, đặc biệt sau 28 ngày, thì mẫu ủ bằng Anvi-Tricho trở nên tơi xốp, màu đen xám và sẵn sàng cho việc 
mang đi bón cây. Đề tài cũng đề xuất có thể thêm phân chuồng vào thành phần nguyên liệu ủ để tăng chất 
lượng phân hữu cơ sau này. 
Từ khóa: Anvi-Tricho, compost, phân hữu cơ, phụ phẩm nông nghiệp, ủ. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Việt Nam đang trong giai đoạn công nghiệp 
hóa – hiện đại hóa với một số ngành kinh tế 
chủ lực trong đó có ngành nông nghiệp. Mặc 
dù, nhiều diện tích đất nông nghiệp được 
chuyển đổi mục đích sử dụng cho ngành công 
nghiệp. Số lượng các khu công nghiệp vừa và 
nhỏ tăng lên, chiếm dần diện tích đất nông 
nghiệp. Tuy nhiên, sản lượng nông nghiệp 
không ngừng tăng lên dù diện tích đất đang 
ngày càng bị thu hẹp. Theo thống kê của Bộ 
Nông nghiệp và phát triển Nông thôn: sản 
lượng lúa năm 2011 đạt mức 40,78 triệu tấn; 
năm 2012 tăng gấp 1,2% so với năm 2011 đạt 
43 triệu tấn; năm 2014 sản lượng lúa cả nước 
đạt 44,83 triệu tấn; tăng 80,4 vạn tấn so với 
năm 2013. Nguyên nhân do các ngành nông 
nghiệp là một ngành sản xuất nguồn lương 
thực và thực phẩm chủ yếu cung cấp cho cả 
nước và xuất khẩu, đóng góp không nhỏ vào 
GDP. 
Là một nước nông nghiệp, hằng năm lượng 
phế thải dư thừa trong quá trình chế biến các 
sản phẩm nông sản, thực phẩm rất lớn và đang 
dạng về chủng loại. Đó cũng là những nỗi lo về 
bãi chứa, đe dọa ô nhiễm môi trường những địa 
phương có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp. 
Mặc dù nông nghiệp được cơ giới hóa, được 
chú trọng nhưng nó để lại không ít hệ quả ảnh 
hưởng tới môi trường. Trước kia, khi chưa 
được cơ giới hóa trong nông nghiệp, các phế 
phẩm nông nghiệp như rơm rạ, bẹ ngô được 
tái sử dụng. Bẹ ngô được sử dụng làm chất đốt 
trong gia đình, rơm rạ vừa được sử dụng làm 
chất đốt vừa được sử dụng làm thức ăn trong 
chăn nuôi đồng thời cũng được dùng làm 
nguyên liệu ủ phân hữu cơ 
Ngày nay, đời sống con người càng được 
nâng cao, các sản phẩm cung cấp cho nông 
nghiệp ngày càng nhiều. Con người không chú 
trọng đến việc tái sử dụng những phế phẩm 
nông nghiệp, vì thế những phế phẩm này 
thường bị bỏ lại ngay tại đồng ruộng sau khi 
thu hoạch, thậm chí đốt ngay tại ruộng đồng 
gây hậu quả nghiêm trọng tới môi trường đất, 
môi trường nước, môi trường không khí và ảnh 
hưởng đến các vấn đề nhân sinh xã hội khác. 
Ví dụ trong mùa thu hoạch lúa, bà con sử dụng 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
 102 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016 
máy gặt lúa trên đồng ruộng và sau đó chỉ 
mang thóc về. Các sản phẩm dư thừa như rơm 
và rạ, bà con bỏ lại và sau một thời gian sẽ đốt 
bỏ. Nhiều khi, cùng đốt rơm rạ một lúc, hiện 
tượng khói lan tỏa khắp nơi vừa ảnh hưởng đến 
môi trường, vừa ảnh hưởng tới sức khỏe con 
người và thậm chí gây mất an toàn giao thông. 
Xã Phúc Thuận, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái 
Nguyên là một xã thuần nông, nhưng năm gần 
đây với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, 
tình hình kinh tế – xã hội ngày càng phát triển. 
Với việc áp dụng giống mới, các quy trình 
thâm canh cao đã góp phần nâng cao năng suất 
cây trồng, cùng với đố lượng phát thải tàn dư 
nông nghiệp ngày càng tăng. Tất cả nguồn phế 
thải này một phần bị đốt, một phần còn lại gây 
ô nhiễm nghiêm trọng tới môi trường đất và 
môi trường nước, trong khi đó đất đai lại thiếu 
nghiêm trọng nguồn dinh dưỡng cho cây. Vì 
vậy, xử lý tàn dư thực vật trên đồng ruộng 
không chỉ làm sạch môi trường đồng ruộng, 
tiêu diệt ổ bệnh dịch hại cây trồng mà còn có ý 
nghĩa rất lớn trong việc tạo nguồn phân hữu cơ 
tại chỗ trả lại cho đất, giải quyết sự thiếu hụt về 
phân hữu cơ trong thâm canh hiện nay, đồng 
thời giảm bớt chi phí về phân bón, thuốc trừ sâu 
góp phần tăng thu nhập cho người nông dân. 
Do tính chất và mức độ quan trọng như vậy 
nên chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu xử lý 
phụ phẩm nông nghiệp thành phân hữu cơ sử 
dụng chế phẩm vi sinh tại xã Phúc Thuận - 
Phổ Yên - Thái Nguyên, để nâng cao việc sử 
dụng tài nguyên và nguyên liệu có sẵn nhằm 
giảm thiểu tác động đến môi trường và giảm 
chi phí sản xuất cho người nông dân. 
II. NGUYÊN VẬT LIỆU, PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Nguyên vật liệu 
2.1.1. Dụng cụ 
- 4 thùng xốp có kích thước 600 x 450 x 375 
mm vàcó nắp đậy. 
- 1 thùng nhựa có dung tích 300 lít để pha 
chế phẩm. 
- Túi nilon để ủ. 
2.1.2. Nguyên liệu ủ 
- Rơm rạ, thân ngô sau khi thu hoạch. 
2.1.3. Chế phẩm 
Cho 1 kg Anvi Tricho vào thùng nhựa, sau 
đó bổ sung nước sạch đến thể tích 200 lít, sau 
đó khuấy đều. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.3. Phương pháp ủ 
Bước 1: chuẩn bị nguyên liệu 
Rơm rạ, thân ngô sau khi thu hoạch sẽ được 
băm nhỏ đến kích thước dưới 5 cm, sau đó 
đem phơi khô và tách bỏ các thành phần vô cơ 
như sỏi, đá, nilon. Trộn đều hỗn hợp rơm rạ, 
thân ngô và cân 30 kg để làm thí nghiệm. 
Bước 2: Ủ 
Tiến hành trộn đều 30 kg nguyên liệu đã 
chuẩn bị sẵn, sau đó chia nguyên liệu thành 4 
phần, mỗi phần có khối lượng 5 kg. Phần thứ 
nhất đem trộn với bột men rượu sao cho men 
rượu chiếm đều thể tích đống ủ. Phần thứ hai 
đem trộn với tro sao cho bột tro chiếm đều thể 
tích đống ủ. Phần thứ ba chỉ được bổ sung 
nước đến độ ẩm 50% đến 60%. Phần thứ tư 
được tưới chế phẩm Anvi Tricho đã pha đến 
khi độ ẩm của nguyên liệu đạt 50% đến 60% 
(dùng tay nắm chặt, nếu thấy nước rịn ra tay là 
được). Cho lần lượt 4 phần này vào trong 4 túi 
nilon, sau đó đặt vào 4 thùng xốp đã chuẩn bị 
sẵn và đã được đánh số từ 1 đến 4. Tiến hành 
thắt miệng túi nilon và đậy nắp thùng xốp lại. 
Bước 3: Kiểm tra độ chín và chất lượng của 
đống ủ 
Tiến hành lấy mẫu đống ủ lần lượt trong các 
ngày thứ 1, thứ 7, thứ 14, thứ 21 và thứ 28 để 
phân tích các chỉ tiêu dinh dưỡng, từ đó theo 
dõi quá trình biến đổi và đánh giá chất lượng 
các đống ủ. 
Sau ngày thứ 28 thì tiến hành kiểm tra độ chín 
của các đống ủ thông qua phương pháp kiểm tra 
ủ và độ tơi của đống ủ (nhiệt độ ổn định từ 30 
đến 40oC, sờ không thấy cảm giác bỏng rát, phân 
ủ tơi, có màu đen thì đống ủ chín). 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
 103TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016 
2.4. Phương pháp phân tích 
Đề tài tập trung phân tích 03 chỉ tiêu quan 
trọng đặc trưng cho chất lượng của phân, đó là 
tổng N, tổng P và tổng K. Hàm lượng tổng 
Nitơ được xác định theoTCVN 8557:2010 - 
Phương pháp xác định nitơ tổng số.Hàm lượng 
tổng Photpho được xác định theoTCVN 
8563:2010 - Phương pháp xác định Photpho 
tổng số. Còn hàm lượng tổng Photpho được 
xác định theo TCVN 8562:2010 - Phương 
pháp xác định Kali tổng số. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Kết quả điều tra hiện trạng sử dụng đất 
nông nghiệp và sủ dụng phụ phẩm sau khi 
sản xuất nông nghiệp của xã Phúc Thuận 
- Xã Phúc Thuận có tổng diện tích đất tự 
nhiên toàn xã là 5.254,95 ha; trong đó, diện 
tích đất canh tác nông – lâm nghiệp là 4.556 
ha, chiếm 86,7% diện tích đất tự nhiên; diện 
tích đất phi nông nghiệp, đất ở nông thôn là 
698,95 ha, chiếm 13,3% diện tích tự nhiên. 
Dân số của xã năm 2015 là 13.269 người, lao 
động chủ yếu là dành cho nông nghiệp. Cơ cấu 
kinh tế năm 2015 là nông – lâm nghiệp đạt 
45%, công nghiệp – xây dựng đạt 28%, thương 
mại – dịch vụ đạt 27%. 
- Do sản xuất nông nghiệp chiếm thành 
phần cao nên sinh nhiều phế thải nông nghiệp. 
Lượng phế thải này được bà con nông dân sử 
dụng chưa hợp lý và không hiệu quả. Phế thải 
nông nghiệp được người dân xử lý chủ yếu 
bằng phương pháp đốt (83,3%), làm thức ăn 
cho gia súc (11,1%), tuy nhiên ủ làm phân hữu 
cơ là 0%. Với cách xử lý hiện tại của bà con đã 
gây tổn thất một lượng lớn chất hữu cơ và làm 
ô nhiễm môi trường. 
3.2. Đánh giá chất lượng đống ủ thí nghiệm 
Sau khi ủ, ta tiến hành lấy các mẫu phân ủ 
từ các thùng vào các ngày thứ 1, 7, 14, 21, 
28,rồi tiến hành phân tích các chỉ tiêu dinh 
dưỡng để đánh giá và so sánh chất lượng đống 
ủ sử dụng men vi sinh Anvi Tricho với các 
đống ủ đối chứng. 
3.2.1. Kết quả phân tích tỷ lệ K2O có trong 
các đống ủ 
Mẫu 1: Ủ với men rượu Mẫu 2: Ủ với tro 
Mẫu 3: Bổ sung nước và ủ Mẫu 4: Ủ với chế phẩn Anvi 
tricho 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
 104 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016 
Hình 1. Biểu đồ tỷ lệ K2O của các đống ủ qua các ngày lấy mẫu 
Theo hình 1, so sánh mẫu có sử dụng Anvi-
tricho với các đống ủ đối chứng thấy rằng: 
đống ủ có sử dụng men rượu cho tỷ lệ kali tăng 
dần theo thời gian ủ tuy nhiên tăng chậm hơn 
so với men vi sinh Anvi – tricho, men rượu có 
hoạt độ và khả năng phân hủy nhưng yếu hơn 
Anvi-tricho và không phù hợp với việc ủ phân 
compost do giá thành của men rượu cao. Khi ủ 
với tro thì tỷ lệ kali lúc đầu tăng cao, sau khi ủ 
từ 7 đến 14 ngày thì tỷ lệ giảm dần nhưng sau 
đó tăng chậm trở lại. Có thể lý giải như sau, vì 
bản thân tro có chứa tỷ lệ lớn của kali nên giai 
đoạn đầu tiên tỷ lệ kali cao, sao đó kali bị hấp 
thụ bởi độ ẩm và phân tán rộng trong đống ủ 
nên làm cho nồng độ kali giảm dần, nhưng sau 
một thời gian khi nguyên liệu bắt đầu phân hủy 
thì nồng độ kali tăng lên lại, nhưng ở mức độ 
tăng chậm hơn. Ở đống ủ chỉ có rơm rạ thân 
ngô tỷ lệ kali thay đổi không ổn định và hầu 
như không đổi trong suốt quá trình ủ. Trong 
suốt thời gian ủ, thì nồng độ kali trong đống ủ 
có sử dụng chế phẩm Anvi-tricho liên tục tăng 
với tốc độ nhanh, và sau 28 ngày ủ, đống ủ 
mẫu 4 có tỷ lệ kali cao nhất trong các đống ủ. 
Điều này cho thấy hiệu quả chuyển hóa kali 
của chế phẩm Anvi – tricho là cao nhất. 
Hình 2. Biểu đồ tỷ lệ Nitơ của các đống ủ qua các ngày lấy mẫu 
Theo hình 2, hàm lượng Nitơ có trong công 
thức ủ với men vi sinh Anvi-tricho (mẫu 4) có 
tỷ lệ tăng dần trong quá trình ủ, tuy nhiên tỷ lệ 
Nitơ có trong công thức ủ với tro cao nhất là 
do lượng Nitơ có sẵn trong tro. Hàm lượng 
Nitơ trong công thức ủ rơm rạ, thân ngô với 
nước là thấp nhất do không có sự thúc đẩy quá 
trình phân hủy. Còn mẫu ủ với men rượu thì 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
 105TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016 
hàm lượng Nitơ có tỷ lệ gần cao bằng so với ủ 
với men vi sinh. Sau 28 ngày ủ, lượng Nitơ có 
trong mẫu ủ tro vẫn là cao nhất do lượng nito 
có sẵn ban đầu, mẫu ủ bằng chế phẩm vi sinh 
Anvi-tricho có tỷ lệ Nitơ tương đối cao và cao 
hơn mẫu ủ bằng men rượu và mẫu ủ không. 
Điều này cho thấy chế phẩm Anvi-tricho có tác 
dụng tốt trong quá trình chuyển hóa Nitơ đối 
với nguyên liệu là phụ phẩm nông nghiệp. 
Ngoài ra, nếu chỉ đề cập đến tỷ lệ Nitơ thì mẫu 
ủ với tro cho tỷ lệ Nitơ cao và ổn định nhất. 
Tuy nhiên, với phân vi sinh, ta phải xét cả 03 
chỉ tiêu là N, P và K, do vậy cần phải phân tích 
thêm 2 chỉ tiêu còn lại, mới có đánh giá toàn 
diện chất lượng các đống ủ. 
Hình 3. Biểu đồ tỷ lệ P2O5 của các đống ủ qua các ngày lấy mẫu 
Theo hình 3, cho thấy rằng hàm lượng 
photpho có trong công thức ủ rơm rạ, thân ngô 
với men vi sinh Anvi-tri cho là cao nhất, với 
các đống ủ còn lại hàm lượng tăng nhưng 
không nhiều và có thể xem là không đổi nếu so 
với ngày đầu tiên và ngày thứ 28. Cụ thể, sau 
28 ngày ủ, hàm lượng photpho có trong mẫu ủ 
bằng chế phẩm đạt 1,76%, cao gấp 2,2 lần so 
với mẫu ủ bằng men rượu, gấp 2,05 lần so với 
mẫu ủ bằng tro và gần 2 lần so với mẫu ủ 
không. Điều này cho thấy hiệu quả rất lớn của 
việc sử dụng chế phẩm Anvi-tricho trong quá 
trình chuyển hóa photpho khi ủ phân hữu cơ. 
Đặc biệt, sau ngày ủ thứ 28, đống ủ có sử 
dụng chế phẩm Anvi-tricho trở nên tơi, có màu 
đen. Điều này cho thấy sau 28 ngày thì đống ủ 
sử dụng chế phẩm sẽ đến giai đoạn chín, đã sẵn 
sàng cho việc sử dụng cho công việc bón cây. 
Khi ứng dụng ngoài thực tế, có thể bổ sung 
thêm phân chuồng ngay khi bắt đầu ủ để tăng 
chất lượng đống ủ. 
3.2.2. Đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội, môi 
trường 
3.2.2.1. Hiệu quả về xã hội 
Trong 5 năm trở lại đây, Việt Nam luôn là 
nước nhập siêu phân bón. Theo số liệu của 
Tổng cục Hải quan, năm 2015, tổng kim ngạch 
xuất khẩu mặt hàng phân bón đạt 793 nghìn 
tấn, trị giá 280 triệu USD. Do vậy, việc ủ thành 
công phân vi sinh sẽ giúp giải quyết sự thiếu 
hụt về phân hữu cơ, đáp ứng đầy đủ nhu cầu 
phân bón trong thâm canh và giảm nhu cầu 
nhập khẩu phân bón của nước ta. Ngoài ra, giải 
quyết lao động nhàn rỗi của nông hộ, ổn định 
an ninh chính trị của địa phương. Hơn thế nữa, 
việc người nông dân trực tiếp sản xuất được 
phân vi sinh, sẽ giúp nâng cao nhận thức bảo 
vệ môi trường cho người dân để tạo ra một môi 
trường trong lành, nâng cao sức khỏe và hiệu 
quả lao động của toàn xã hội. 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
 106 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016 
3.2.2.2. Hiệu quả về môi trường 
Trung bình phụ phẩm nông nghiệp phát sinh 
từ 1 đến 2 tấn/ha tùy thuộc vào loại cây trồng, 
do vậy, phụ phẩm nông nghiệp được ủ làm 
phân vi sinh sẽ hạn chế được hiện tượng đốt 
sau khi thu hoạch, hoặc đổ phụ phẩm ra ao hồ 
sông ngòi, nên hạn chế được ô nhiễm môi 
trường. Một ý nghĩa vô cùng quan trọng nữa là 
xử lý tàn dư cây trồng theo như đề tài sẽ góp 
phần tiêu diệt mầm mống sâu bệnh và làm sạch 
đồng ruộng. 
3.2.2.3. Hiệu quả về kinh tế 
Trong các mẫu ủ, thì mẫu ủ tro và nước có 
chi phí rẻ nhất, nhưng chất lượng phân vi sinh 
sau khi ủ không cao. Đối với mẫu ủ có sử dụng 
men rượu cho chất lượng phân vi sinh tốt hơn 
mẫu ủ tro và nước, nhưng lại kém hơn mẫu ủ 
sử dụng chế phẩm Anvi-tricho. Ngoài ra, giá 
thành cho 1kg men rượu cao hơn giá thành của 
1kg chế phẩm Anvi-tricho. 
- Chi phí đầu tư để xử lý 1 tấn phế phụ 
phẩm bằng sử dụng chế phẩm Anvi-tricho. 
+ Lượng chế phẩm cho 1 tấn nguyên liệu: 
1,5 kg chế phẩm x 30.000 đồng/0,5kg = 90.000 
đồng. 
+ Phụ gia bổ sung phân chuồng (nếu có): 
0,1 tấn x 42.000 đồng/25 kg = 168.000 đồng. 
+ Túi nilong che phủ khi ủ = 20.000 đồng. 
+ Tổng chi phí cho xử lý phế phụ phẩm 
thành phân hữu cơ là 278.000 đồng. 
- Khi xử lý 1 tấn phế phẩm như vậy thì sẽ thu 
được 0,4 tấn phân hữu cơ. Hiện nay giá bán 1 
tấn phân hữu cơ ngoài thị trường là 1.000.000 
đồng/1 tấn. Vậy thu nhập từ xử lý 1 tấn phụ 
phẩm là 0,4 x 1.200.000 = 480.000 đồng. 
- Lãi thu được từ xử lý 1 tấn rơm rạ: 
480.000 đồng – 278.000 đồng = 202.000 đồng 
Xét về cả chất lượng phân vi sinh sau khi ủ 
và chi phí thì phương pháp ủ sử dụng Anvi-
tricho cho kết quả khả quan nhất. 
3.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý và xử 
lý phế thải đồng ruộng 
3.3.1. Giải pháp tuyên truyền và giáo dục 
cộng đồng 
Đây là phương pháp quan trọng hàng đầu. 
Giải pháp này mang lại hiệu quả lâu dài làm 
thay đổi dần những tập quán cũ có từ lâu đời. 
Để thực hiện biện pháp này cần: 
- Tuyên truyền qua các kênh thông tin đại 
chúng, phương tiện truyền thông như loa phát 
thanh của địa phương, thông qua các chương 
trình văn hóa văn nghệ... để nâng cao nhận 
thức của người dân trong việc quản lý và xử lý 
phế thải đồng ruộng. Tổ chức phong trào toàn 
dân tham gia bảo vệ môi trường, xây dựng các 
chương trình làng xóm sạch sẽ. Hàng năm 
bình xét và có chính sách khen thưởng các 
đơn vị, hộ gia đình làm tốt công tác bảo vệ 
môi trường. 
- Giáo dục trong các trường học để nâng cao 
nhận thức của học sinh. Việc xây dựng ý thức 
bảo vệ môi trường cho công dân phải được 
thực hiện từ nhỏ, tổ chức các chương trình học 
tập, vui chơi có lồng ghép vấn đề môi trường. 
3.3.2. Giải pháp về quản lý 
- Tổ chức các lớp tập huấn để nâng cao 
trình độ và năng lực quản lý các cán bộ môi 
trường, xây dựng nền tản kiến thức để phổ biến 
cho người dân. 
- Quản lý tốt và phải quan tâm đến chất 
lượng đầu vào và cả sản phẩm của quá trình 
sản xuất nông nghiệp. 
+ Lựa chọn những giống cây trồng có sức 
đề kháng tốt, tỷ lệ cây có sức sống cao, tránh 
phát sinh ra nhiều phế phụ phẩm trong quá 
trình sinh trưởng của cây trồng. 
+ Hướng dẫn nông dân canh tác theo 
hướng đầu tư thâm canh và áp dụng các biện 
pháp cải tạo, nâng cao chất lượng đất, giảm 
diện tích đất thoái hóa, bị bạc màu trong sản 
xuất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật 
làm giảm lượng hóa chất bảo vệ thực vật, hạn 
chế ô nhiễm môi trường. 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
 107TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016 
3.3.3. Giải pháp về xử lý 
Hiện nay, trong địa bàn xã Phúc Thuận nói 
riêng và cả nước nói chung thì tình hình sử 
dụng phân bón hữu cơ (compost) cho cây trồng 
tương đối ít, lượng phân hữu cơ đó chủ yếu là 
phân chuồng. Đa phần, người dân lạm dụng 
phân hóa học gây ra thoái hóa đất đai, làm mất 
khả năng sản xuất của đất. Mặt khác, giá thành 
vật tư nông nghiệp leo thang, gây bất lợi cho 
người dân trong sản xuất. Do vậy, việc sử dụng 
phương pháp ủ phụ phẩm nông nghiệp bằng 
men vi sinh có thể bổ sung thêm phân chuồng 
là giải pháp cần thiết hiện nay. Với phương 
pháp này, phế thải đồng ruộng được thu gom 
và ủ thành phân hữu cơ. Sử dụng các chế phẩm 
vi sinh vật sẽ làm đẩy nhanh quá trình phân 
hủy chất hữu cơ, tăng cường hiệu quả xử lý. 
Các chất thải này sau quá trình ủ sẽ trở 
thành hỗn hợp tơi xốp, có màu đen nâu, không 
có mùi hôi thối, bón ra đồng ruộng đem lại 
hiệu quả cao. Phương pháp này không chỉ phù 
hợp với điều kiện xã Phúc Thuận, huyện Phổ 
Yên, tỉnh Thái Nguyên mà còn phù hợp với 
các địa phương thuần nông khác trong cả nước. 
Ngoài ra, phụ phẩm từ hoạt động sản xuất 
nông nghiệp có thể được sử dụng để làm môi 
trường đệm để trồng nấm, làm thức ăn gia súc... 
IV. KẾT LUẬN 
- Xã Phúc Thuận có tổng diện tích đất tự 
nhiên toàn xã là 5.254,95 ha; trong đó, diện 
tích đất canh tác nông – lâm nghiệp là 4.556 
ha, chiếm 86,7% diện tích đất tự nhiên; diện 
tích đất phi nông nghiệp, đất ở nông thôn là 
698,95 ha, chiếm 13,3% diện tích tự nhiên. 
- Lượng phế phẩm từ sản xuất nông nghiệp 
phát sinh lớn, được bà con nông dân sử dụng 
chưa hợp lý và không hiệu quả. Phế thải nông 
nghiệp được người dân xử lý chủ yếu bằng 
phương pháp đốt (83,3%), làm thức ăn cho gia 
súc (11,1%), tuy nhiên ủ làm phân hữu cơ là 
0%. Với cách xử lý hiện tại của bà con đã gây 
tổn thất một lượng lớn chất hữu cơ và làm ô 
nhiễm môi trường. 
- Xử lý rơm rạ theo quy trình của đề tài với 
4 công thức: 1 công thức thí nghiệm (ủ với chế 
phẩm vi sinh) và 3 công thức đối chứng (ủ với 
men rượu, với tro và không sử dụng thêm phụ 
gia). Sau 1, 7, 14, 21, 28 ngày ủ lấy mẫu để 
kiểm tra tốc độ phân hủy và chất lượng sau khi 
ủ của thí nghiệm. 
- Qua thí nghiệm của đề tài cho thấy tốc độ 
phân hủy giữa các công thức thí nghiệm là 
khác nhau. Trong suốt thời gian ủ thì mẫu ủ 
bằng chế phẩm vi sinh Anvi – tricho cho kết 
quả tốt nhất không gây mùi hôi thối, có màu 
đen sậm và đảm bảo các thành phần cần cho 
phân compost. 
- Việc sử dụng chế phẩm vi sinh để ủ phụ 
phẩm nông nghiệp thành phân compost là một 
trong những giải pháp hiệu quả cho việc hạn 
chế ô nhiễm môi trường vùng nông thôn hiện 
nay, ngoài ra, đây sẽ là hướng đi đúng đắn để 
tiến đến công nghệ xanh trong nông nghiệp, 
đảm bảo sinh kế và phát triển bền vững kết hợp 
với bảo vệ môi trường. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đào Lệ Hằng (2008), Kỹ thuật sản xuất thức ăn từ 
các phụ phẩm nông công nghiệp, Nxb. Hà Nội. 
Nguyễn Xuân Thành và cs (2003), Vi sinh vật học 
nông nghiệp, Nxb. Giáo dục. 
2. Nguyễn Lân Dũng (1984), Vi sinh vật đất và sự 
chuyển hoá các hợp chất cacbon, nitơ, Nxb. Khoa học 
Kỹ thuật Hà Nội 80 – 82. 
3. Virkola, N. E (1975), symposium of enzymatic 
hydrolysis of cenllulose SIRTA, Aulanko, Finland 23. 
4. Grinffin, H.L and J.H Kaneshino (1975), 
“Symposium of enrymatic hydrolysis of cellulose” 
SIRTA, Aulanko, Finland 419. 
5. Erikson, K. E. and T. M. Wood (1985), 
Biodegradation of cellulose. In "T. Higuchi. Ed. Biosynthesis 
and Biodegradation of wood component 69 – 504. 
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường 
 108 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016 
TREATMENTS OF AGRICULTURAL BYPRODUCTS WITH ORGANIC 
COMPOUND BY MICROORGANISM IN PHUC THUAN COMMUNE – 
PHO YEN DISTRICT – THAI NGUYEN PROVINCE 
Le Phu Tuan1, Vu Thi Kim Oanh2, Nguyen Thi Thu Phuong3 
1,2,3Vietnam National University of Forestry 
SUMMARY 
Currently, the pollution in rural areas is alarming, not only by the widespread use of plant protection drug, 
chemical fertilizers, but also a significant contribution from the irrational use of byproducts agriculture. After 
the harvest, most products from straw, roots, stems etc... are dried and burned or thrown into the street, into the 
pond, river and stream, leading to an increase of pollutants and congestion flow. In the environmental aspect, 
the agricultural byproduct is a resource. The use of agricultural by product as compost is considered as one of 
the best solutions because the waste may be used to make organic fertilizers. This study has conducted the 
experiment of agricultural byproduct incubated with selected bio-products (Anvi-Tricho) and other mixtures as 
yeast, ash and water for the control samples. Experimental results showed that the nutritional components, such 
as N, P, K in the used sample (Anvi-Tricho) are higher than the control samples, especially after 28 days, the 
samples incubated in Anvi-Tricho become porous, black gray and ready to take away as fertilizer. This study 
also proposes adding manure into compost ingredients to increase the quality of compost later. 
Keywords: Agricultural residues, Anvi-Tricho, compost, organic fertilizers. 
Người phản biện : TS. Nguyễn Hải Hòa 
Ngày nhận bài : 08/11/2016 
Ngày phản biện : 15/11/2016 
Ngày quyết định đăng : 28/11/2016 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nghien_cuu_xu_ly_phu_pham_nong_nghiep_thanh_phan_huu_co_su_d.pdf nghien_cuu_xu_ly_phu_pham_nong_nghiep_thanh_phan_huu_co_su_d.pdf